Chương 7 Cuộc Hành Trình Bắt Đầu
Cuối cùng cũng tới lúc đi đến mũi Sunderland mà bắt đầu cuộc hải hành dài đăng đẵng đến Hy Lạp. Năm cỗ xe ngựa được thuê để chở chúng tôi cùng hành trang vật dụng ra đến biển - một trong số đó được phủ bạt đen kín để giúp Mẹ tránh ánh nắng mặt trời.
Những phù thủy ở Pendle đã đi bộ từ trước đó một ngày. Mab và hai đứa em là thành phần trong nhóm bảy người thuộc tộc Mouldheel. Đồng thời còn có chín đại diện của tộc Deane và mười một người tộc Malkin, đã tính cả Grimalkin. Alice đi cùng với họ. Chúng tôi thậm chí còn chưa kịp chào tạm biệt nhau.
Buổi chia tay với anh Jack, chị Ellie và anh James ngắn gọn nhưng lưu luyến. Jack ôm Mẹ thật chặt hồi lâu, và khi hai người rời nhau ra thì mắt anh đã ướt nhòe. Lúc Mẹ leo vào xe, tôi nhìn thấy má bà cũng ươn ướt. Tôi cố gắng xóa hình ảnh ấy khỏi tâm trí, nhưng dường như đây là cuộc chia ly cuối cùng; mẹ với các anh có thể sẽ chẳng bao giờ gặp được nhau nữa.
Tôi cũng nghĩ đến lần gặp gỡ sau cùng với thầy mình. Giờ đây tôi trên đường đi đến một vùng đất hoàn toàn xa lạ để đối mặt với những hiểm nguy to lớn.
Có thể tôi cũng sẽ không bao giờ gặp lại Thầy nữa. Tôi chỉ ước rằng lúc đó mình đã có cơ hội từ biệt Thầy một cách đàng hoàng để cám ơn người đã khuyên răn dạy dỗ mình.
Chuyến hành trình diễn ra trơn tru và chúng tôi ra đến mũi Sunderland thì thấy nơi đây thật nhộn nhịp tất bật.
Độ sâu của con kênh không cho phép những con tàu lớn áp sát vào bờ, trong khi ngoài cửa biển là con tàu loại ba cột buồm lớn đang thả neo chờ. Đó là tàu Celeste, được thuê để chở chúng tôi băng đại dương đến tận Hy Lạp. Đó cũng là con tàu có vận tốc lớn - một trong số những thương thuyền cao tốc nhất hoạt động ở cảng Hạt.
"Giờ con hiểu tại sao mẹ cần nhiều tiền rồi phải không nào?" Mẹ hỏi tôi. "Thuê con tàu như thế này thì không thể rẻ được. Cả việc thuê được đội thủy thủ chấp nhận chở khách là một đám phù thủy cũng không rẻ."
Những chiếc thuyền nhỏ cứ chạy xuôi ngược giữa bãi biển và con tàu lớn để vận chuyển đồ. Mặt trời chiều vẫn còn đó, nhưng gió lại quá to, tôi nhìn theo những dòng nước dập bập bềnh lòng đầy lo lắng.
Lúc đó tôi nghe thấy tiếng sủa mừng rồi con Vuốt đang nhảy chồm vào tôi cùng hai chú cún nhỏ. Ông Bill Arkwright đi sát sau chúng.
"Sẵn sàng cho chuyến hải hành chưa cậu Ward? Cũng không phải một ngày quá xấu để khởi hành nhỉ," ông nói. "Nhưng biển có hơi động, ra ngoài khơi xa chắc còn động hơn. Mọi thứ sẽ ổn thôi một khi cậu hết lạ nước lạ cái."
Tôi không nói gì mà chỉ liếc nhìn qua Alice, cô bé đang đứng gần một nhóm phù thủy. Rõ là cô trông lo lắng chẳng kém tôi, nhưng bắt gặp mắt tôi thì cô vẫn vẫy khẽ tay chào. Tôi vẫy tay đáp trả rồi nhìn đám phù thủy đang chằm chặp nhìn xuống mặt nước hung hăng.
