Chương 16 THEO DẤU MÁU
Tôi mệt mỏi sau chuyến cuốc bộ dằng dặc đến Coniston nên ngủ rất say trong hai tiếng, rồi tôi đột nhiên thức giấc ngay trước khi chuông nhà thờ ngân lên. Theo bản năng, tôi biết lúc ấy là nửa đêm, nhưng tôi vẫn đếm từng hồi chuông để chắc chắn.
Tuy vậy, khi tôi ra đến cửa ngoài, ông Arkwright không có mặt tại đấy. Tôi kiểm tra một lượt rồi quay ngược vào phòng ông. Dừng chân bên ngoài và dỏng tai lên, tôi nghe thấy tiếng ngáy. Tôi gõ nhẹ lên cửa phòng, và khi không nghe tiếng trả lời, tôi chầm chậm đẩy cửa. Vuốt và Răng đồng thời khẽ gầm gữ khi tôi bước vào phòng, dù vậy, đuôi của chúng bắt đầu ve vẩy.
Ông Arkwright đang nằm trên giường, mặc nguyên quần áo. Miệng ông há to và ông đang ngáy ầm ĩ.
“Ông Arkwright,” tôi ghé sát vào tai ông. “Ông Arkwright, thưa ông, đến lúc thức dậy rồi ạ...”
Tôi gọi tên ông thêm nhiều lần nữa nhưng vô ích. Rốt cuộc tôi phải nắm vai ông mà lắc, thế là thình lình ông ngồi bật dậy, mắt mở to, mặt cau có giận dữ. Thoạt tiên tôi tưởng ông sắp đánh mình nên tôi liến thoắng.
“Ông bảo cháu đi gặp ông bên ngoài lúc nửa đêm, nhưng đã quá giờ hẹn lâu rồi...”
Tôi nhìn ra vẻ chợt hiểu thoáng qua trong mắt Arkwright; ông vung chân qua mép giường rồi loạng choạng đứng dậy.
Trên bàn đầu giường có hai chiếc đèn lồng, ông Arkwright thắp sáng cả hai rồi đưa cho tôi một cái. Đoạn ông lảo đảo ra khỏi phòng, xuống mấy bậc thang, tay ôm đầu, khẽ rên rỉ. Ông dẫn đường đi băng qua sân sau, hướng ra sườn đồi đầy ánh trăng ở ngoài. Tôi liếc lại phía sau quán trọ; mọi cửa sổ tầng trên đều tối om nhưng những cửa sổ tầng dưới vẫn rọi những tia sáng chói lòa lên mặt đất. Tôi nghe thấy từ trong ấy vọng ra tiếng nói cười khàn khàn cùng ai đó đang hát vang không theo giai điệu nào.
Những đám mây đã tan đi, không khí vừa khô vừa sắc lạnh. Hai con chó theo sát gót chúng tôi, mắt long lanh vì phấn khích. Chúng tôi chậm rãi leo lên mấy sườn núi phía nam của ngọn Old Man cho đến khi tuyết kêu lạo xạo dưới chân. Tuyết chưa dày lắm và bề mặt chỉ mới bắt đầu đóng băng.
Đến bên bờ hồ Con Dê, ông Arkwright dừng lại. Cái hồ be bé này được đặt tên rất chuẩn: một con sơn dương sẽ thấy thoải mái trên những bờ hồ dốc đứng cùng những vách đá lởm chởm chìa ra như thế này hơn là con người. Bờ bên này lác đác những tảng đá lớn, khiến cho lối vào thật khó khăn. Nhưng ông Arkwright không dừng chân để ngắm cảnh. Tôi bất ngờ khi thấy ông thình lình gập người và bắt đầu nôn ói dữ dội, phun ra nào bia nào thịt hầm xuống đất. Tôi quay lưng lại, đứng cách xa ra, dạ dày nhộn nhạo. Ông Arkwright nôn ọe một lúc rồi ngừng lại, tôi nghe thấy ông hít vào thật lắm khí trời đêm.
“Cậu thấy khỏe không, cậu Ward?” Ông Arkwright lảo đảo đi đến chỗ tôi.
Tôi gật đầu. Ông vẫn còn đang thở khò khè nặng nhọc và trên chân mày vương một lớp mồ hôi.
“Cái món thịt hầm khoai tây hẳn đã ôi rồi. Sáng mai tôi sẽ chửi cho tay chủ quán một trận ra trò, đảm bảo đấy!”
