Chương 8 Mấy Quý Cô
John Gregory là một người gan dạ luôn luôn đặt nhiệm vụ lên trên mọi nhu cầu và ước nguyện cá nhân. Và đấy chính xác là điều thầy con đã làm lần này. Ông đã nhận ra nhiệm vụ cao cả hơn của mình là gì đã đặt nó trên những gì mình tin tưởng. Ông ấy đã bị buộc phải hy sinh vài nguyên tắc của mình, và đối với một người như ông ta, chuyện ấy rất khó khăn."
Dẫu Mẹ có nói gì đi nữa, tôi cũng không hoàn toàn tin rằng đó là nguyên do duy nhất. Thầy trừ tà vẫn luôn cho rằng ta không thể bắt tay với những kẻ phục vụ thế lực bóng tối. Hẳn đã có điều gì đó khác khiến thầy đổi ý - cái này thì tôi chắc chắn.
Bọn xâm lược là liên minh những nước ở phía đông và đông nam của hòn đảo. Cảm giác thật là lùng làm sao khi ở cận kề trận chiến nhưng mà lại đang dong buồm ra biển cả ngoài kia.
Sau khi băng qua Eo biển, chúng tôi đâm đầu thẳng vào một cơn bão lớn ở vịnh Biscay. Sấm giật đùng đùng trên đầu như tiếng đại bác chúng tôi nghe thấy lúc trước, những tia sét chằng chịt xé toạc bầu trời, con tàu vật vã quăng quật giữa biển cả sùng sục tung bọt. Tôi không phải là người duy nhất sợ cả đám sẽ chết chìm đâu, nhưng thủy thủ đoàn vẫn bình tĩnh lèo lái đưa chúng tôi ra vùng nước yên ả hơn, không khí ngày qua ngày càng thêm ấm áp.
Cuối cùng lại, sau khi vượt qua eo biển Mẹ gọi là Cột chống Herakles, chúng tôi tiến vào Địa Trung Hải, một vùng biển mênh mông nằm giữa đất liền.
"Herakles là ai vậy mẹ?" tôi hỏi mẹ. "Ông ấy là người Hy Lạp ạ?" "Ừ, là một anh hùng và là người có sức mạnh phi thường," mẹ trả lời. "Là người mạnh nhất thế gian này. Con có thấy tảng đá to ở phía bắc kia không? Gọi là Gibraltar đấy, là một trong hai cây cột. Herakles đã nhổ nó lên và ném xuống kia!"
Tôi phì cười. Phi lý quá! Cái ông này phải to lớn đến nhường nào mới làm được việc như vậy chứ?
"Cứ cười đi con," Mẹ trách, "nhưng Hy Lạp là vùng đất của những điều kỳ lạ- đều là sự thật cả đấy đến mức con không tin nổi đâu."
"Nhưng không phải là ném một tảng đá như thế chứ!"
Mẹ tôi không đáp; bà chỉ mỉm cười một cách đầy bí hiểm rồi quay đi. Trước đi chưa được chục bước thì bà lại vẫy tôi đi theo, thế là tôi theo mẹ xuống cabin của bà. Nào giờ mẹ chưa từng mời tôi vào cabin nên tôi tự hỏi không biết bà muốn gì. Phải là điều gì đó mà mẹ cần nói chuyện riêng với tôi thôi.
Mẹ dẫn đường đi vào cabin âm u, thắp ngọn đèn dầu lên rồi đặt ngay chính giữa bàn, ra hiệu cho tôi ngồi phía đối diện bà.
"Nào, mẹ nghĩ đã đến lúc nói cho con rõ hơn chút về những gì chúng ta sẽ phải đối đầu ở Hy Lạp," mẹ mở đầu.
"Cám ơn ạ," tôi đáp. "Con cứ băn khoăn mãi về chuyện mình không hiểu biết gì nhiều đây."
"Mẹ biết chứ con, nhưng mẹ e là có rất nhiều chuyện đến mẹ còn không biết nữa. Mẹ lo rằng mụ Ordeen sẽ có thể xuyên qua cổng dịch chuyển trước khi chúng ta đến nơi. Như mẹ từng kể, mụ ta luôn ghé qua cứ mỗi bảy năm một lần, nhưng không nhất thiết lúc nào cũng cùng một ngày cả."
"Có nghĩa là ta chẳng có cách nào biết được chắc chắn khi nào thì mụ ấy đến đúng không ạ?"
"Ừ, nhưng ngay gần thời khắc đó xảy ra thì sẽ có những dấu hiệu không thể lẫn đi đâu được. Đầu tiên là chim chóc và muông thú sẽ bỏ chạy khỏi khu vực đó. Rồi thì bầu trời sẽ chuyển sang màu vàng và vòi rồng sẽ cuộn lên từ nơi cổng dịch chuyển mở ra. Lúc nào cũng thế cả. Ba ngày và ba giờ đồng hồ sau, hoặc là tất cả chúng ta sẽ chết hoặc là mụ Ordeen đã bị tiêu diệt."
