← Quay lại trang sách

Chương 24

JULIETTE BƯỚC VÀO CHỐT GIÓ ĐỂ LẤY MẪU; cô cảm nhận được sức nóng từ ngọn lửa ban nãy – hoặc cũng có khi cô chỉ đang tưởng tượng ra mà thôi. Dễ chừng nguyên nhân là thân nhiệt của chính cô đang tăng lên bên trong bộ đồ. Hoặc cũng có thể thứ khơi dậy cảm nhận ấy chỉ đơn thuần là chiếc hộp được đậy kín trên băng ghế đợi, nắp đã bị lửa liếm láp đến đổi cả màu.

Cô kiểm tra hộp bằng lòng bàn tay đeo găng. Chất găng bao trên tay cô không quánh lại và dính rịt vào lớp kim loại; sờ vào thấy nguội ngắt. Hơn một giờ cọ rửa, thay bộ đồ mới, lau chùi cả hai chốt gió, bây giờ đến một hộp đầy nhóc manh mối. Một chiếc hộp đựng không khí, đất, và các mẫu khác lấy từ bên ngoài. Có lẽ những manh mối này sẽ cho bọn họ biết thế giới bị làm sao.

Cô lấy hộp và quay về nhập bọn cùng những người khác ở bên kia chốt gió thứ hai. Đợi sẵn ở đó là một chiếc rương lớn có lót chì, mọi mối nối đều được hàn kín, bên trong gắn đệm. Chiếc hộp đựng mẫu được đặt vào bên trong. Sau khi đóng nắp lại, Nelson hàn thêm cho nó một vòng bít kín, còn Lukas thì giúp Juliette tháo bỏ mũ bảo hộ. Sau khi cởi mũ, cô mới nhận ra nhịp thở của mình đã trở nên dồn dập như thế nào. Cô đã bắt đầu bị ảnh hưởng vì phải mặc bộ đồ đó.

Cô ngó ngoáy cởi đồ trong khi Peter Billings niêm phong cả hai chốt gió lại. Trong tuần vừa qua, văn phòng cạnh khu nhà ăn của cậu ta đã trở thành một công trường xây dựng, và cô biết cậu ta sẽ mừng rơn nếu mọi người rời đi hết. Juliette đã hứa sẽ tháo dỡ khoang chốt gió thứ hai ngay khi có thể, nhưng khả năng cao bọn họ sẽ phải ra ngoài thêm nhiều lần nữa rồi mới làm vậy được. Trước mắt, cô muốn nghiên cứu mấy mẫu khí bên ngoài mình đã mang vào tháp. Mà đường đến Phòng làm đồ bảo hộ dưới tầng ba mươi tư thì xa lắm.

Nelson và Sophia đi trước để dọn quang cầu thang. Juliette và Lukas theo sau, mỗi người ôm một bên rương như hai người khuân vác làm ca khuân hàng chung . Lại một pha vi phạm bản Hiệp Ước nữa , Juliette thầm nghĩ. Người mặc đồ bạc làm việc khuân vác . Bây giờ, khi nắm giữ cương vị bảo vệ luật pháp, liệu cô có thể vi phạm được bao nhiêu điều luật đây? Cô có thể biện minh cho hành động của mình khôn khéo đến mức nào?

Tâm trí cô trôi dạt từ những hành vi hai mặt của mình đến cuộc đào bới sâu tít bên dưới, đến tin báo Courtnee đã đào xuyên đến nơi, tin báo Độc Một Mình và bọn trẻ vẫn an toàn. Cô ghét cái cảnh không thể ở bên họ dưới đấy, nhưng ít nhất vẫn còn có bố cô. Ban đầu, bố cô chẳng muốn hỗ trợ hành trình ra ngoài thám hiểm của cô, dù là trong bất kỳ vai trò nào; sau đó ông lại không chịu rời chỗ cô để xuống khám cho bọn trẻ. Juliette đã thuyết phục ông rằng họ đã chuẩn bị đủ mọi biện pháp đề phòng rồi, thế nên không nhất thiết phải kiểm tra sức khỏe của cô nữa.

Cái rương đung đưa và đập đánh keng vào lan can, nghe chói hết cả tai, cô cố gắng tập trung vào nhiệm vụ trước mắt.

“Em ổn bên đầu đó chứ?” Lukas gọi.

