Chương 49
KHU NÔNG TRẠI TỐI OM; những ngọn đèn trên cao thiếp ngủ theo lệnh chiếc đồng hồ bấm giờ hiện đang tích tắc nơi xa. Dọc một hành lang dài và um tùm cây lá, giọng người văng vẳng vọng ra. Các khoảnh đất gieo trồng đang bị người ta chiếm làm của riêng, và ngay khi có ai tuyên bố quyền sở hữu, tranh chấp liền nổ ra. Những thứ không thuộc về ai bị biến thành tài sản tư. Nó khiến Hannah nhớ lại thời gian khó. Con bé ôm chặt đứa con vào ngực và nép sát Rickson.
Dẫn đường là cu Miles với chiếc đèn pin sắp tắt của nó. Bất cứ khi nào đèn mờ đi, thằng bé lại đập vào lòng bàn tay, và hành động ấy chẳng hiểu sao lại giúp hồi sinh cho đèn. Hannah liếc ra sau, nhìn về hướng cây cầu thang. “Sao Độc Một Mình lâu thế?” nó hỏi.
Không ai trả lời. Độc Một Mình đã đuổi theo Elise. Việc con bé sao nhãng bám theo thứ gì đó là chuyện rất đỗi bình thường, nhưng khi khắp nơi nhan nhản người thế này thì sự tình lại khác. Hannah cảm thấy lo lắng.
Đứa trẻ trong tay con bé oe oe khóc. Mỗi khi đói, nó lại làm vậy. Nó được phép làm thế. Hannah kìm nén những lời phàn nàn của bản thân lại; con bé cũng đang thấy đói. Con bé chỉnh tư thế ẵm đứa trẻ, tháo một bên đai bộ đồ ra và cho nó bú. Với áp lực phải ăn cho hai người, cơn đói càng thêm phần tồi tệ. Nếu trước kia, dọc hành lang này từng có đủ thứ hoa màu cạ vào cánh tay nó, và nó chẳng bao giờ phải trăn trở về một cái bụng rỗng, thì nay những mảnh đất sum suê lại nằm trơ trụi đến giật mình. Bị tàn phá. Bị chiếm đóng.
Thân cây và lá xào xạc như giấy khi Rickson trèo qua lan can và thăm dò dãy đất thứ hai lẫn thứ ba, lùng tìm một trái cà chua hoặc quả dưa chuột hoặc một quả mọng nào đấy mọc dại và lấn sang các loại cây trồng khác, xoắn xuýt quấn quanh thân những người anh em của mình. Thằng bé lao xao quay lại và ấn thứ gì đó vào tay Hannah, một thứ nho nhỏ, bị nhũn một bên do đã nằm trên mặt đất quá lâu. “Đây,” nó nói, và quay lại tìm thêm.
“Tại sao họ hái cùng một lúc nhiều thế?” Miles hỏi, trong lúc đang tự lục tìm thức ăn cho bản thân. Hannah ngửi món quà nhỏ Rickson đã đưa. Nó có mùi hơi giống bí, nhưng hãy còn xanh. Những giọng nói đằng xa lớn tiếng cãi cọ. Con bé cắn một miếng nhỏ và giật mình vì vị đắng.
“Họ lấy nhiều thế vì họ không phải là người trong nhà,” Rickson nói. Giọng nó vọng đến từ sau đống cây tối sẫm, rung rinh khi nó đi qua.
Cu Miles chiếu đèn pin về phía Rickson, bấy giờ vừa bước ra khỏi hàng ngô với hai bàn tay không. “Nhưng chúng ta cũng có phải người cùng một nhà đâu,” Miles nói. “Không hẳn thế. Vậy mà chúng ta chưa bao giờ làm thế này cả.”
Rickson nhảy qua lan can. “Chúng ta đương nhiên là người một nhà rồi,” nó nói. “Ta sống cùng nhau, làm việc cùng nhau, đúng như một gia đình thực thụ. Nhưng những kẻ này thì không như thế. Mày chưa nhìn ra à? Thấy họ ăn mặc khác nhau để có thể phân biệt được nhau không? Họ không sống cùng nhau. Những kẻ lạ này sẽ gây gổ như bố mẹ chúng ta từng gây gổ. Bố mẹ chúng ta cũng không phải là gia đình.” Rickson tháo dây buộc tóc ra và gom những sợi tóc lòa xòa quanh mặt, sau đó lại buộc hết tất cả lên. Giọng nó thì thầm, mắt nó dõi nhìn bóng tối, về nơi những giọng nói đang cãi cọ. “Họ sẽ như bố mẹ ta, đánh nhau để giành thức ăn và phụ nữ, cho đến khi chẳng còn ai nữa. Thế tức là, nếu muốn sống, ta sẽ phải đánh trả.”
“Em không muốn đánh nhau đâu,” Hannah nói. Nó nhăn mặt và kéo đứa bé ra khỏi núm vú đau nhức của mình, bắt đầu chỉnh lại bộ đồ để chuyển bên ngực.