Ông Arkwright hít thêm một hơi sâu rồi dùng mu bàn tay chùi trán chùi mồm. “Tôi thấy không được khỏe cho lắm. Tôi nghĩ mình cần phải nghỉ một chốc,” ông bảo.
Chúng tôi tìm đến một tảng đá gần đấy cho ông tựa lưng vào và cả hai ngồi nghỉ, trong không gian yên ắng chỉ vang lên tiếng rên thi thoảng của Arkwright và tiếng hai con chó ư ử lạc lõng.
Sau mười phút, tôi hỏi xem ông có khỏe hơn không. Ông gật đầu và thử đứng dậy, nhưng hình như hai chân ông nhũn ra nên ông lại nặng nhọc ngồi xuống.
“Cháu có nên đi tiếp một mình không ông Arkwright?” Tôi đề nghị. “Cháu nghĩ ông không đủ khỏe để rà soát quanh đây, chứ đừng nói là đi đến tận hồ Coniston.”
“Không được đâu anh bạn, cậu không thể đi một mình. Rồi thầy Gregory sẽ nói gì đây, khi mụ Morwena đang ở lẫn trong chúng ta ấy? Năm phút nữa tôi sẽ khỏe như vâm ấy mà.”
Năm phút nữa trôi qua và ông Arkwright đang nôn ra lượng bia và thịt hầm cuối cùng, rõ ràng tối hôm đó ông không đủ sức khỏe để đi săn lùng mụ Morwena.
“Ông Arkwright này,” tôi nói, “cháu nghĩ tốt hơn là ông ở lại đây, tự cháu sẽ đi lùng quanh xem sao – hay chúng ta quay lại nhà trọ rồi tối mai đi tìm mụ cũng được.”
“Chúng ta phải tiến hành trong đêm nay,” ông Arkwright đáp. “Tôi muốn quay lại cối xay càng sớm càng tốt. Tôi đã đi khỏi nơi ấy quá lâu rồi.”
“Ồ, thế thì để cháu đi tìm quanh hồ Coniston. Cháu sẽ mang theo một con chó – cháu sẽ ổn mà.”
Ông Arkwright miễn cưỡng đồng ý. “Thôi được. Cậu thắng. Tối nay tôi không được khỏe để đến tận hồ Coniston. Cậu hãy đi ngược lại con đường chúng ta đã đi từ hướng tây bắc hồ rồi tìm kiếm tại đấy. Che đèn lồng lại để tránh thu hút sự chú ý không cần thiết. Nếu thấy mụ Morwena – hay đúng ra là kẻ nào hành xử đáng ngờ – đừng có liều lĩnh nhé. Chỉ đi theo chúng từ xa. Hãy đề phòng con mắt máu ấy và chỉ cố phát hiện cho ra chúng nấp vào đâu. Ngoài việc ấy thì đừng làm gì cả. Chỉ quan sát rồi trở về báo cáo với tôi.
Nếu thấy khỏe hơn, tôi sẽ lùng sục loanh quanh; sau đấy chúng ta có thể cùng nhau kiểm tra vùng hồ Leven. Và hãy mang con chó cái theo cậu,” ông ra lệnh. “Như thế sẽ giúp cậu có thêm cơ hội thoát thân nếu gặp rắc rối. Tôi nghĩ cậu tìm được đường từ đây đến hồ Coniston chứ hả?”
Tôi gật đầu. Bản đồ đã được in vào trí tôi rồi mà.
“Tốt. Chúc may mắn và hẹn gặp lại cậu tại đây.”
Không chờ nghe lời đáp lại, Arkwright cúi xuống thì thầm vào tai con Vuốt, rồi vỗ vỗ nó ba lần. Sau khi kéo tấm chắn bằng gỗ che ngang ngọn đèn, tôi thẳng tiến về Hồ Coniston, con Vuốt ngoan ngoãn đi bên cạnh tôi. Được vài bước chân, tôi lại nghe tiếng ông Arkwright nôn ọe và rên rỉ. Tôi biết rõ là món thịt hầm khoai tây chẳng bị gì đâu. Chỉ là bia quá mạnh mà ông ấy lại uống quá nhanh thôi.
Thế là, với con Vuốt bên cạnh, tôi tiến về hồ Coniston. Trên rừng cây, mặt trăng đang chầm chậm hiện ra.