“Sao mà đội khuân vác làm được việc này thế nhỉ?” cô hỏi và đổi tay. Chiếc rương lót chì nặng nề trĩu xuống và thân hình cồng kềnh của nó làm vướng chân cô. Lukas ở dưới thấp và có thể đi giữa cầu thang với tay duỗi thẳng bên hông – trông thoải mái hơn nhiều. Tại vị trí cao hơn của mình, cô không thể làm được điều tương tự. Xuống đến chiếu nghỉ tiếp theo, cô yêu cầu Lukas đợi trong khi mình tháo chiếc đai lưng luồn quanh eo bộ đồ liền thân ra, buộc nó vào tay cầm của rương, rồi quàng nó qua vai theo kiểu cô từng trông thấy một người khuân vác đã làm. Lối đỡ này cho phép cô đi chếch sang bên hông rương, để trọng lượng của rương tì lên eo mình, giống như cách người ta mang những túi đen đựng thi thể đi chôn cất. Sau khi xuống được một tầng, Juliette gần như đã thoải mái với thế khuân đấy và cô bắt đầu thấy công việc khuân vác có phần hay họ. Nó cho ta thời gian suy nghĩ. Trong khi cơ thể di chuyển, tâm trí con người sẽ lặng đi. Nhưng rồi ý nghĩ về những chiếc túi đen và thứ mà cô và Lukas đang khuân lại tràn về, khiến dòng suy nghĩ của cô bị phủ dưới một cái bóng đen ngòm.

“Tình hình anh thế nào?” cô hỏi Lukas sau khi họ đã xuống hết hai lượt cầu thang hoàn toàn trong im lặng.

“Vẫn ổn,” anh nói. “Chỉ băn khoăn không hiểu mình đang mang theo thứ gì thôi ấy mà. Trong rương là gì vậy nhỉ?”

Hóa ra đầu óc anh cũng đã lạc vào chốn tăm tối tương tự.

“Anh nghĩ rằng đây không phải ý hay hả?” cô hỏi.

Anh không trả lời. Khó mà đoán nổi động tác anh vừa làm là một cái nhún vai, hay anh chỉ điều chỉnh thế cầm.

Họ băng qua một chiếu nghỉ nữa. Nelson và Sophia đã dùng băng dính niêm kín cửa lại, nhưng phía sau tấm kính bẩn thỉu vẫn có những khuôn mặt người nhòm ra quan sát. Juliette trông thấy một cụ bà áp một cây thánh giá sáng màu vào lớp kính. Khi cô quành qua khúc cua, cụ xoa xoa cây thánh giá rồi hôn nó, và Juliette nghĩ đến Cha Wendel cùng cái quan điểm cô chỉ đang gieo rắc kinh hoàng chứ không hề mang hy vọng đến cho tháp giống. Y và nhà thờ mới là nguồn cung cấp hy vọng, một chốn để tồn tại sau khi chết. Nỗi sợ hãi sinh ra từ việc thay đổi nhằm cải thiện thế giới cũng ẩn chứa nguy cơ khiến nó trở nên tồi tệ hơn.

Cô đợi đến khi họ đã xuống quá chiếu nghỉ. “Luke này?”

“Sao thế?”

“Anh có bao giờ tự hỏi chuyện gì sẽ xảy đến với chúng ta sau khi ta nhắm mắt không?”

“Anh biết chuyện gì xảy ra với chúng ta mà,” anh nói. “Người ta sẽ trét bơ và gặm sạch sành sanh chúng ta.”

Anh bật cười trước câu đùa của chính mình.

“Em hỏi nghiêm túc đấy. Anh có nghĩ rằng linh hồn của chúng ta sẽ hòa vào những đám mây và tìm thấy một nơi nào đó tốt đẹp hơn không?”

Anh ngừng cười. “Không” anh nói sau một hồi lâu im lặng. “Anh nghĩ chúng ta sẽ chỉ đơn thuần ngưng tồn tại thôi.”

Họ đi hết một khúc cua và qua một chiếu nghỉ khác, một cánh cửa nữa được dán băng keo và niêm phong lại để đề phòng. Juliette nhận ra giọng họ đang vọng lên dọc theo một cây cầu thang yên tĩnh và vắng tanh.

“Anh không lo chuyện một ngày kia, mình sẽ không còn trên cõi đời này nữa,” một lúc sau, Lukas nói. “Việc một trăm năm trước anh còn không có mặt trên đời đâu khiến anh phiền não gì. Anh nghĩ cái chết khá giống như thế. Một trăm năm nữa, anh cũng sẽ giống như anh một trăm năm trước vậy.”