“Em sẽ không phải đánh đấm gì cả đâu,” Rickson nói. Nó giúp con bé chỉnh đồ.
“Hồi trước họ để chúng ta yên mà,” Miles nói. “Chúng ta đã sống ở đây nhiều năm, và họ đến lấy những thứ mình cần mà chẳng gây chuyện gì với ta cả. Có khi những người này cũng sẽ làm vậy.”
“Thời đấy xưa lắm rồi,” Rickson nói. Nó nhìn đứa bé nằm yên trong lòng mẹ, thế rồi đi dọc lan can và lao vào bóng tối để kiếm thêm đồ ăn. “Họ để chúng ta yên vì chúng ta còn nhỏ và là con cháu của họ. Hannah và tao trạc tuổi mày. Mày và em mày thì chỉ mới tập tễnh biết đi. Dù có đánh nhau ác liệt đến cỡ nào, họ vẫn để yên cho lũ trẻ chúng ta muốn sống thế nào thì sống, muốn chết ra sao thì chết. Họ bỏ rơi chúng ta như vậy là cả một ơn phước đấy.”
“Nhưng hồi trước họ có đến mà,” Miles nói. “Và mang đồ cho ta nữa.”
“Giống như Elise và chị nó ấy hả?” Hannah hỏi. Vậy là giờ đây, cả nó và Rickson đều đã nhắc đến những người anh chị em đã mất. Nó nhận ra hành lang này đầy rẫy xác chết và những người đã mãi lìa xa, những người đã lên chầu Thượng đế. “Sẽ có đánh nhau,” nó bảo Miles, thằng bé có vẻ vẫn không tin chuyện ấy sẽ xảy ra. “Rickson và chị không còn là trẻ con nữa.” Nó đung đưa đứa bé trong vòng tay. Đứa trẻ đang chùn chụt bú này tựa như một lời nhắc nhở, cho chúng biết mình nay đã cách xa thời con trẻ đến nhường nào.
“Giá mà họ đi hộ cho thì tốt,” Miles ủ rũ nói. Thằng bé đập cái đèn pin, và nó phát ra một tiếng nghe như con nít ợ hơi. “Giá mà mọi chuyện bình thường được lại. Giá mà có Marcus ở đây. Thiếu nó cứ thấy thế nào ấy.”
“Cà chua này,” Rickson nói, đắc thắng bước ra từ trong bóng tối. Thằng bé giơ quả cầu đỏ giữa luồng sáng của Miles, khiến sắc đỏ hắt lên mặt tất cả bọn chúng. Một con dao chợt xuất hiện. Rickson cắt quả cà thành ba phần, và Hannah được lãnh phần trước. Dịch đỏ như máu ứa ra từ tay nó, từ môi Hannah, và từ con dao. Chúng ăn tương đối lặng lẽ. Trong khi ấy, ở đầu kia hành lang, giọng người xa xăm nghe thật đáng sợ. Con dao nhỏ tong tỏng từng giọt nhựa sống, nhưng cũng hoàn toàn có thể đang nhỏ một thứ tệ hơn nhiều.
Vừa leo thang, Jimmy vừa tự nguyền rủa bản thân. Gã chửi rủa như hồi trước, với chỉ một mình mình lắng nghe, với những lời lẽ chẳng phải truyền đi xa mấy, chỉ bay từ môi lên tai của chính gã mà thôi. Gã nguyền rủa bản thân và huỳnh huỵch đưa chân, leo vòng, leo vòng, cho rung động lan lên, lan xuống và hòa chung cùng những rung động khác. Trông nom Elise đã trở thành một nhiệm vụ rầy rà. Chỉ cần liếc đi chỗ khác một phát là nó đã bỏ đi mất biệt. Hệt như Cái Bóng ngày xưa, mỗi khi đèn gieo trồng nhất loạt bật sáng.
“Không, chẳng giống Cái Bóng gì cả,” gã lầm bầm nhủ. Hầu như hôm nào Cái Bóng cũng quanh quẩn ở dưới chân. Gã tối ngày vấp phải Cái Bóng. Elise thì khác hẳn.
Thêm một tầng nữa trôi qua, đơn độc và vắng vẻ, Jimmy nhớ ra đây không phải chuyện mới mẻ gì. Nó không hề đột ngột. Lúc nào mà Elise chẳng tùy hứng xuất hiện rồi lại bỏ đi. Chỉ có điều lúc tháp còn trống không, gã chưa bao giờ thấy lo cho con bé cả. Nghĩ đến đây, gã không khỏi cân nhắc lại nguyên do mà một nơi trở nên nguy hiểm. Có lẽ sự nguy hiểm ấy không liên quan chút gì đến bản thân nơi đó hết.
“Ông gì ơi!”
