CUỘC PHIÊU LƯU CỦA THUỒNG LUỒNG VÀ TRÔ ÚN
Từ khi có đôi thuồng luồng làm bạn, lão thầy mo lại sinh tính thích đi đây đi đó. Được cái bệnh nhân mỗi ngày một lắm, người ta mời lão đi luôn. Với một cái ống trúc đựng rượu đeo vai, một con dao nhọn dắt ở bên sườn, một chiếc gậy bịt sắt, trên đầu gậy đôi thuồng luồng quấn tròn như sợi giây thừng lớn, lão đi qua rừng này, núi nọ, qua động này, bản khác. Đói thì ăn quả rừng, khát thì tu rượu ở ống trúc. Hết rượu, lão lại tìm vào làng mua, bảo là mua, nhưng có ai dám lấy tiền của lão. Ai cũng biết danh lão, cho nên thấy bóng lão là người ta đã giết gà đãi. Hễ nghe thấy tiếng gà kêu là lão đã oang oang dặn chủ nhân phải để cho lão tiết tươi. Chủ nhân vừa đưa bát tiết, lão gõ vào đầu gậy, đôi thuồng luồng nghe hiệu liền bò xuống ăn. Chủ nhân tỏ ý sợ thì lão vội an ủi ngay. Thuồng luồng ăn xong, tức thì chia nhau bò lên mái nhà thò đầu xuống để chầu bố nuôi chúng ngồi đánh chén với chủ nhân, khi bố nuôi chúng say lăn ra ngủ thì chúng làm như thể canh giấc ngủ cho bố chúng.
Chờ đêm khuya mọi người ngủ cả, thuồng luồng ta mới bò xuống mò vào chỗ nhốt gà. Chúng thịt từng con một; không con gà nào kêu nổi một tiếng, vì thuồng luồng khôn khéo quấn nghiến cổ gà, rồi rất nhanh chúng cắn ngay vào cổ mà hút máu. Thuồng luồng chỉ hút trong chớp mắt là con gà chết cứng khô. No nê, đôi thuồng luồng lại bò lên mái, canh giấc ngủ cho lão bố nuôi đang ngáy khò khò.
Sớm sau, thấy hai cậu con quý bụng căng tròn, lão thầy mo biết ngay đêm qua chúng đã đi sát hại vịt gà, lão lẳng lặng chống gậy xin đi tức khắc. Chủ nhân còn tiễn lão một ống rượu đầy. Và lão lại gõ chiếc gậy bịt sắt kêu lạch cạch trên đường đá dọc đường, nghếch cái mõm dài lên, vung vẩy tay áo rộng thùng thình, trông lão như gã Chư Bát Giới đi sang Tây Trúc cầu kinh vậy.
Lão lầm lì và vốn không hay hát, nhưng một khi lão say mà hát thì chỉ rặt những câu thần chú hô ma hô quỷ. Tiếng lão the thé vọng vào rừng sâu nghe rất là ghê sợ.
Một hôm, lão qua cái động của người Mán sơn đầu.
Chúa động là một thằng què. Đầu hắn sơn bóng như đầu bọn đồ đệ, hắn cởi trần trùng trục, da xám mốc như con trăn gió. Hôm ấy sắp đến ngày dân động làm lễ tế Thần Rừng. Họ tổ chức cuộc săn đêm bắt lấy vài con vật để hôm sau tế. Bấy giờ đã tối. Lão thầy mo đang say túy lúy, lúc nào mà lão chẳng say. Sương xuống mù trời, gió núi kêu vun vút. Mới vào tiết mùa đông, lão Trô Ún chỉ mặc chiếc áo phong phanh lại thêm men rượu làm mềm đầu gối, lão trèo lên một ngọn cây nhìn xem đâu có lửa thì lần tới.