Một lần nữa, anh hoặc điều chỉnh thế nắm, hoặc nhún vai. Chẳng biết đâu mà lần.

“Anh biết thứ gì tồn tại mãi mãi đấy.” Anh quay đầu lại để đảm bảo rằng cô nghe thấy lời mình, và Juliette chuẩn bị tinh thần đón nhận một đáp án sến súa như “tình yêu” hoặc một câu đùa nhạt thếch kiểu “món thịt hầm của em”.

“Thứ gì tồn tại mãi mãi thế?” cô miễn cưỡng hỏi, cảm nhận được anh đang đợi mình lên tiếng, dù đinh ninh rằng hỏi thì sẽ hối hận.

“Quyết định của ta,” anh nói.

“Mình dừng lại một chút được không?” Juliette nói. Chỗ đai lưng chà xát vào cổ cô đang rát. Cô đặt phía rương mình đang khiêng xuống bậc thang bên dưới, còn Lukas thì vẫn ôm nguyên phía rương của mình để giữ thăng bằng cho nó. Cô kiểm tra nút buộc và bước vòng sang bên kia để đổi vai. “Em xin lỗi nhé... ‘quyết định của ta’ á?” Cô chẳng hiểu ý anh là sao.

Lukas quay lại, mặt đối mặt với cô. “Ừ. Hành động của chúng ta ấy, em biết đó? Chúng sẽ mãi mãi tồn tại. Bất kể ta có làm gì, hành động ấy cũng luôn là một thứ đã từng xảy ra. Không có chuyện vãn hồi được đâu.”

Đây không phải câu trả lời cô mong đợi. Khi anh nói những điều này, giọng anh đượm buồn, còn chiếc rương được đặt trên đầu gối anh. Câu trả lời hết sức giản đơn của anh khiến Juliette không khỏi xúc động. Có gì đó trong câu trả lời ấy tác động đến cô, nhưng cô không chắc nó là gì. “Nói em nghe thêm đi,” cô nói. Cô quàng đai qua vai bên kia và chuẩn bị nhấc rương lên lần nữa. Lukas đưa một tay ra giữ lan can, như thể muốn nghỉ chân ở đây lâu hơn chút.

“Ý anh là, thế giới quay quanh mặt trời, đúng không?”

“Là anh bảo thế thôi.” Cô cười.

“Chà, đó là sự thật đấy. Bộ Di Sản và cái ông ở tháp giống 1 đã xác nhận điều này.”

Juliette cười nhạo, ra chiều muốn bảo cả hai đều không đáng tin cậy. Lukas phớt lờ cô và nói tiếp.

“Điều đó có nghĩa là chúng ta không tồn tại cố định ở một nơi. Thay vào đó, mọi việc ta làm đều bị bỏ lại... thành một vệt ngoài kia, một vòng lớn hợp lại bằng những quyết định. Mọi hành động ta thực hiện...”

“Và sai lầm.”

Anh gật đầu, lấy tay áo chấm trán. “Và mọi sai lầm. Nhưng mọi điều tốt đẹp ta làm cũng vậy. Mọi thay đổi chúng ta tạo ra đều bất tử. Kể cả nếu không ai nhìn thấy chúng hoặc nhớ đến chúng thì cũng chẳng sao. Cái vệt đó, mọi điều ta đã làm, mọi lựa chọn của ta, sẽ luôn là những gì đã từng xảy ra. Quá khứ sống mãi. Nó không thể bị chỉnh sửa.”

“Nghe mà hãi cảnh phạm phải sai lầm thật đấy,” Juliette nói, nghĩ về tất cả những lần cô đã lầm lỡ, tự hỏi liệu chiếc rương giữa họ đây có phải một sai lầm nữa không. Cô chợt thấy những hình ảnh của bản thân, xếp thành một vòng tròn lớn ngoài không gian: cãi vã với bố, đánh mất người yêu, ra ngoài lau chùi – một vòng đớn đau khổng lồ, hệt như một chuyến hành trình leo thang trên đôi bàn chân ứa máu.