Trong lúc tôi bước xuống đồi, trở lại con đường cũ hướng về ngôi làng, một tiếng kêu rờn rợn từ ngay bên trên vọng đến. Tôi chờ đợi, căng thẳng và cảnh giác, cảm nhận mối nguy hiểm. Âm thanh này quen lắm. Có thể là một kiểu tiếng kêu hay dấu hiệu cảnh báo nào đấy. Rồi âm thanh lạ lùng ấy lại vang lên, gần như là ngay trên đỉnh đầu, thế là thốt nhiên tôi nhớ ra mình từng nghe thấy nó ở đâu – trên đầm lầy, chỉ vài phút trước khi tôi chạm trán Morwena và mụ ta lôi tôi xuống sình. Ngay lập tức, tôi nhác thấy thứ gì đó bay về phía hồ Con Dê.
Chẳng nghi ngờ gì nữa, đấy là một loài chim và tôi quyết phải hỏi ông Arkwright ngay khi có dịp mới được. Một số phù thủy sử dụng cốt thuật hay huyết thuật, một số khác lại dùng thuật hiệp thần – những sinh vật biến thành tai mắt của bọn phù thủy và làm theo lệnh chúng. Biết đâu con chim lạ kia là vật hiệp thần của mụ Morwena chăng?
Rốt cuộc tôi cũng đến được làng và nhanh chân băng qua những con phố vắng tanh, con Vuốt lon ton theo sát. Chỉ có vài tia sáng le lói từ những cửa sổ tầng trên. Khi qua hết căn nhà cuối cùng, tôi đi bọc ven bờ phía bắc hồ nước, rồi ngồi xuống giữa những tán cây mà từ đấy nhìn ra có tầm quan sát rành rọt cả bờ hồ, mặt hồ phía trước lấp lánh ánh trăng bàng bạc.
Thời gian chậm chạp trôi đi, và mặc cho tôi cùng con Vuốt lùng sục khắp chốn, tôi chẳng nhìn thấy và cũng chẳng nghe ra thứ gì đáng chú ý. Tôi bắt đầu nghĩ về Alice, băn khoăn không biết cô đang làm gì hay có đang nhớ tôi nhiều như tôi nhớ cô. Tôi cũng nghĩ về thầy John Gregory của mình nữa. Có phải thầy đang an toàn êm ấm trên giường mình tại Chipenden, hay là giống như tôi, đang phơi mình trong bóng tối để làm việc của kẻ trừ tà?
Cuối cùng, tôi quyết định quay trở lại hồ Con Dê cùng ông Arkwright – nơi này chẳng thấy dấu tích gì của mụ Morwena cả.
Chuyến leo ngược lên núi này dường như khó khăn hơn lúc đi xuống, và mặc dù lối đi dần dà bằng phẳng, vẫn còn phải đi quanh ngọn Old Man nữa. Chẳng bao lâu sau tôi lại giẫm lạo xạo lên tuyết, theo dấu chân của chúng tôi dẫn về phía hồ. Sau rốt thì tôi cũng đến được nơi trông thấy quang cảnh hồ nước mà mình đã bỏ ông Arkwright lại. Tôi di chuyển hết sức lặng lẽ để không thu hút sự chú ý của bất cứ ai hay bất cứ thứ gì có thể đang lẩn khuất trên rặng đồi đá, nhưng đột nhiên, thật hãi quá, con Vuốt bỗng tru lên rồi phóng lên trước tôi.
Tôi mất ít thời gian mới đuổi kịp Vuốt và tôi cần đến trượng để đứng vững trên bề mặt trơn trượt. Khi đuổi đến gần hơn, tôi kéo lùi tấm chắn trên ngọn đèn để nhìn cho rõ.
Ngay lập tức tim tôi chùng xuống. Có vẻ như ông Arkwright cùng con Răng đã tìm thấy Morwena. Hay nói đúng hơn, mụ ta đã tìm ra họ. Răng đã chết, xác nó nằm sõng soài trên nền tuyết vấy máu. Cổ họng nó bị xé toạc. Quanh xác nó là những dấu chân – thứ dấu chân có vuốt và màng; thứ gì đấy bước đi thẳng thớm. Lại có thêm một vệt máu rộng dẫn đến bờ hồ. Trong lúc con Vuốt rền rĩ ai oán đau thương vì người bạn đã chết, tôi siết chặt thanh trượng, người tê dại vì sốc, và lần theo vệt máu thẳng đến mép nước.
