← Quay lại trang sách

Chương 63

“ĐỪNG LẤY HƠN MỨC TA CẦN,” Juliette cảnh báo. Cô nhận thấy rằng chẳng mấy chốc, khu đất bên ngoài tòa tháp bê tông sẽ nhan nhản đồ, nhiều đến mức mang không xuể. Có quần áo và dụng cụ, thực phẩm đóng hộp, túi nhựa hút chân không đựng hạt giống có dán nhãn – nhiều hạt đến từ những loại cây cô chưa nghe tên bao giờ. Elise đã tra cứu cuốn sách của mình, nhưng chỉ có vài loại được ghi. Rải rác giữa mớ vật dụng là những khối bê tông và gạch đá vụn, văng ra khi cánh cửa vốn được thiết kế để mở từ bên trong bị cho nổ.

Cách tòa tháp một quãng, Độc Một Mình và Walker vật lộn với một thứ khoang trú bằng vải cùng một bộ sào, tìm hiểu xem phải dựng nó ra sao. Bọn họ sồn sột gãi râu và cự cãi. Juliette ngạc nhiên khi thấy Walker chưa gì đã khá hẳn lên. Ban đầu, lão còn chẳng muốn cởi bỏ bộ đồ của mình, cứ ở lì trong đó cho đến khi bình oxy cạn kiệt. Phải đến lúc ấy, lão mới luống cuống chui ra, thở hổn hển.

Elise đang ở gần họ, la hét và đuổi theo con thú cưng trong đám cỏ. Hoặc có thể Shaw đang rượt đuổi Elise – khó nói lắm. Hannah ngồi trên một chiếc thùng nhựa lớn với Rickson, vừa cho con bú vừa ngước nhìn những đám mây.

Fitz đã châm được lửa từ một trong những bình oxy, nhờ đó, mùi thức ăn nóng bắt đầu phảng phất quanh tòa tháp. Như Juliette thấy, nấu ăn kiểu này nguy hiểm vô cùng. Cô quay vào bên trong soạn thêm đồ, và đúng lúc ấy, Courtnee bước ra khỏi boong ke với một chiếc đèn pin trên tay và nụ cười nở trên môi. Trước khi kịp hỏi cô đã tìm được gì, Juliette phát hiện tòa tháp đã có điện, đèn đuốc thắp sáng rực.

“Cô làm kiểu gì thế?” Juliette hỏi. Họ đã khám phá xuống tận đáy boong ke – nó chỉ sâu hai mươi tầng, và các tầng xây thấp đến mức nó chỉ cao ngang bảy tầng của tháp giống mà thôi. Ở dưới cùng, thay vì không gian dành cho trang thiết bị cơ khí, họ lại thấy một hang động lớn và rỗng không, nơi có cặp cầu thang đôi dẫn thẳng vào đá. Có người đoán đấy là bãi đỗ dành cho máy đào. Một nơi để chào đón những người mới đến. Nhưng không có máy phát điện. Không có điện. Mặc dù cầu thang và các tầng đều được lắp đèn.

“Tôi đã truy ngược dây dẫn,” Courtnee nói. “Nó dẫn lên mấy tấm kim loại bạc trên mái. Tôi sẽ cho người lau sạch chúng, xem chúng hoạt động ra sao.”

Chẳng bao lâu sau, một bệ di động nằm ở giữa cầu thang đã được đưa vào hoạt động. Nó trượt lên trượt xuống nhờ một loạt dây cáp, đối trọng và một động cơ nhỏ. Các thành viên bộ phận Cơ Khí nhìn nó mà lác mắt, và lũ trẻ nhất quyết không rời nó. Chúng nằng nặc đòi đi thêm chuyến nữa. Công tác đem đồ tiếp tế ra ngoài bãi cỏ trở nên đỡ nhọc nhằn hẳn, mặc dù Juliette vẫn nghĩ rằng họ nên chừa lại thật nhiều cho nhóm người tiếp theo, phòng khi có ai nữa đến đây.

Có những người không muốn mạo hiểm thêm nữa và muốn sống ngay tại đó. Họ có hạt giống và nhiều đất hơn so với tính toán, còn các nhà kho có thể được chuyển đổi thành căn hộ. Nơi đây sẽ là một ngôi nhà tốt. Juliette lắng nghe bọn họ tranh luận về điều này.

Người chốt lại vấn đề rốt cuộc lại chính là Elise. Con bé mở đến một tấm bản đồ trong cuốn sách của mình, chỉ vào mặt trời và chỉ cho họ hướng nào là hướng bắc, nói rằng họ nên dời về phía nguồn nước. Nó tuyên bố mình biết cách bắt cá hoang, bảo rằng dưới đất có giun và Độc Một Mình biết cách móc chúng vào lưỡi câu. Con bé chỉ vào một trang trong cuốn sách nhớ, nói rằng họ nên đi ra biển.

Nhóm người lớn nghiền ngẫm các tấm bản đồ ấy lẫn quyết định này. Những người cho rằng họ nên sống ngay tại đó lại tranh luận thêm một hồi nữa, nhưng Juliette lắc đầu. “Đây không phải một ngôi nhà,” cô nói. “Đây chỉ là một nhà kho. Chúng ta có muốn sống dưới bóng của cái thứ kia không?” Cô dứ đầu về phía đám mây đen nơi chân trời, về phía vòm bụi.