Và các vết nhơ sẽ không đời nào phai đi. Lukas đã bảo vậy. Cô sẽ luôn từng làm tổn thương bố mình. Diễn đạt như vậy có đúng không nhỉ? Sẽ luôn từng. Đây là thì bất tử. Một quy tắc ngữ pháp mới. Sẽ luôn từng khiến bạn bè bị giết. Sẽ luôn từng có một người anh trai chết và một người mẹ tự sát. Sẽ luôn từng nhận công việc cảnh sát trưởng chết tiệt đó.

Bát nước đổ đi làm sao hốt lại được nữa. Lời xin lỗi không phải mối hàn; chúng chỉ là một cách thừa nhận rằng đã từng có sự đổ vỡ. Thường là trong một mối quan hệ giữa hai con người với nhau.

“Em ổn chứ?” Lukas hỏi. “Sẵn sàng đi tiếp chưa?”

Nhưng cô biết anh không chỉ hỏi mỗi chuyện tay cô còn mỏi không. Anh có biệt tài phát hiện ra những âu lo thầm kín của cô. Anh có một đôi mắt sắc sảo, cho phép mình soi thấu những đám mây u ám và thấy được ngay cả nỗi đau nhỏ nhất.

“Em ổn mà,” cô nói dối. Và cô lùng sục trong quá khứ của mình, ngõ hầu tìm ra một hành động cao thượng nào đó, một bước đi không vấy máu, một hành động bất kỳ đã giúp thế giới trở thành chốn tươi sáng hơn. Nhưng khi bị đày đi lau chùi, cô đã từ chối lau. Sẽ luôn từng không lau. Cô đã quay lưng bỏ đi, và chẳng còn cơ hội tua ngược về thời điểm ấy để làm lại nữa rồi.

Nelson đợi bọn họ trong Phòng làm đồ bảo hộ. Anh ta đã chuẩn bị xong xuôi và mặc sẵn trên mình bộ đồ thứ hai, nhưng không đội mũ bảo hộ. Bộ đồ Juliette mặc lúc ra ngoài cùng hai bộ họ mặc lúc kì cọ cho cô đã bị bỏ lại trong chốt gió. Chỉ có bộ đàm gắn trong vòng cổ là được giữ lại. Juliette đã đùa rằng chúng cũng quý giá chẳng kém gì mạng người. Nelson và Sophia đã lắp sẵn chúng vào hai bộ đồ này; Lukas sẽ có bộ đàm thứ ba ngoài hành lang.

Chiếc rương được đặt xuống sàn, bên cạnh một cái bàn thợ đã dọn trống; Juliette và Lukas lắc tay cho bớt tê và giúp máu lưu thông lại. “Anh sẽ ra canh cửa nhỉ?” cô hỏi Lukas.

Anh gật đầu và cau có nhìn cái rương lần cuối. Juliette biết anh muốn ở lại giúp đỡ. Anh siết cánh tay cô rồi hôn lên má cô, sau đó rời đi và đóng cửa lại. Juliette ngồi trên giường uốn éo khoác lên mình một bộ đồ nữa, cô nghe tiếng anh và Sophia dán băng keo quanh cửa để niêm nó lại. Các ống thông hơi phía trên đầu đã được bọc trong hai lớp túi. Theo ước tính của Juliette, lượng khí chứa trong lọ chẳng xi nhê gì so với lượng khí cô đã để lọt vào tháp giống 17 – vậy mà cô vẫn sống nhăn đó thôi – nhưng họ vẫn phòng ngừa đủ đường. Họ phải hành động như thể chỉ một lọ cũng chứa đủ chất độc để giết hết mọi người trong tháp. Juliette đã nhất quyết bắt họ tuân thủ điều kiện đấy.

Nelson kéo khóa lưng cho cô và gấp miếng dán gai lại. Cô đeo găng tay vào. Cả hai người cùng đội mũ bảo hộ lên. Để đảm bảo họ có dư dả dưỡng khí và thời gian, cô đã lấy một bình oxy từ bộ đồ hàn. Luồng khí lưu thông được điều chỉnh bởi một núm xoay nhỏ và lượng khí dôi được xả ra ngoài qua một bộ van kép. Lúc kiểm tra hệ thống mình đã thiết lập, Juliette nhận thấy chỉ với dòng không khí lấy từ thùng chứa chung, họ có thể làm việc suốt nhiều ngày liền.

“Anh xong chưa?” cô hỏi Nelson, kiểm tra âm lượng trên bộ đàm.

“Ừ,” anh ta nói. “Sẵn sàng rồi.”