Ngọn đèn soi rõ thanh trượng của ông Arkwright nơi mép hồ; một chiếc ủng của ông nửa nổi, nửa chìm trong nước. Phần da tả tơi, trông như thể chiếc ủng đã bị giằng khỏi chân ông ấy.
Thoạt tiên tôi không hề nghi ngờ chuyện gì vừa xảy ra: Morwena đã giết con Răng rồi móc lấy ông Arkwright mà lôi ông xuống nước. Đoạn tôi chú ý thấy xa xa sau đấy còn có nhiều dấu chân có màng khác nữa. Rất nhiều. Không chỉ có mỗi một mụ thủy phủ thủy hiện diện nơi đây. Nếu ông Arkwright chạm trán với mụ Morwena, thì mụ ta không xuất hiện đơn độc. Có phải mụ ấy đã tấn công từ dưới nước, trong khi những mụ khác từ phía sau xáp đến, khiến ông Arkwright chẳng có cơ hội thoát thân?
Tim tôi chấn động vì sợ. Có khả năng mụ ta đang ẩn mình dưới hồ quan sát tôi. Có thể có nhiều mụ phù thủy đang chờ cơ hội tấn công. Chúng sẽ trồi lên khỏi mặt nước lặng bất cứ lúc nào và tôi sẽ chịu chung số phận.
Con Vuốt bắt đầu tru lên, âm thanh đau đớn ấy từ vách đá lởm chởm bên trên dội lại. Trong cơn hoảng loạn, tôi bỏ chạy thật nhanh. Mỗi bước chân mang tôi đến nơi an toàn thì tiếng tru của con chó từng lúc một lịm đi. Có lúc tôi sợ con Vuốt sẽ phải chịu chung kết cục như bạn nó. Thế là tôi dừng bước, huýt sáo gọi Vuốt lại. Tôi thử gọi đến ba lần nhưng chẳng nhận được lời đáp, thế là tôi tiếp tục chạy về nhà trọ.
Xỉn quắc lên như thế, hẳn ông Arkwright đã có rất ít cơ hội tự vệ. Ông ấy từng là một thầy trừ tà thành công và nhiều kinh nghiệm, nhưng ông ấy đã phạm sai lầm nghiêm trọng là uống quá nhiều. Một sai lầm khiến ông mất mạng.
Tôi đến được nơi an toàn là quán trọ và nhốt mình trong phòng, không rõ phải làm gì khác nữa. Ngay khi trời sáng, tôi dự định quay về Chipenden và kể cho Thầy Trừ Tà những gì đã xảy ra. Thật lòng tôi không thể nói là mình thích ông Arkwright, nhưng cái cách ông ấy chết làm tôi rúng động. Ông là một thầy trừ tà tài giỏi và hẳn đã có thể dạy cho tôi nhiều điều hữu ích – có thể là trọng yếu nữa. Với tất cả những phương thức say xỉn lẫn hăm dọa kẻ khác của mình, ông là một kẻ thù nặng ký của thế lực bóng tối và sự ra đi của ông sẽ khiến cho Hạt thêm khó khăn.
Nhưng liệu bây giờ tôi có đang gặp nguy hiểm cấp kỳ không? Cửa nẻo có thể bị phá vỡ. Nếu chủ quán mà dự phần vào chuyện này thì đám thủy phù thủy sẽ biết tôi là ai và đang ở đâu. Morwena sẽ đích thân đến bắt tôi hoặc sai khiến những thủy phù thủy khác đến lôi tôi xuống hồ.
Tôi nhớ ra Alice từng đề cập đến chuyện dùng gương để giữ liên lạc. Thầy Trừ Tà sẽ không thích đâu nhưng tôi đang tuyệt vọng. Tôi phải kể với hai người ấy chuyện gì đã xảy ra ngay lúc này. Biết đâu Thầy Trừ Tà sẽ lên phương bắc cứu tôi? Hay là gặp tôi ở giữa đường?