Biển khơi không làm khó được phù thủy giống như nước sông chảy siết đâu, nhưng muối thì vẫn là mối đe dọa đáng ngại. Nếu bị chìm trong biển, họ sẽ chết chắc. Đến cả bọt nước bắn lên cũng là mối nguy đối với họ, do vậy bọn họ toàn phải đeo găng tay mặc quần chẽn, ngay cả tộc Mouldheels thường đi chân trần cũng phải mang những chiếc vớ len. Tất cả bọn họ đều mặc áo trùm da, đó là một loại đồ bó chặt người, có những lỗ nhỏ để lộ mắt, mũi và miệng. Nhưng dù có trang bị thêm mấy thứ quần áo này, tôi đoan chắc rằng trong suốt cuộc hành trình đám phù thủy này sẽ vẫn luôn túm tụm rúm ró một góc trong khoang con thuyền Celeste mà thôi. Mẹ bảo rằng thủy thủ đoàn đều đã được thông báo về khách đi thuyền, dẫu vậy lúc trên bờ thì đám phù thủy vẫn lôi kéo vài ánh nhìn không mấy thiện cảm và đa số người ta đều lánh xa.
Hai chiếc thuyền lớn chèo tới chở chúng tôi ra khơi theo từng tốp khoảng sáu người. Mẹ đi đầu, được thuyền trưởng tàu Celeste hộ tống. Tiếp đến là những phù thủy được chèo đưa đi, tiếng la oai oái và tiếng gào lên vì bị dính bọt muối của họ dần dần xa khuất. Nhưng Alice không đi với bọn họ. Cô bé đến đứng cạnh tôi.
"Có phiền cậu không nếu tớ đi cùng cậu, Tom?" cô bé hỏi đầy ngượng ngùng.
"Dĩ nhiên là không rồi," tôi đáp.
Rồi chúng tôi cùng nhau đi trên chuyến tàu cuối, cùng ông Arkwright và ba chú chó. Mấy con chó thì phấn khích quá đỗi đến mức ông chủ của nó phải quát mấy câu thì con Vuốt mới chịu nằm yên một chỗ. Con thuyền chòng chành đến sợ, nhưng may thay đoạn đường đi ra tàu không quá dài. Leo thang dây lên tàu chẳng khó khăn gì, còn chiếc giỏ to được thả xuống để kéo mấy chú chó lên.
Mẹ cùng thuyền trưởng - một bác cao to có khuôn mặt đỏ au cùng hàm râu kẽm vểnh hẳn ra ngoài - đang đứng ở cột buồm chính: mẹ vẫy tay gọi tôi lại.
"Đây là thuyền trưởng Baines," bà vừa nói vừa mỉm cười, "người đi biển cừ nhất trong Hạt mình đấy."
"À, ta quả nhiên là được sinh ra và lớn lên ở Hạt mình đã làm quen với thuyền bè từ ta còn nhỏ hơn cậu đấy, cậu bé ạ," ông ta đáp, "nhưng còn việc ta là cừ nhất thì chưa chắc đâu. Vùng đất của chúng ta có vô số thủy thủ tài giỏi mà!"
"Ông chỉ được cái khiêm tốn," mẹ tiếp lời. "Mà cãi lời phụ nữ cũng không phải là lịch sự đâu nhé!"
"Ôi vậy tôi nợ bà một lời xin lỗi rồi," thuyền trưởng cúi mình. "Thực ra, ta nợ Mẹ cậu nhiều lắm," ông vừa nói vừa quay sang tôi. "Ta có hai đứa con sinh đôi - tuần trước chúng vừa tròn năm tuổi. Nếu không nhờ Mẹ cậu chắc giờ chúng đã chết mất rồi còn đâu. Có lẽ là cả vợ ta nữa ấy chứ. Mẹ cậu là bà đỡ cao tay nghề nhất trong Hạt mình."
Quả là vậy thật. Trước khi quay về Hy Lạp, mẹ tôi đã từng giúp đỡ rất nhiều phụ nữ trong Hạt trong những ca sinh khó và bà đã cứu sống rất nhiều người.
"À quên, có lẽ sẽ là bất lịch sự nếu ta không giới thiệu hai mẹ con một vòng quanh con tàu này nhỉ," ông nói tiếp. "Tàu này trong vài tuần tới sẽ là nhà của mọi người nên mọi người cũng nên biết là mình đang ở đâu chứ!"