Một mối quan hệ hữu hảo đã hình thành giữa bọn họ – sự đồng điệu của hai người thợ cơ khí trực cùng ca, đêm này qua đêm khác chung tay thực hiện cùng một dự án – và Juliette trân trọng điều đó. Hầu hết các cuộc trò chuyện của họ đều xoay quanh dự án đó, những chướng ngại cần vượt qua, các dụng cụ cần trao đổi. Nhưng cô cũng đã được nghe kể rằng mẹ Nelson từng là một y tá làm việc với bố cô, sau đó chuyển xuống khu dưới sâu để hành nghề bác sĩ. Cô cũng biết chính Nelson đã chế ra hai bộ đồ lau chùi cuối cùng, đã giúp trang bị cho Holston trước khi anh đi lau chùi, và suýt nữa thì đã được phân công xử lý trường hợp của cô. Juliette tin rằng cũng giống như cô, anh ta coi dự án này là con đường giải tội cho mình. Anh ta đã làm việc quần quật, và cô không nghĩ mình có thể kỳ vọng ở bất cứ ai khác một sự siêng năng như thế. Cả hai đều đang cố gắng bù đắp lại mọi chuyện.

Cô chọn lấy một chiếc tuốc nơ vít dẹt từ giá dụng cụ, rồi bắt đầu cạo lớp hàn bít quanh nắp rương. Nelson lấy một tuốc nơ vít khác và tiến hành cạo từ phía mình. Khi họ cạo đến chỗ nhau, cả hai cùng kiểm tra lại một lượt, và họ mở nắp rương, phơi bày chiếc hộp kim loại mang vào từ băng ghế trong chốt gió. Họ nhấc cái hộp ấy ra, đặt nó lên một mặt bàn đã được dọn trống. Juliette lưỡng lự. Từ các bức tường, hàng chục bộ đồ lau chùi nhìn xuống bọn họ, lẳng lặng phê phán.

Nhưng họ đã áp dụng đủ mọi biện pháp phòng ngừa rồi mà. Ngay cả những biện pháp hết sức lố bịch. Bộ đồ họ mặc đã được lột bỏ mọi lớp đệm thừa thãi để quá trình làm việc trở nên thuận tiện hơn. Cả cặp găng tay cũng vậy. Mọi đòi hỏi của Lukas đều được cô chấp nhận. Cô làm hệt kiểu Shirly đã làm với máy phát điện dự phòng và cỗ máy đào, cẩn trọng đến độ cho hạ công suất máy phát chính xuống để giảm tải điện, thậm chí còn gài thuốc nổ vào đường hầm phòng khi xảy ra lây nhiễm, bất cứ phương pháp phòng ngừa nào để giúp dự án không bị cản trở.

Sực nhận ra Nelson đang chờ mình, Juliette bừng tỉnh, quay về với hiện tại. Cô nắm lấy nắp và mở nó, lôi các mẫu vật ra. Có hai mẫu không khí, một mẫu argon lấy từ chốt gió để làm chuẩn kiểm tra, một mẫu đất trên bề mặt và một mẫu sâu dưới lòng đất, cùng một mẫu lấy từ cái xác khô quắt. Lần lượt từng mẫu được đặt lên bàn, thế rồi cái hộp kim loại được dọn sang bên.

“Cô muốn bắt đầu từ mẫu nào?” Nelson hỏi. Anh ta vơ lấy một đoạn ống thép ngắn, phía đầu nhét một viên phấn – một cây viết tự chế, thích hợp với những bàn tay đeo găng. Trên bàn có kê một tấm bảng đen, sẵn sàng phục vụ việc ghi chép.

“Bắt đầu với các mẫu khí trước đi,” cô nói. Mất mấy tiếng đồng hồ họ mới đưa được các mẫu xuống đến phòng thí nghiệm. Cô thầm sợ rằng các gioăng đệm hiện đã bị ăn nhẵn rồi, chẳng còn gì để quan sát nữa. Juliette kiểm tra nhãn mác trên các lọ và tìm thấy lọ số “2”. Mẫu này được lấy gần những ngọn đồi.

“Cô biết không, chuyện này kể cũng trớ trêu thật,” Nelson nói.

Juliette đón lấy lọ đựng mẫu từ anh ta và nhìn qua nắp nhựa trong suốt. “Ý anh là sao?”

