← Quay lại trang sách

Chương 62 Quận Fulton, Georgia

JULIETTE NHỚ VỀ MỘT CÁI NGÀY đáng lẽ phải hiến mình cho tử thần. Cô đã bị bắt đi lau chùi, đã bị nhồi vào một bộ đồ tương tự như bộ đồ này; và qua một tấm kính hẹp, cô đã nhìn một thế giới xanh mướt và trong veo bị tước khỏi tay mình, thấy sắc màu xỉn dần thành xám ngoét khi cô leo lên một ngọn đồi và trông thấy thế giới thật.

Và giờ đây, trong lúc nhọc nhằn cưỡng gió mà đi, nghe cát rít vun vút trên kính, tiếng mạch đập và hơi thở phì phò kẹt trong vòm mũ như tiếng rống bên tai, cô thấy màu nâu với xám phai dần và biến mất.

Thoạt tiên, thay đổi diễn ra rất chậm rãi. Một sắc xanh nhạt phơn phớt. Thậm chí còn khó lòng đoán chắc đó thật sự là màu xanh. Cô ở trong toán tiên phong, bao gồm Raph, bố cô và bảy nhân vật mặc đồ bộ khác; tất cả bọn họ cùng được nối chung với một bình dưỡng khí, được họ khiêng đi giữa nhóm. Thay đổi chầm chậm diễn ra, rồi bất thình lình ập đến, như thể vừa bước qua một bức tường. Màn sương tan biến; ánh sáng chiếu rọi; trận gió tứ bề ngừng quật tới tấp vào người cô khi những mảng sắc màu bùng nổ, nào miếng lục, nào miếng lam, nào miếng trắng tinh khiết, và Juliette bước vào một thế giới sống động vô cùng, rực rỡ vô cùng, gần như không sao tin nổi. Cỏ nâu như những hàng ngô héo cọ vào giày cô, nhưng đấy là những thứ tàn tạ duy nhất trong tầm mắt. Đằng xa, cỏ xanh lung lay đưa mình. Trên trời, mây trắng lững lờ trôi. Và giờ đây, Juliette nhận ra những cuốn sách tranh đầy màu sắc mình đọc hồi nhỏ thực chất thật bợt bạt, còn các trang giấy mới xỉn làm sao khi so với cảnh này.

Một bàn tay đặt lên lưng cô, và khi quay lại, Juliette thấy bố cô đang tròn mắt ngắm diệu cảnh phía trước. Raph lấy tay che mắt khỏi ánh nắng chói chang, hơi thở của anh làm mờ chiếc mũ. Hannah cúi xuống cổ áo và mỉm cười với khối phồng mình ôm trước ngực, hai ống tay rỗng của bộ đồ nó mặc phần phật xoắn xuýt trong gió vì nó phải bế con bên trong. Rickson vòng tay qua vai nó và ngước nhìn không chớp mắt lên nền trời trong khi Elise và Shaw giơ tay lên như thể sẽ gom hết được những đám mây. Bobby và Fitz tạm đặt bình oxy xuống và cứ thế há hốc miệng.

Đằng sau nhóm của cô, một nhóm khác bước ra khỏi bức tường bụi. Các thân người lao qua một tấm màn che – và những gương mặt khắc khổ mệt mỏi ấy chợt bừng sáng, trầm trồ và như được tiếp thêm năng lượng. Một người lúc ấy đang được dìu đi, gần như được bế, nhưng khi trông thấy sắc màu, người đó chẳng khác nào được ban cho một đôi chân mới.

Ngoái ra sau nhìn, Juliette trông thấy một bức tường bụi cao chạm trời. Dọc chân bức tường đó, mọi sự sống dám cả gan tiếp cận rào chắn nghẹt thở này đều rã nát, cỏ thì bị nghiền thành bột, còn những bông hoa nhú lên đó đây hóa thành những cuống nâu. Một con chim liệng vòng trên bầu trời thoáng đãng, dường như đang nghiên cứu những kẻ xâm nhập sáng lòa mặc đồ bạc này, rồi nghiêng cánh bay đi, tránh xa nguy hiểm và lướt ngang vùng trời xanh.