Ông chỉ cho mẹ con tôi xem nhiều phần khác nhau trong khoang, cả khoang bếp lẫn kho dự trữ của tàu, và tôi sớm hiểu được chính xác ý của thuyền trưởng là gì. Dẫu từ ngoài nhìn vào tàu Celeste trông thật hoành tráng, nhưng thực sự ra nó lại rất nhỏ đối với một lượng hành khách lớn như vậy. Nơi sinh hoạt của thủy thủ đoàn phía mũi tàu trông nhỏ xíu, nhưng thuyền trưởng giải thích rằng không phải hết thảy các thủy thủ đoàn đều đi ngủ cùng lúc: có đến ba phiên trực, cho nên trong cùng một thời điểm sẽ có một phần ba đám thủy thủ phải làm việc. Đám phù thủy ở phía đuôi tàu, phía phần sau của chiếc Celeste, và có một góc riêng nơi tôi sẽ ở cùng và ông Arkwright. Ngoài ra còn có hai cabin nhỏ: cái đầu tiên của thuyền trưởng, cái thứ hai dành riêng cho Mẹ.
Phòng của Mẹ nhỏ nhưng được sắp xếp rất gọn gàng.
Ngoài chiếc giường ngủ còn có thêm một chiếc ghế bành và một chiếc bàn nhỏ cùng hai chiếc ghế gỗ có lưng tựa. Mọi nội thất bằng gỗ trong phòng đều được đóng dính vào sàn tàu phòng trường hợp chúng bị trượt khi có bão. Khung cửa sổ nhỏ xíu không đủ cho nhiều ánh sáng chiếu vào nên thuyền trưởng đã thắp đèn lên.
"Tôi hy vọng là bà sẽ thấy thoải mái ở đây, bà Ward," ông nói. "Giờ thì tôi phải quay trở lại nhiệm vụ của mình đây. Chúng ta sẽ khởi hành trong vòng một tiếng nữa."
"Còn hơn cả thoải mái ấy chứ, tôi chắc chắn là vậy, Thuyền trưởng ạ," mẹ đáp rồi mỉm cười như để cám ơn ông.
Tôi theo bước thuyền trưởng Baines trở lên boong tàu thì thấy thủy triều đang dâng lên rất nhanh, gió thổi lồng lộng, không khí sực mùi muối và mùi hắc ín. Chẳng mấy chốc những cánh buồm lớn đã dong lên, neo được nhổ, và sau một tiếng rền vang trời, cùng đợt rùng rùng và vải bạt phần phật, tàu Celeste bắt đầu dịch ra khỏi mũi Sunderland. Thoạt tiên con tàu đi cũng không nhanh lắm. Chiều hôm ấy trời trong và mặt trời vẫn còn lấp ló mé chân trời nên xung quanh vẫn còn rất nhiều thứ để ngắm. Ở phía Bắc, ông Arkwright chỉ ra Cartmel và Old Coniston, hai ngọn núi chúng tôi đã đi qua năm trước.
"Chúng ta đã trải qua quãng thời gian đáng sợ ở đó!" Alice reo lên.
Chúng tôi đều gật gù. Ông Arkwright thì xém mất mạng còn con Nanh, bạn đời của Vuốt, đã bị mụ thủy phù thủy Morwena giết hại.
Việc đi tàu cũng không đáng sợ như tôi đã tưởng tượng, nhưng chúng tôi chỉ mới vượt qua Vịnh Morecambe, một vịnh nằm khuất mình khỏi gió lớn. Biển rộng bao la nằm ngay phía trước chúng tôi, và khi chúng tôi vừa vượt qua cửa sông Wyre, tôi có thể trông thấy một lằn nước trắng bập bềnh. Ngay lúc chúng tôi vừa chớm ra đến đấy, con tàu bắt đầu bị nhồi lên nhồi xuống tròng trành đến ớn lạnh. Chốc sau là bụng tôi đã nhờn nhợn, và trong vòng mươi phút, tôi đã nôn thốc nôn tháo hết ra ngoài.
"Mất bao lâu nữa mới hết lạ nước lạ cái thế ạ?" tôi hỏi ông Arkwright đang cười nhăn nhở.
"Có thể là vài giờ, hoặc vài ngày," ông đáp, trong khi tôi đang cố ngáp ngáp lấy hơi. "Cũng có những người tội nghiệp chẳng bao giờ hết lạ hẳn. Thôi cứ hy vọng cậu là một trong số những người may mắn đi nhé cậu Ward!"