“Chỉ là...” Anh ta quay người kiểm tra đồng hồ trên tường, ghi mốc thời gian lên bảng, sau đó áy náy liếc nhìn Juliette. “Được phép làm việc này, được kiểm tra xem ngoài kia có gì, thậm chí còn có thể bàn luận về nó. Ý tôi là, tôi đã chế ra bộ đồ của cô. Tôi còn là kỹ thuật viên chính đã thiết kế nên bộ đồ của anh cảnh sát trưởng nữa cơ.” Đằng sau vòm mũ bảo hộ trong suốt, anh ta cau mày. Juliette có thể thấy trán anh ta hắt sáng loang loáng. “Tôi vẫn nhớ lúc mình giúp anh ấy mặc đồ.”

Đây là lần thứ ba hoặc thứ tư gì đó anh ta lóng ngóng tìm cách xin lỗi, và Juliette đánh giá cao nỗ lực ấy của anh ta. “Anh chỉ làm nhiệm vụ thôi mà,” cô trấn an. Và rồi cô nghiền ngẫm về sức mạnh khôn lường của lối tư duy đó, về cách con người ta có thể dấn sâu vào một con đường ác độc trong khi chỉ đang lầm lũi làm đúng nhiệm vụ của mình.

“Nhưng điều trớ trêu là căn phòng này...” Anh ta khua một bàn tay đeo găng về phía những bộ đồ đang nhìn xuống từ trên tường. “Ngay cả mẹ tôi cũng tưởng mục đích của căn phòng này là để giúp đỡ người khác, giúp những người lau chùi trụ được càng lâu càng tốt, giúp ta khám phá cái thế giới bên ngoài mà không ai được phép nhắc đến. Giờ thì ta đang làm chính điều đó đây. Và không chỉ đơn thuần nhắc đến nó thôi.”

Juliette chẳng nói chẳng rằng, nhưng anh ta nói đúng. Căn phòng này vừa đại diện cho hy vọng, vừa là hiện thân của nỗi khiếp hãi. “Những gì chúng ta hy vọng sẽ tìm thấy và những gì thực sự tồn tại ngoài kia là hai phạm trù khác nhau đấy, cuối cùng cô nói. “Tập trung vào nào.”

Nelson gật đầu và chuẩn bị sẵn sàng cây phấn của mình. Juliette lắc lọ mẫu đầu tiên cho đến khi hai miếng đệm bên trong tách rời ra. Miếng đệm bền từ bộ phận Vật Tư vẫn không mảy may suy suyển. Các dấu màu vàng trên cạnh vẫn còn đó. Miếng đệm còn lại ở trong tình trạng tồi tệ hơn hẳn. Các dấu đỏ đã biến mất, cạnh nó đã bị không khí bên trong lọ ăn mòn. Hai mẫu băng nhiệt dán dưới đáy cũng tương tự. Miếng băng vuông do bộ phận Vật Tư cung cấp vẫn còn nguyên. Để phân biệt giữa hai miếng, cô đã cắt miếng băng lấy từ bộ phận IT thành một hình tam giác. Nó bị ăn thủng mất một lỗ nhỏ.

“Tôi ước tính miếng đệm mẫu thứ hai đã bị ăn mất một phần tám,” Juliette nói. “Trên băng dính nhiệt có một lỗ rộng ba milimét. Cả hai mẫu của bộ phận Vật Tư đều có vẻ không hề hấn gì."

Nelson chép lại những điều cô quan sát được. Cô đã quyết định sẽ đo lường mức độ độc hại của không khí bằng cách như vậy: đem các loại niêm và băng nhiệt được thiết kế để mục nát ngoài đó ra so sánh với những vật liệu cô biết là sẽ bền. Cô đưa cái lọ cho Nelson để anh ta có thể xác minh kết quả và nhận ra rằng đây là dữ liệu đầu tiên của họ. Đây là một bằng chứng ý nghĩa ngang chuyện cô đã sống sót được sau khi ra ngoài. Trang thiết bị lấy ra từ kho trữ đồ bảo hộ được chế tạo để bị hỏng. Bước đầu tiên này trọng đại đến mức Juliette không khỏi ớn lạnh. Tâm trí cô tức khắc sôi sục, hình dung đủ kiểu thí nghiệm để thực hiện tiếp. Và họ thậm chí còn chưa mở đống lọ ra xem chỗ khí chứa bên trong có những gì.

“Tôi xác nhận miếng đệm đã bị ăn mòn một phần tám” vừa quan sát bên trong lọ, Nelson vừa nói. “Về phần miếng băng, tôi áng chừng nó bị gặm mất hai milimet rưỡi.”