Juliette cảm thấy một sức hút tương tự lôi kéo mình về phía bãi cỏ và né xa miền đất chết mà họ đã bò ra. Cô vẫy tay với nhóm của mình, nhép miệng ra hiệu cho họ đi tiếp và giúp Bobby khiêng cái bình. Họ cùng nhau ì ạch lê bước xuống dốc. Theo sau họ là những người khác. Nhóm nào nhóm nấy đều khựng lại, giống hệt cái kiểu loạng choạng của những người lau chùi mà Juliette từng nghe nói đến. Một nhóm khiêng theo một thi thể, một bộ đồ nằm oặt xuống, vẻ mặt thay lời báo hung tin. Tuy nhiên, ở những nơi khác, ai nấy đều đang hưng phấn. Juliette cảm nhận được điều đó trong khối óc đang quá tải của cô, thứ từng hạ quyết tâm sẽ chết vào cái ngày hôm ấy; cô cảm thấy nó trên da mình, những vết sẹo bị lãng quên; cô cảm nhận được điều đó trong đôi chân rã rượi của mình, thứ giờ đây có thể vượt qua cả chân trời.

Cô vẫy gọi các nhóm khác xuống dốc. Khi trông thấy một người mò mẫm rờ khóa cài mũ bảo hộ, Juliette ra hiệu cho các thành viên khác trong nhóm của người ấy ngăn lại, và thông qua ra dấu bằng tay, thông tin được truyền từ nhóm này sang nhóm khác. Juliette vẫn có thể nghe được tiếng bình dưỡng khí rít xì xì trong mũ bảo hộ của mình, nhưng cô lại thấy cần phải gấp gáp vì một lý do khác. Dưới chân họ đây không chỉ là hy vọng đơn thuần, không chỉ là hy vọng mù quáng. Đây là một lời hứa. Người phụ nữ trên bộ đàm đã nói thật. Donald quả thực đã tìm cách giúp họ. Nhờ hy vọng, niềm tin, và sự tin tưởng, người dân của cô đã được hưởng chút thái bình, bất kể nó có ngắn ngủi đến đâu. Từ một túi có đánh số vốn dùng cho công việc lau chùi, cô rút bản đồ ra và kiểm tra các đường thẳng. Cô hối thúc mọi người đi tiếp.

Phần đất trước mặt lại nhô lên, tạo thành một ngọn đồi lớn thoai thoải. Juliette nhắm hướng nó mà đi. Elise vượt lên phía trước cô, kéo căng ống dẫn khí và khiến lũ côn trùng thảng thốt bay vút lên khỏi đám cỏ cao vượt đầu gối con bé. Shaw đuổi theo nó, ống dẫn của chúng gần như xoắn vào nhau. Juliette nghe thấy mình bật cười và tự hỏi đã bao lâu rồi cô mới tạo ra được một âm thanh như vậy.

Họ vất vả leo đồi, càng lên cao, vùng đất ở hai bên như càng được cơi nới và trải rộng. Khi lên đến đỉnh, cô nhận ra đây không chỉ là một ngọn đồi, mà đúng hơn là một gò đất khác quây thành vòng. Qua khỏi đỉnh gò, đất lõm xuống như một cái tô. Khi xoay người lại để quan sát toàn bộ khung cảnh xung quanh, Juliette thấy vùng trũng đơn lẻ ấy tách biệt hẳn với cụm năm mươi tháp giống. Ngược hướng cô vừa đi, bên kia thung lũng xanh tươi, là một bức tường mây đen. Cô thấy nó không chỉ là một bức tường, mà là một mái vòm khổng lồ, với các tháp giống nằm ở trung tâm. Và ở một hướng khác, bên kia ngọn đồi bao quanh, là một khu rừng giống y như trong bộ sách Di Sản – một thảm thực bì xa tít tắp, hiệp thành từ những bông cải xanh khổng lồ, vô phương ước tính quy mô.

Juliette quay sang những người khác và lấy lòng bàn tay gõ nhẹ lên mũ. Cô chỉ vào những con chim đen đang chao liệng trên không. Bố cô giơ tay và yêu cầu cô đợi. Ông hiểu cô định làm gì. Thay vì để cô làm thế, ông với lên khóa mũ bảo hộ của mình.

Nỗi sợ mà ông hẳn đã cảm thấy khi nghĩ đến cảnh để cho người thân mình thử trước cũng xâm chiếm Juliette, nhưng cô đồng ý để ông làm. Raph giúp bố cô mở đống khóa, những thứ gần như không thể tháo nổi khi đeo trên tay đôi găng dày cộp. Cuối cùng, chiếc mũ vòm bật tách ra. Mắt bố cô mở lớn khi ông hít thử một hơi. Ông mỉm cười, hít thêm một hơi nữa, sâu hơn, ngực ông phồng lên, đôi bàn tay thả lỏng, mũ rơi khỏi tay ông và lăn vào trong cỏ.