“Và nhỡ có ai khác đến thì sao?” có người chỉ ra.

“Càng thêm lý do để không ở lại đây,” Rickson đề nghị.

Lại tranh cãi tiếp. Bọn họ chỉ có hơn một trăm nhân mạng. Họ có thể ở đó và làm ruộng, thu hoạch một vụ mùa trước khi chỗ đồ đóng hộp bị ăn hết. Hoặc họ có thể mang theo những gì mình cần và xem cái truyền thuyết về vô số cá và nước trải dài đến tận chân trời thực hư ra làm sao. Juliette thiếu điều chỉ ra rằng họ có thể làm cả hai, rằng chẳng có luật lệ nào hết, rằng có cơ man nào là đất và không gian, rằng xung đột chỉ xảy ra khi thiếu thốn và tài nguyên trở nên khan hiếm.

“Sẽ thế nào đây, thị trưởng?” Raph hỏi. “Ta sẽ ngủ ở đây hay đi tiếp?”

“Nhìn kìa!”

Ai đó chỉ lên ngọn đồi, và hàng chục cái đầu cùng ngoái lại. Ở đó, trên gò đất, một bóng người mặc đồ bạc đang loạng choạng đi xuống, thảm cỏ dưới chân bị giẫm nát trước đó đầy trơn trợt. Một người từ tháp giống của họ đã đổi ý và đến đây.

Juliette băng qua bãi cỏ, cảm thấy tò mò và quan tâm chứ chẳng hề sợ hãi. Đây là một người bọn họ đã bỏ lại phía sau, một người đã bám theo họ. Đó có thể là bất cứ ai.

Trước khi cô ra đến nơi, nhân vật trong bộ đồ gục xuống. Đôi tay đeo găng mò mẫm tháo mũ bảo hộ, lóng ngóng lần lên cổ áo. Juliette chạy. Có một bình lớn gắn sau lưng người đó. Cô sợ rằng dưỡng khí sắp hết, tự hỏi người này đã chế đồ ra sao và chế kiểu gì.

“Bình tĩnh nào,” cô hét lên, ngồi thụp xuống đằng sau thân hình đang vùng vẫy. Cô ấn ngón cái vào khóa. Chúng kêu đánh tách. Cô kéo chiếc mũ ra và nghe thấy tiếng hớp hơi và ho. Người ấy chúi tới trước, thở khò khè, mái tóc ướt đẫm mồ hôi, một người phụ nữ. Juliette đặt tay lên vai người phụ nữ này, hoàn toàn không nhận ra cô – nghĩ rằng đây có lẽ là thành viên giáo đoàn hoặc người ở khu giữa.

“Thở từ tốn nào,” cô nói. Cô ngước lên khi những người khác chạy đến. Trông thấy nhân vật lạ mặt này, bọn họ dừng lại.

Người phụ nữ lau miệng và gật đầu. Ngực cô phập phồng khi cô hít vào một hơi sâu. Rồi một hơi nữa. Cô gạt tóc khỏi mặt. “Cảm ơn nhé,” cô hổn hển nói. Cô ngước nhìn bầu trời và những đám mây với một biểu cảm không phải sửng sốt, mà nhẹ nhõm. Mắt cô tập trung theo dõi một vật, và lúc quay đầu nhìn lên, Juliette thấy một con chim khác đang uể oải lượn vòng trên bầu trời. Đám đông xung quanh cô giữ khoảng cách. Có người hỏi đây là ai.

“Cô không đến từ tháp giống của bọn tôi, đúng không?” Juliette hỏi. Thoạt tiên, cô nghĩ đây là một người lau chùi từ một tháp giống gần đó. Người này đã thấy đoàn bọn họ đi ngang, đã bám theo họ. Suy nghĩ tiếp theo nảy ra trong óc cô là một điều bất khả thi. Nhưng nó lại là đáp án đúng.

“Không” người phụ nữ nói, “Tôi không đến từ tháp giống của cô. Tôi đến từ... một nơi rất khác. Tôi tên là Charlotte.”

Một bàn tay đeo găng chìa ra, kèm theo với một nụ cười mệt mỏi. Vẻ ấm áp của nụ cười đó làm Juliette nguôi hẳn đi. Cô ngạc nhiên nhận ra mình không hề tức giận hay thù hằn gì người phụ nữ kia, cái người đã cho cô biết sự thật về nơi này. Đây có lẽ là một người cùng hội cùng thuyền với cô. Và quan trọng hơn, đây là một khởi đầu mới. Cô trấn tĩnh lại, mỉm cười đáp lễ và bắt tay người phụ nữ kia. “Juliette,” cô nói. “Để tôi giúp cô ra khỏi bộ đồ này nào.”

“Cô chính là cái cô đó,” Charlotte mỉm cười nói. Cô quay sang đám đông, sang tòa tháp và những đống đồ tiếp tế. “Nơi này là thế nào vậy?”

“Một cơ hội thứ hai,” Juliette nói. “Nhưng bọn tôi sẽ không ở lại đây. Bọn tôi sẽ đi đến nơi có nước. Tôi hy vọng cô sẽ đi cùng bọn tôi. Nhưng tôi báo trước nhé, đó sẽ là một chặng đường dài lắm đấy.”

Charlotte đặt tay lên vai Juliette. “Không sao,” cô nói. “Tôi cũng đã phải lặn lội rất xa rồi.”