Ngồi ké mép giường, tôi rướn người tới trước, đặt cả hai lòng bàn tay vào mặt gương lạnh lẽo và bắt đầu nghĩ về Alice theo như lời cô chỉ dẫn. Tôi cố hình dung ra gương mặt cô và nghĩ đến những cuộc chuyện trò giữa chúng tôi, những thời khắc vui vẻ lúc còn sống tại nhà Thầy Trừ Tà ở Chipenden. Tôi tập trung cao độ, nhưng chẳng có gì xảy ra cả.
Sau một đỗi, tôi ngả lưng ra giường mà nhắm mắt lại, tuy nhiên, tôi cứ mãi nhìn thấy cái xác khủng khiếp của con Răng, thấy vết máu trên tuyết và chiếc ủng của ông Arkwright dưới nước. Tôi ngồi dậy, đưa tay ôm đầu. Liệu có cách nào để Alice cảm nhận được tôi và sử dụng thứ dì cô ấy, mụ Lizzie Xương Xẩu, đã dạy cho không nhỉ? Thậm chí có khi nào bây giờ Alice đang lầm rầm trước gương trong căn nhà của Thầy Trừ Tà nơi Chipenden ấy không?
Làm sao chúng tôi có thể liên lạc với nhau khi có một khoảng cách quá lớn chia cắt giữa tôi và Alice như thế? Mà ngộ nhỡ thầy tôi bắt quả tang cô thì sao? Liệu thầy có hiểu chuyện này là cần thiết? Biết đâu thầy lại đuổi Alice đi – biết đâu đấy chính là lý do thầy đang tìm kiếm bấy lâu nay.
Sau chừng mười phút, tôi lại áp tay vào gương. Lần này tôi nghĩ về lúc mình dẫn Alice đến nhà dì cô ấy ở Staumin. Tôi nhớ đến món thịt thỏ ngon tuyệt mà Alice đã bắt và nấu cho, rồi nhớ đến cách cô ấy với sang nắm tay tôi sau đấy. Bàn tay trái của Alice nắm lấy tay trái của tôi và tôi cảm thấy hơi chút tội lỗi, biết là Thầy Trừ Tà sẽ không thích chuyện này đâu, nhưng trong lòng tôi quả thật hạnh phúc lắm.
Ngay lập tức tấm gương bừng sáng, dưới lòng bàn tay tôi, mặt kính ấm lên, và đột nhiên mặt Alice hiện ra. Tôi thả tay và nhìn chăm chăm vào mắt cô.
Miệng Alice hé mở và cô bắt đầu nói nhưng tấm gương lại câm lặng. Tôi biết đám phù thủy dùng gương để do thám nhau và tìm hiểu về nạn nhân sắp tới của chúng, nhưng có đúng là chúng thực sự liên lạc với nhau bằng cách đọc môi không nhỉ? Tôi không hiểu Alice nói gì, bèn lắc đầu. Thấy vậy, Alice rướn người tới trước và tấm gương bắt đầu mờ đục. Cô viết nhanh lên kính:
!tếiv iồr oàv iơh àH
Nghĩa là gì đây chứ? Tôi ngơ ngác một đỗi, nhưng rồi cũng giải mã thành công lời nhắn. Mặt gương đã đảo ngược lời Alice. Đấy là lời hướng dẫn. Hà hơi vào rồi viết! Alice đang mách cho tôi cách nói chuyện với cô.
Thế là tôi chồm tới, dùng hơi thở làm mờ tấm gương và nhanh tay viết:
Ông Arkwright đã bị một thủy phù thủy tên Morwena giết. CỨU!
Mắt Alice mở lớn, cô hà hơi vào gương và lại viết:
?uâđ ở gnađ uậC
Lần này tôi thấy dễ đọc hơn. Cậu đang ở đâu? Thế là tôi lấy tay chùi gương và lại hà hơi vào đấy trước khi viết:
Coniston. Đang trên đường quay về. Hãy báo cho Thầy Trừ Tà. Gặp tớ tại cối xay nước của ông Arkwright.
Vài giây sau, tôi lại chùi gương sạch sẽ để có thể nhìn thấy mặt Alice. Cô gật đầu, mỉm cười yếu ớt với tôi nhưng trông cô vô cùng lo lắng. Trong lúc tôi dõi theo, gương mặt Alice mờ dần, rồi chỉ còn mỗi tôi đang nhìn vào hình ảnh của chính mình.
Sau đấy, tôi nằm vật ra giường, chờ đến lúc trời sáng. Tôi rời khỏi nơi này sớm chừng nào thì tốt chừng nấy.