Tất cả chợt nhao nhao lên, mò mẫm cổ áo của nhau. Juliette đặt chiếc túi nặng trịch của mình xuống bãi cỏ và giúp Raph, rồi sau đó đến lượt anh giúp cô. Khi mũ bảo hộ của cô lách cách mở ra, điều đầu tiên cô chú ý đến là âm thanh. Đó là tiếng cười của bố cô và Bobby, tiếng reo vui của lũ trẻ. Tiếp theo đến mùi hương, mùi của các nông trại và khu vườn thủy canh, mùi đất màu mỡ xới lên đón đợi hạt giống. Và ánh sáng, rực rỡ và ấm áp chẳng kém gì những ngọn đèn gieo trồng, nhưng tỏa rộng và chiếu đến từ xa, bao trùm lấy họ, một khoảng trống bên trên cô trải dài đến vô tận, trên đầu họ chẳng có gì ngoài những đám mây xa xăm.

Khắp nơi vang lên tiếng cổ áo va côm cốp khi mọi người ôm chầm lấy nhau. Các nhóm đằng sau rảo chân nhanh hơn; có người vấp ngã và được đỡ dậy; trong mũ xuất hiện những hàm răng nhăn nhở, những cặp mắt ươn ướt và những hàng lệ lăn dài trên má; mấy bình oxy không ai đoái hoài lết theo ở cuối những ống dẫn bị kéo căng; một thi thể được khiêng.

Găng tay và các bộ đồ bị xé toạc, và Juliette nhận ra họ chẳng hề nuôi hy vọng chuyện này sẽ xảy ra. Không có con dao nào đeo trên ngực để cắt bỏ bộ đồ của họ. Không ai lập kế hoạch rời khỏi những nấm mồ bạc ấy. Họ đã khoác lên mình bộ đồ lau chùi và rời tháp như tất cả những người lau chùi khác, bởi vì họ không thể chịu đựng thêm kiếp đời gò bó nữa, và viễn cảnh loạng choạng leo đồi, thậm chí là chết trên đấy, trở thành một niềm khao khát khôn nguôi.

Bobby rốt cuộc cũng xé được găng tay của mình ra bằng răng và giải phóng một bên tay. Fitz cũng làm tương tự. Ai cũng cười vang và đổ mồ hôi nhễ nhại trong lúc giật khóa kéo với miếng dán trên lưng nhau, rũ tay ra ngoài, chui đầu ra khỏi những vòng cổ tròn, mím môi mím lợi kéo giày. Bọn trẻ con vặn vẹo ra ngoài và theo nhau lăn lộn trên bãi cỏ, đi chân trần và mặc trên người những bộ đồ lót dơ dáy đủ màu. Elise đặt xuống con chó mình nãy giờ ôm vào ngực như một đứa con, và ré lên khi con vật chạy biến vào trong những đám cỏ xanh cao. Con bé lại bế thốc nó lên. Shaw phá ra cười và lôi cuốn sách của nó ra khỏi bộ đồ.

Juliette cúi xuống và lia tay qua bãi cỏ. Nó cũng giống cỏ dại trong khu nông trại, nhưng hợp lại với nhau thành một tấm thảm dày đặc. Cô nghĩ đến chỗ rau trái mà một số người đã gói ghém mang theo bên trong bộ đồ của họ. Sẽ cần phải giữ hạt lại. Cô bắt đầu nghĩ rằng họ có thể trụ được lâu hơn một ngày. Hơn một tuần. Triển vọng đó làm cô lâng lâng.

Khi đã trút bỏ xong bộ đồ, Raph ôm lấy cô và hôn lên má cô.

“Trời ơi!” Bobby ông ổng thốt lên, xoay người vòng vòng. Đôi tay hộ pháp của bác dang rộng, lòng bàn tay ngửa lên. “Trời ơi!”

Bố cô bước đến bên cô và chỉ xuống con dốc, vào trong lòng chảo. “Con có thấy thứ đó không?” ông hỏi.

Juliette che mắt nhìn xuống giữa chỗ trũng. Có một gò đất xanh. Không, không phải gò đất; một tòa tháp. Một tòa tháp không có ăng ten, mà có một dạng mái phẳng màu bạc nhô lên, bị dây leo phủ phân nửa. Cỏ cao che khuất gần hết lớp bê tông.

Gờ đất mỗi lúc một đông thêm và rộn ràng tiếng cười, chẳng mấy chốc, bãi cỏ đã ngổn ngang giày và áo quần bạc. Juliette nghiên cứu tòa tháp bê tông kia, biết rõ họ sẽ tìm thấy thứ gì bên trong. Đây là hạt giống của một khởi đầu mới. Cô nhấc chiếc túi nặng trĩu thuốc nổ lên. Cô áng chừng sự cứu rỗi của họ.