“Ghi hai rưỡi đi,” cô nói. Lần tới, cô sẽ thêm một thay đổi, đó là mỗi người sẽ tự ghi vào bảng riêng. Nhận định của cô có thể ảnh hưởng đến nhận định của anh ta, và ngược lại. Có nhiều điều cần học hỏi quá. Cô vớ lấy mẫu tiếp theo trong khi Nelson nguệch ngoạc ghi lại con số của anh ta.

“Mẫu số 1,” cô nói. “Mẫu này thu tại con dốc.” Nhìn vào bên trong, cô trông thấy miếng đệm còn lành lặn, ắt hẳn phải đến từ bộ phận Vật Tư. Miếng đệm còn lại đã bị ăn mòn phân nửa. Có một chỗ bị gặm gần như đứt rời ra. Cô lật ngược lọ lại và lắc, khiến miếng đệm áp xuống cái nắp lọ trong suốt. “Sao lại thế này nhỉ,” cô nói. “Nhờ cái đèn chút nào.”

Nelson xoay thân đèn về phía cô. Juliette vặn nó chĩa lên trên, thế rồi khom người trên bàn, lóng ngóng xoay nghiêng xoay ngửa cả thân lẫn đầu hòng nhìn xuyên qua miếng đệm tả tơi để thấy miếng băng nhiệt lấp loáng đằng sau nó.

“Tôi... tôi ước tính miếng đệm bị ăn mòn một nửa. Lỗ trên băng nhiệt có đường kính năm... không, sáu milimet. Tôi cần anh qua xem cái này.”

Nelson ghi lại các con số cô nói, xong mới cầm lấy mẫu. Anh ta xoay trả đèn về phía bàn bên mình. Cô không nghĩ hai mẫu sẽ chênh nhau quá nhiều, nhưng trong trường hợp có một mẫu bị ăn mòn nghiêm trọng hơn, thì đó phải là mẫu thu được từ trên đồi chứ không thể nào từ con dốc được. Không thể là nơi họ bơm khí lành ra được?

“Biết đâu tôi không lấy chúng ra theo đúng thứ tự,” cô nói. Cô cầm mẫu tiếp theo lên, mẫu dùng để đối chứng. Lúc ở ngoài, cô đã rất cẩn thận, nhưng cô nhớ mình đã mơ mộng lung tung. Có đoạn, cô còn quên cả đếm, để cho một lọ bị mở quá lâu. Nguyên nhân chắc nằm ở đấy.

“Tôi xác nhận,” Nelson nói. “Miếng băng này bị hư hại nặng hơn hẳn. Cô có chắc mẫu này lấy tại dốc không?”

“Dễ chừng tôi làm hỏng chuyện mất rồi. Tôi đã mở một lọ quá lâu. Khốn kiếp. Có thể chúng ta sẽ phải loại những con số này đi đấy, hoặc ít nhất là không dùng chúng để so sánh.”

“Chính thế nên ta mới lấy nhiều hơn một mẫu,” Nelson nói. Anh ta họ vào trong mũ bảo hộ, khiến vòm kính trước mặt mờ đi. Anh ta hắng giọng. “Không việc gì phải dằn vặt đâu.”

Anh ta đúng là hiểu cô thật. Juliette vơ lấy mẫu đối chứng, thầm nguyền rủa bản thân, và tự hỏi Lukas đang nghĩ gì trong khi nghe bộ đàm ngoài hành lang. “Lọ chót,” cô nói, lạch cạch khua cái lọ.

Nelson đợi, phấn đặt sẵn trên bảng. “Làm đi.”

“Tôi không…” Cô chĩa đèn vào trong. Cô lắc cái lọ. Mồ hôi chảy dọc quai hàm và nhỏ xuống khỏi cằm cô. “Tôi tưởng đây là mẫu đối chứng,” cô nói. Cô đặt mẫu đó xuống và nhấc lọ tiếp theo lên, nhưng nó chứa đầy đất. Tim cô đập thình thịch, đầu óc quay mòng mòng. Thật hết sức phi lý. Trừ phi cô đã lấy mẫu ra sai thứ tự. Chẳng lẽ cô đã làm hỏng hết mọi chuyện rồi ư?

“Ừ, là mẫu đối chứng đấy,” Nelson nói. Anh ta dùng đoạn ống gõ vào cái lọ cô vừa kiểm tra. “Nó được đánh dấu ngay kia kìa.”

