← Quay lại trang sách

CON XUỐNG AO CON Ở, BỐ SAY RƯỢU BỐ VỀ

Thấm thoát nửa năm trôi qua. Lão thày mo độ này không còn đi đây đi đó nhiều như trước nữa. Đôi thuồng luồng đã lớn bằng cây tre. Ban ngày chúng cứ cuộn vào hai cái cột, hễ màn đêm vừa buông là chúng bò xuống lẩn vào làng hút máu gà vịt nhà người ta. Dân các bản nhao nhao không hiểu sao gà vịt nhà nào cũng cứ ban đêm thì lăn ra chết, mà lạ một điều con nào cũng có vết thủng ở cổ, rất sâu và nhỏ. Lão Trô Ún tuy biết người ta kêu la, nhưng không thể ngăn ngừa hai "cậu con nuôi" được. Chẳng lẽ lão để cho chúng đói. Mà đói quá ắt chúng phải giết gà vịt của nhà.

Dân bản vẫn kêu la không ngớt vì số gà vịt chết nhiều quá. Người ta đã rình mò, nhưng sáng sớm chỉ thấy mặt đất trước cửa chuồng gà bị lõm thành vệt dài mà thôi. Sau đó, gà vịt trong làng vừa hết sạch thì đến lượt lợn lăn ra chết, mà cổ con nào cũng thủng. Hết lợn, tới lượt trâu bò. Riêng trâu bò thì thủng ở lưng. Dân bản đâm ra lo sợ, cho là tai ương do trời giáng xuống. Đôi thuồng luồng hút mãi máu lợn, trâu, bò trở nên to lớn gớm ghê. Cái gậy bịt sắt của lão thày mo trở nên vô dụng: chúng không thể quấn vào được nữa. Bây giờ bề to và bề dài của chúng quấn hết hai cái cột nhà, đầu chúng ở trên mái còn đuôi buông vừa chấm đất.

Vợ lão Trô không biết tính sao, một hôm bàn với lão đành thả đôi thuồng luồng vào suối hay thả chúng xuống cái ao lớn phía sau nhà. Lão Trô suy nghĩ mãi. Thả vào suối thì không đành, sau cùng lão nghĩ chỉ còn cách nuôi chúng ở ao nhà, vì dù sao cũng là tình nghĩa "cha con".

Buổi trưa hôm đó lão bắn được con lợn lòi, chọc tiết đãi đôi thuồng luồng. Còn thịt thì lão đốt lửa nướng để nhắm rượu. Đó là bữa tiệc tiến hai cậu con xuống nước. Lão ngồi giữa, đôi thuồng luồng cuộn khúc nằm chầu hai bên. Lão ngà ngà say, khẽ gõ cái gậy vào đầu chúng, nói:

- Ta già rồi, không muốn đi nhiều nữa. Từ nay không đi cúng, tất ta nghèo lắm, chỉ còn trông cậy vào cái ao cá sau nhà kia thôi. Vậy hôm nay ta cho hai con ở dưới ao, giữ cá cho ta. Hễ kẻ nào gian tham xuống trộm cá thì ta cho phép hai con quấn chết mà hút máu. Khi nào ta muốn xuống bắt vài con cá làm đồ nhắm thì các con phải nhớ rằng ta sẽ lấy đầu gậy gõ ba cái vào tảng đá trên bờ để ra hiệu cho hai con biết.

Thuồng luồng nghe lão nói đều cúi đầu có vẻ buồn rầu. Xong bữa rượu, lão đứng lên đi trước. Đôi thuồng luồng theo sau. Đến bờ ao, chúng nhoài xuống nước. Mặt ao đang phẳng lặng bỗng nổi sóng lên giào giạt và bọt nước tung trắng xóa mỗi khi chúng uốn khúc vẫy vùng. Từ đấy, đôi thuồng luồng ở hẳn dưới nước. Cách một hai ngày, lão thày mo lại xách nỏ vào rừng, và khi về lão lại ra bờ ao gõ ba cái vào hòn đá. Gõ vừa dứt thì sóng cuồn cuộn nổi, đôi thuồng luồng như vui mừng nhô nửa mình lên nhìn lão gật đầu ba cái. Lão vuốt râu cười vang rồi ném xuống cho hai "cậu con" một vật gì vừa bắn được.

Tình thân mật và sự sống của thuồng luồng và Trô Ún đều đều như vậy đã gần trọn một năm. Cho đến một ngày kia thì... lão chết. Than ôi, lão thày mo đã hiến máu mình cho cặp thuồng luồng mà lão hai năm trời nuôi nấng như con đẻ. Nguyên do hôm đó được mời đi cúng ở trong làng, lão đã uống nhiều rượu hơn mọi khi, và lão say đến phát điên phát dại.