"Cậu xuống dưới boong tàu đi, Tom," Alice bảo tôi. "Thủy thủ không thích nhìn thấy phụ nữ ở trên boong vào những lúc trời trong biển lặng đâu. Họ nghĩ đấy là điềm gở. Tốt hơn hết là tớ nên khuất tầm mắt họ."
"Không, ở lại đây đi, Alice. Mẹ thuê con tàu này mà - nên họ sẽ phải ráng mà chịu!"
Nhưng Alice vẫn khăng khăng. Tôi cũng ráng theo Alice xuống nhưng đám phù thủy khác lại đang chịu không nổi những chuyển động dập dềnh. Dưới vùng tối mù kia mùi ói mửa hôi thối nồng nặc đến nỗi tôi phải nhanh chóng trốn lên trên để hít thở được không khí trong lành. Tối đó, theo lời khuyên của ông Arkwright, tôi ngủ trên võng dưới trời sao khi tàu chúng tôi men dọc đường bờ biển xuôi về nam. Đến rạng sáng hôm sau tuy chưa hẳn là hết lạ nước lạ cái nhưng tôi cảm thấy đỡ hơn nhiều và có thể quan sát thủy thủ đoàn bạo dạn leo trèo trên cột buồm để chỉnh hướng buồm. Họ chẳng có thời gian cho chúng tôi - như thể chúng tôi chẳng hề tồn tại - nhưng tôi cũng không quan tâm lắm: họ lúc nào cũng bận rộn, và khi tàu chòng chành hay bị nhấp nhô quá trớn, thì quả thật việc đứng chóc ngóc trên cột buồm đó là quá nguy hiểm.
Ông Arkwright hiểu biết rất nhiều về chuyện đi biển, cũng đã đi vài chuyến dọc bờ biển lúc còn phục vụ trong quân đội. Ông dạy tôi tên những bộ phận khác nhau trong một con tàu: bên trái tàu thì gọi là "mạn trái", phía phải thì gọi là "mạn phải"; phần phía trước thì gọi là "mũi tàu" và phía sau là "đuôi tàu". Bố tôi cũng là một thủy thủ, nên tôi cũng biết gần hết những gì ông Arkwright đang nói đây, nhưng bố tôi cũng đã dạy cho tôi biết phép tắc nên tôi lịch sự lắng nghe mọi điều ông Arkwright đang giảng giải.
"Những con tàu ở Hạt mình đều được đặt tên của giới nữ," ông giải thích. "Ví như "Celeste", tên của con tàu này. Cậu học tiếng Latin nên chắc cũng hiểu, từ đó có nghĩa là tuyệt sắc, và dĩ nhiên một số phụ nữ đúng là tuyệt sắc thật. Nhưng trong cơn bão lớn, một con tàu có thể rất hiềm thù nếu nó không được điều khiển đúng cách hay được đối xử hợp lễ. Có những con sóng đồ sộ như thánh đường; chúng có thể quật úp con tàu như thế này mà nuốt chửng. Tàu thuyền ra khơi rồi mất tích, bặt tăm với toàn bộ thủy thủ đoàn. Chuyện xảy ra thường xuyên lắm. Làm thủy thủ vất vả vô cùng - xét theo khía cạnh nào đó thì cũng vất vả như làm một Thầy trừ tà vậy."
Lúc này chúng tôi đã đi thuyền vào cửa con sông cái tên Mersey, ở đây chúng tôi neo tàu, chờ thủy triều lên. Hình như chúng tôi vẫn chưa ra khỏi Hạt. Chúng tôi phải ghé vào chóng vánh tại Liverpool để tiếp tế thêm lương thực.
Khác với mũi Sunderland, Liverpool có một cầu cảng gỗ rộng lớn và tàu Celeste có thể neo đậu được. Hầu hết chúng tôi đều nhân cơ hội này xuống đất liền duỗi tay duỗi chân, nhưng đám phù thủy thì vẫn ru rú dưới khoang. Khi bước lên bờ ngay chỗ cầu cảng, tôi thấy có cảm giác lạ lẫm - mặc dù là tôi đang đứng trên đất bằng, mặt đất chừng như vẫn đang di chuyển dưới chân tôi.
Chúng tôi ngồi đợi trong khi các công nhân bốc dỡ bận rộn khuân hàng lên tàu để chúng tôi kịp ra khơi trong cùng đợt triều lên. Hoặc là thế hoặc phải bị trì hoãn đến tận lúc sẩm tối.