Jimmy lên đến một chiếu nghỉ khác, tầng một trăm hai mươi hai. Bên ngưỡng cửa có một người đàn ông đang vẫy tay. Y mặc đồ vàng, vào thời mọi thứ hãy còn ý nghĩa thì màu này đã đại diện cho một điều gì đó. Sau hàng chục tầng thì giờ Jimmy mới lại thấy mặt người.
“Anh có trông thấy một bé gái không?” Jimmy hỏi, tảng lờ việc người này hình như cũng có những câu hỏi của y. Jimmy đặt bàn tay ngang hông. “Cao tầm này. Bảy tuổi. Sún mất một cái răng.” Gã chỉ vào răng mình, lấp ló đằng sau bộ râu.
Người đàn ông lắc đầu. “Không, nhưng ông là cái người từng sống ở đây phải không? Người sống sót ấy?” Y cầm trong tay một con dao, lấp lánh ánh bạc như cá dưới nước. Thế rồi người mặc đồ vàng bật cười và nhìn ra ngoài lan can chiếu nghỉ. “Mà chúng ta ai chẳng là người sống sót, hén?” Y với tay ra, nắm lấy một trong những ống cao su đã được Jimmy và Juliette gắn vào tường để bơm nước lụt ra ngoài. Với một nhát lia dao khéo léo, chiếc ống đứt làm hai. Y bắt đầu kéo phần vòi lủng lẳng tít phía dưới lên.
“Đó là để chống lụt...” Jimmy dợm nói.
“Ông hẳn phải biết rất rõ nơi này,” người đàn ông nói. “Xin lỗi nhé. Tôi tên là Terry. Terry Harlson. Tôi ở Ủy ban Kế...” Y nheo mắt nhìn Jimmy. “Mà thôi, ông chẳng biết mà cũng chẳng quan tâm đâu, đúng không? Đối với ông, tất cả bọn tôi đều từ cùng một nơi mà ra cả.”
“Jimmy,” gã nói. “Tên tôi là Jimmy, nhưng hầu hết mọi người gọi tôi là Độc Một Mình. Và cái vòi đó...”
“Ông có biết điện từ đâu ra không?” Terry dứ đầu về phía những ngọn đèn xanh lá điểm xuyết mặt dưới cầu thang. “Bọn tôi ở cách đây bốn mươi tầng. Bộ đàm có điện. Một số dây nhợ chăng khắp nơi cũng có điện nốt. Là ông làm đấy hả?”
“Một phần thôi,” Jimmy nói. “Một phần thì đã sẵn như thế rồi. Một con bé tên Elise đã đi về phía này. Anh có...”
“Tôi đoán nguồn điện nằm ở trên cao, nhưng Tom bảo tôi xuống dưới này kiểm tra. Ông ta nói rằng trong tháp giống của bọn tôi, điện luôn từ bên dưới truyền lên, thế nên tháp giống này hẳn cũng sẽ như thế. Mọi thứ khác của hai tháp đều giống nhau mà. Nhưng lúc ở dưới đó, tôi đã thấy vạch nước cao, hồi chỗ này còn ngập nước. Tôi tin đã lâu lắm rồi chẳng có điện đóm gì truyền từ đó lên. Nhưng ông thì sẽ biết, đúng không nào? Nơi này có bí mật gì ông chia sẻ được cho bọn tôi không? Tôi muốn biết về nguồn điện này lắm.”
Ống vòi nằm cuộn tròn dưới chân y. Con dao lại được rút ra, lấp lánh trên tay y. “Ông đã bao giờ nghĩ đến việc tham gia một ủy ban chưa?”
“Tôi cần tìm bạn tôi,” Jimmy nói.
Thêm một nhát lia nữa, nhưng sợi dây điện bền hơn. Lõi của nó là đồng. Người kia cầm một vòng dây đen trong tay và cưa tới cưa lui, cơ bắp cuồn cuộn gồ bên dưới chiếc áo lót lấm tấm mồ hôi. Sau một hồi nỗ lực, con dao bung ra và sợi dây đứt làm đôi.
“Nếu bạn của ông không ở cùng với nhóm người trong nông trại, thì chắc nó đang ở với cái nhóm tụng niệm. Trên đường xuống, tôi đã đi ngang chỗ họ. Họ đã tìm thấy một nhà nguyện.” Terry trỏ con dao lên trời, sau đó cất nó đi và quấn sợi dây quanh cánh tay.
“Một nhà thờ,” Jimmy nói. Gã biết chỗ đó. “Cảm ơn nhé, Terry.”
“Có đi thì phải có lại chứ,” người kia nhún vai nói. “Cảm ơn vì đã cho tôi biết điện đến từ đâu nhé.”
“Điện hả...?”
“Ừ, ông nói nó truyền từ trên xuống. Từ tầng…”
“Ba mươi tư ư? Tôi đã nói vậy sao?”
Người kia mỉm cười. “Tất nhiên.”