Xa xa, có ánh lửa và tiếng hát văng vẳng. Tin là có chỗ nghỉ chân, lão lại nâng chiếc ống trúc tu một hớp rượu nữa rồi lao đao bước. Gió lạnh làm bạt hơi, lão thở phì phò như con rắn hổ mang phun nọc. Đuốc lửa lấp lóe chỗ này, chỗ khác. Tiếng reo hò của bọn dân địa phương đuổi thú vang dậy cả khu rừng già. Mặc chúng, lão Trô Ún vẫn đi ngược cơn gió lạnh, bước mà không cần nhìn, không cần nghe gì cả. Bỗng rắc một tiếng, cả người lão và cái gậy thuồng luồng rơi xuống hố. Thì ra là cái bẫy hổ. Mặc! Lão đang cần ngủ. Càng tốt, lão và hai con lão ngủ đêm nay dưới hố chơi, càng ấm áp chứ sao. Lão ngả lưng vào thành hố, duỗi dài chân ra, ngáp rồi nhắm mắt lại, miệng lầu nhầu:
- Quân chó đểu nào đào hố bẫy hổ, ai ngờ hổ không thấy, lại chỉ thấy lão ngủ ngon lành, kể thì chúng cũng có lòng tử tế.
Đầu lão nghẹo một bên, những tiếng lầu nhầu nhỏ đi dần, tiếp đến tiếng ngáy khò khò như tiếng ngáy của con hùm xám sau lúc no mồi. Đôi thuồng luồng nhoai cả lên miệng hố. Một tấm phên mây, sau khi lão thày mo gieo mình xuống, đã từ một cành cây rơi theo đậy miệng hố lại, kín như một cái chuồng bằng sắt. Lũ thuồng luồng hình như biết rằng gặp nạn, chúng lại bò tới canh giấc ngủ cho lão cha nuôi.
Bỗng nửa đêm, những bó đuốc sáng rực kéo đến miệng bẫy. Bọn người thiểu số reo lên mừng rỡ, chúng tưởng một con ác thú đang nằm gọn dưới đó rồi. Cùng lúc mấy chục bó đuốc soi xuống hố, một đám tàn lửa rơi vào đầu Trô Ún khiến lão bừng mở mắt. Ngẩng lên, thấy những khuôn mặt dữ tợn đang ngơ ngác nhìn mình, lão thầy mo bèn gọi đôi thuồng luồng bảo chúng quấn vào đầu gậy, đoạn lão vỗ đùi nhảy vọt lên miệng hố, nhẹ như một cánh chim bay.
Bọn Mán sơn đầu kinh ngạc lùi cả lại, chúng rút phắt dao ra. Trô Ún cũng rút dao, điềm nhiên đứng đợi. Chợt có tiếng chiêng từ nẻo xa vọng tới gần. Nghe tiếng chiêng, bọn này dừng tay dạt sang hai bên, đầu cúi xuống. Một tên Mán cao lớn bước lại, tay cầm chiếc nỏ khá to. Đó là chúa động. Một tên trình cho chúa biết việc lão thày mo ở dưới hố, và lão đã nhảy lên thế nào. Tên chúa động quắc mắc nhìn Trô Ún. Lão Trô Ún ưỡn ngực, vênh mặt lên nhìn lại. Đôi thuồng luồng ở đầu gậy cũng ngóc lên như khiêu khích.
Lão Trô xưng ngay tên, vì lão tin rằng nếu chúng biết lão tất chúng phải kính nể oai danh của lão. Quả nhiên từ chúa đến quân, nghe tên lão xong đều tỏ ra kinh ngạc, đứng yên lặng nhìn nhau. Một lát, viên chúa cất tiếng oang oang, thách rằng nếu đúng thật là Trô Ún thì thử dương cái nỏ của hắn xem có nổi không.
Lão thày mo phì cười, đỡ chiếc nỏ, và không cần lấy sức, lão vừa duỗi thẳng cánh tay ra thì chiếc nỏ gẫy làm đôi.
Viên chúa Mán hoảng sợ, hắn vẫn khoe chỉ mình hắn mới dùng nổi chiếc nỏ lớn này, vậy mà không ngờ lão già lẻo khẻo kia lại bẻ nó như một cành cây mục. Hắn vội cúi chào tỏ ý bái phục lão Trô, rồi mời lão về chơi động. Lão không từ chối. Đến động, lão ngồi ngang với viên chúa Mán, uống rượu đựng trong cái sọ người, và cầm xâu thịt hươu nai nướng xiên bằng chiếc xương đẽo nhọn. Chúa Mán xin lão diễn võ Tầu, lão nể mà diễn chơi vài ngón. Chúng la hò bái phục. Lão ở luôn trong động ba ngày, rồi từ biệt chúa Mán lão lại chống gậy ra đi.