Từ biệt nhà chủ ra về, lão đi một mình giữa rừng, trèo qua ba đợt núi cheo leo, lão nhảy lò cò một chân mà hát. Lão đứng trên đỉnh ngọn núi cao chót vót, xòe bàn tay bắt mây mà nguyền rủa. Lão xõa tóc, đọc thần chú, bắt quyết làm đủ mọi phép để sai Thiên lôi đánh đổ ngọn núi lão đang đứng, nhưng Thiên lôi không chịu nghe lời lão, lão tức mình hét vang cả trời. Hét to quá, và gió thổi mạnh quá khiến thân mình gầy choắt của lão lảo đảo, lão ngã đâm cổ xuống... Ấy thế mà chẳng hề hấn gì, xương thịt lão cứng như sắt nên chỉ bị thương xoàng. Đứng được lên, lão càng nguyền rủa Thiên lôi và cười sằng sặc.

Lần mò mãi rồi lão cũng về được tới nhà, đã toan đi ngủ nhưng vì nóng bức quá, lão lừ lừ ra ao. Lão say mèm nên quên gõ ba cái như mọi khi để báo cho hai cậu con nuôi biết, lão cứ lừ lừ lội xuống. Nước mát rời rợi, lão xoài mình ra bơi. Bỗng sóng nổi lên ầm ầm. Lão chìm nghỉm, chỉ kêu được một tiếng rồi im lặng. Xác lão đã chìm nghỉm dưới lòng ao. Máu lão đã vào bụng đôi thuồng luồng đang đói, đợi bố mang mồi về như mọi bận thì có kẻ dám xuống ao trộm cá, chúng chờ gì mà không thịt bởi bố chúng đã cho phép làm thế.

Hút máu xong đôi thuồng luồng nới khúc thân ra cho cái xác nổi lên. Bấy giờ chúng mới biết rằng chúng vừa hút máu bố nuôi. Trời tối. Dưới ánh trăng mờ mờ, chúng cuộn mình nằm bên xác lão thày mo, đầu rũ xuống như kẻ khóc.

Mụ vợ lão Trô Ún ít lâu nay bị đau mắt mà gần như bị mù. Mụ chỉ ngồi một xó trên nhà sàn, không đi đâu hết. Mụ già yếu lắm rồi, lại hỏng mắt, thành ra con người vô dụng, đành sống nhờ chồng lúc ốm đau.

Tối đó mụ đang dờ dẫm bốc nắm cơm thì nghe tiếng động, mụ lên tiếng hỏi. Đôi thuồng luồng đặt xác lão Trô vào lòng mụ. Như mọi lần thấy lão say ở đâu về, mụ lại cúi xuống ngửi xem chồng có thở không. Lần này nghe lâu lắm mà không thấy lão thở, mụ khóc nấc lên, bảo thuồng luồng:

- Bố chúng mày hẳn là say rượu bị gió cảm chết mất rồi. Ta mù lòa, yếu đuối, biết làm sao được, thôi thì các con chôn bố các con đi.

Nói rồi mụ già gục xuống ôm lấy xác chồng mà khóc.

Đêm hôm ấy, trăng sao bỗng bị mây che kín, mưa sầu gió thảm rất hãi hùng. Mưa to gió mạnh đến nỗi cây cối trong rừng đổ ầm ầm, và suối thác reo như ma kêu quỷ khóc. Một sự lạ là trong cơn giông bão ghê gớm đó, các nhà trong bản có cái cuốc cái thuổng nào đều bị biến đi đâu hết. Và trên căn nhà sàn của mụ già mù, cái xác chồng mụ được dân bản vừa khiêng xuống khỏi cầu thang thì nó bỗng đứng phắt dậy, đi vun vút trong bóng tối. Cái xác qua rừng, qua suối, qua núi, qua đồi, đi đến đâu cành khô lá mục kêu xao xác. Hươu, nai, hổ, báo đều tránh vết đi của cái xác. Chỉ duy nhất có một con cú bay theo xác chết kêu ai oán như để tiễn biệt. Giông bão vẫn không hề ngớt. Những tiếng sấm chuyển rừng, và những tiếng sét tưởng như xé núi.

Trong cơn giông bão, ở một dặng đồi cao có tiếng thuổng cuốc xoáy vào lòng đất. Lòng đất rung động dưới gió mưa sấm sét cho tới khi lũ gà rừng cất tiếng gáy rạng đông thì suốt dặng đồi kia đã thành ra một chiếc quan tài vĩ đại, trong đó chôn xác lão thày mo.

Đôi thuồng luồng đã táng xác lão già Trô Ún để đền ơn nuôi dưỡng, và chúng ở luôn trong ấy để canh giấc ngủ ngàn năm của lão như khi lão còn sống vậy.

*

Đến ngày nay, ai đi qua con đường Bắc Kạn - Thái Nguyên nếu lưu ý dò xem, ắt thấy cái hang thuồng luồng nọ vẫn còn nguyên dấu vết. Nước từ trong lòng hang chảy xối mãi ra ngoài, làm thành một vũng khá sâu. Vũng nước trong văn vắt, sáng như một tấm gương thiên cổ.

Ngọc Giao

Truyền Bá, số 123, năm 1944