Trở lại boong tàu, tôi đứng ngay cạnh Mẹ khi những thủy thủ tháo dây neo tàu khỏi cột. Mẹ phải kiếm chỗ bóng râm nơi cột buồm chính và cứ mãi lấy tay che ánh nắng mà nhìn chăm chú ra xa như đang mong trông thấy gì đấy. Tôi trông theo hướng nhìn của bà, và qua khóe mắt tôi thấy gương mặt bà bỗng bừng lên mỉm cười.
Có ai đó đang tất tả chạy về hướng chúng tôi. Với thật kinh ngạc làm sao tôi phát hiện ra đó chính là thầy của mình! Ông đang cầm cái túi và thanh trượng, chiếc áo choàng của ông bay phần phật đằng sau. Nhưng con tàu Celeste đã rời khỏi cầu cảng, mỗi lúc khoảng cách một rộng hơn. Thầy trừ tà quẳng túi và thanh trượng về phía chúng tôi. Chúng rơi xuống boong tàu, tôi nhanh nhảu nhặt lên trong khi thầy đắn đo nhìn khoảng hở. Khi đấy mẹ tôi bước tới vẫy tay ra hiệu cho thầy.
Ông quay phắt đi, chạy lùi lại vài bước, rồi chạy phóng đến mép cầu cảng. Tim tôi như muốn phóc ra ngoài. Không thể nào thầy lại vọt đi qua một khoảng cách lớn như thế. Nhưng thầy vọt đi thật: đôi ủng của thầy đáp xuống ngay mép boong tàu, thầy lảo đảo và bắt đầu ngã ngửa ra sau.
Mẹ tôi bước lên trước chụp lấy cổ tay Thầy trừ tà, đoạn giữ thầy thăng bằng rồi kéo ông về phía trước cho khỏi ngã. Thầy trông như là ngã vào vòng tay bà như thể họ đang ôm lấy nhau, nhưng tất cả chỉ là do sự chuyển động của con tàu mà thôi. Thầy khẽ thụt lùi rồi hơi cúi người chào bà trước khi ông tiến về phía tôi. Tôi tưởng thầy có gì cần nói với tôi chứ, nhưng ông chỉ đến lấy cái túi và thanh trượng rồi bước thẳng xuống khoang tàu - thậm chí không liếc sang tôi lấy một lần.
"Con mừng vì cuối cùng Thầy cũng đi với chúng con!" tôi gọi với sau lưng thầy.
Đến quay người lại thầy tôi cũng không hề. "Mẹ, thầy giận con ạ?" tôi hỏi.'
"Giận chính bản thân mình thì đúng hơn," bà trả lời. "Hãy cho ông ấy thời gian. Nhưng lúc này thì mẹ không nghĩ ông ta muốn làm thầy của con đâu."
"Lúc này á? Có nghĩa là ngày nào đó con sẽ lại được làm chân học việc cho thầy sao?"
"Cũng có thể đấy nhưng chẳng dám chắc."
Một khoảng lặng giữa hai mẹ con tôi, chúng tôi có thể nghe thấy tiếng thủy thủ đoàn quát tháo khi đang cố điều khiển con tàu Celeste ra khỏi bến cảng và hướng ra cửa sông, rồi ra biển lớn. Con tàu lại bắt đầu trờ đi, tiếng quang quác của bọn hải âu cứ theo chân chúng tôi.
"Sao mẹ nghĩ là thầy sẽ thay đổi suy nghĩ vậy?"
"John Gregory là một người gan dạ luôn luôn đặt nhiệm vụ lên trên mọi nhu cầu và ước nguyện cá nhân. Và đấy chính xác là điều thầy con đã làm lần này. Ông đã nhận ra nhiệm vụ cao cả hơn của mình là gì đã đặt nó trên những gì mình tin tưởng. Ông ấy đã bị buộc phải hy sinh vài nguyên tắc của mình, và đối với một người như ông ta, chuyện ấy rất khó khăn."
Dẫu Mẹ có nói gì đi nữa, tôi cũng không hoàn toàn tin rằng đó là nguyên do duy nhất. Thầy trừ tà vẫn luôn cho rằng ta không thể bắt tay với những kẻ phục vụ thế lực bóng tối. Hẳn đã có điều gì đó khác khiến thầy đổi ý - cái này thì tôi chắc chắn.