“Chờ tôi tẹo nhé,” cô nói. Juliette hít sâu mấy hơi. Một lần nữa, cô nhìn vào trong mẫu đối chứng, vốn được thu thập bên trong chốt gió. Đáng lẽ nó chỉ thu được mỗi khí argon mới đúng. Cô đưa cái lọ cho Nelson.

“Ừ, sao lại thế này được nhỉ,” anh ta nói, lắc cái lọ. “Có gì không đúng rồi.”

Lời của anh ta gần như chẳng lọt tai Juliette. Não cô căng lên hoạt động. Nelson nhìn vào trong mẫu đối chứng.

“Tôi nghĩ...” Anh ta lưỡng lự. “Tôi nghĩ có thể khi cô mở nắp, một miếng niêm đã vô tình rơi ra. Chẳng phải chuyện gì to tát đâu. Những chuyện thế này vẫn có mà. Hoặc có khi...”

“Không thể nào như vậy được,” cô nói. Cô đã rất cẩn thận. Cô nhớ mình đã thấy các miếng niêm trong đấy. Nelson hắng giọng và đặt mẫu đối chứng lên bàn. Anh ta chỉnh cho đèn chiếu thẳng xuống lọ. Cả hai người họ cùng cúi xuống quan sát. Cô tin chắc không có gì bị rơi ra ngoài hết. Nhưng xét cho cùng, cô từng phạm sai lầm rồi đó thôi. Nhân vô thập toàn mà...

“Trong đó chỉ có một miếng niêm,” Nelson nói. “Tôi thực sự nghĩ có lẽ nó đã bị rơi...”

“Băng nhiệt,” Juliette nói. Cô điều chỉnh đèn. Một vệt sáng lóe lên dưới đáy lọ, nơi dán một miếng băng dính. Miếng còn lại đã biến mất. “Anh thực sự nghĩ một mảnh băng được dán hẳn vào lọ cũng đã rơi ra ngoài sao?”

“Vậy thì, mớ lọ đã bị xếp lộn xộn,” anh ta nói. “Ta xếp ngược chúng mất rồi. Nếu tất cả đều bị ngược thì mọi thứ sẽ hợp lý ngay. Bởi vì mẫu lấy trên đồi không bị ăn mòn nặng bằng mẫu trên dốc. Chỉ thế thôi.”

Juliette cũng đã nghĩ đến khả năng này, nhưng làm vậy là cô đang cố gò cho những gì cô tưởng mình biết khớp vào với điều cô đang tận mắt chứng kiến. Cô cất công ra ngoài sở dĩ là để xác minh các nghi ngờ. Trông thấy một điều khác hoàn toàn như thế này tức là sao nhỉ?

Và rồi cô sực hiểu ra. Phát hiện ấy giáng xuống đầu cô như một cái mỏ lết giáng vào hộp sọ, như một sự phản bội tận cùng. Như thể một cỗ máy từ trước đến nay vẫn luôn nghe lời lại nhẫn tâm trở mặt, một chiếc máy bơm đáng tin cậy bất thình lình, vô duyên vô cớ bơm nước ngược vào trong. Phát hiện ấy cho cô một phen xây xẩm, như thể bị người thân ngoảnh mặt làm ngơ trong lúc cô đang rơi tự do, như thể một thứ nghĩa tình khăng khít nào đó không chỉ đơn giản bị tước đi, mà kỳ thực chưa bao giờ tồn tại.

“Luke,” cô nói, lòng thầm hy vọng anh đang nghe, rằng anh đang bật bộ đàm. Cô chờ đợi. Nelson ho.

“Anh đây,” anh trả lời, giọng bé tí và xa xăm. “Nãy giờ anh có nghe.”

“Khí argon,” Juliette nói, quan sát Nelson qua vòm mũ bảo hộ của cả hai. “Chúng ta biết gì về nó?”

Nelson chớp mắt vì bị mồ hôi chảy vào.

“Biết gì cơ?” Lukas nói. “Có một bảng tuần hoàn hóa học cất đâu đó trong phòng đấy. Anh nghĩ là bên trong một ngăn tủ.”

“Không,” Juliette lên giọng để đảm bảo rằng anh nghe được mình. “Ý em là, nó từ đâu mà ra thế? Ta có thực sự biết chắc nó là cái gì không?”