"Mình có cơ hội thành công nào không Mẹ?" tôi khẩn khoản. Nghe sao mà hãi quá. Mọi thứ như đều phụ thuộc vào điều chúng tôi chuẩn bị làm.
"Có chứ con. Nhưng cũng sít sao lắm. Ngay khi mụ Ordeen xuất hiện ở đồng bằng phía Nam Kalambaka, mục tiêu đầu tiên là mụ sẽ tàn phá hết thành phố đó, giết sạch dân cư để lấy máu họ. Những kẻ xấu số nếu có thể trốn được tay chân của mụ thì sẽ bị đám Maenad xé xác và ngấu nghiến. Không ai thoát được."
"Thế còn những người sống ở thị trấn đó thì sao hả mẹ? Tại sao họ cứ sống ở đấy nếu chuyện này cứ bảy năm lại xảy ra một lần chứ?"
"Nhà cửa họ ở đó mà con, với lại họ quá nghèo. Cả thế giới này biết bao người phải sống gần những núi lửa đang hoạt động hay trong khu vực chịu ảnh hưởng từ lũ lụt hoặc động đất. Họ không có chọn lựa nào khác cả. Ở Kalambaka, ít nhất họ cũng dự đoán được khi nào thì hiểm nguy đến để trốn ra khỏi vùng. Đường xá lúc đó toàn những người đi lánh nạn. Dĩ nhiên, cũng có những người ra đi quá trễ; hoặc cả những người già yếu và bệnh tật không thể di chuyển được. Còn đợt này, vì quyền năng của mụ Ordeen cũng đã tăng lên đáng kể, nhờ sự hậu thuẫn của Quỷ Vương, nên đến cả tu viện ở đó cũng sẽ không được an toàn. Cuộc tấn công sẽ đến từ cả đất liền lẫn trên không. Thăng yêu nữ sẽ không gặp trở ngại gì với độ cao của Meteora. Quỷ Vương đã phái một số lượng ngày càng đông bọn này đến hỗ trợ cho Ordeen, nhưng chí ít thì hai người chị của mẹ sẽ không nằm trong số ấy. Quỷ Vương cũng là kẻ thù của họ."
"Vậy chuyện gì xảy ra khi cổng dịch chuyển mở ra mẹ?" tôi hỏi, đầy tò mò. "Mẹ đã từng chứng kiến cánh cửa đó mở ra bao giờ chưa?"
"Một lần, con trai ạ. Một lần duy nhất, từ nhiều năm trước đây rồi, cả trước khi mẹ gặp bố con. Nhưng mẹ sẽ không bao giờ quên được. Đầu tiên là một cột lửa từ mặt đất phọt lên đến trời vần vũ mây bão. Cột lửa thường sẽ tản đi để lộ ra pháo đài Ord bên trong. Rồi thì mưa tuôn xối xả, làm nguội đi tường đá của cái thành lũy ấy. Đấy là lúc chúng ta phải tấn công vào. Mọi thể loại đi xuyên qua cổng dịch chuyển từ thế giới bóng đêm đều cần chút thời gian để điều chỉnh và tập hợp lại sức mạnh," mẹ giải thích. "Giống như Quỷ Vương mùa hè năm ngoái ấy, con nhớ không. Khoảng thời gian đó đủ để con chạy khỏi Pendle và ẩn náu trong căn phòng đặc biệt của mẹ ở trang trại. Vì thế ta phải triệt để tận dụng cái khoảng chênh lệch thời gian đó. Trước khi mụ Ordeen và đám tùy tùng của mụ có thể tập trung đầy đủ sức mạnh, chúng ta phải đột nhập vào pháo đài Ord mà tiêu diệt toàn bộ bọn chúng. Đó là hy vọng duy nhất của chúng ta."
Trong khi chuyến hành trình vẫn tiếp tục, thái độ kỳ thị của đoàn thủy thủ đối với những vị khách không bình thường trên tàu của họ chuyển sang thù nghịch ra mặt. Thuyền trưởng giải thích là do các thủy thủ bắt đầu cảm thấy sợ hãi và không tin tưởng vào các phù thủy ở Pendle. Một người trong đám thủy thủ đã bị mất tích trong một ca trực đêm. Đó là đêm có trận bão quét và anh ta chắc đã bị cuốn phăng khỏi tàu, nhưng bọn họ nghi ngờ rằng những phù thủy đã lấy mạng anh chàng tội nghiệp kia để thỏa cơn đói máu.Thế là chuyến đi dần trở nên căng thẳng và tất cả chúng tôi đều nóng lòng mong chuyến đi đến đích cho rồi.
Đúng như đã nói, Thầy trừ tà đã không tiếp tục bài giảng cho tôi và hầu như không nói chuyện với tôi. Còn Alice á, thầy chẳng màng ngó đến một cái. Có một lần khi chúng tôi đang nói chuyện trên boong tàu, thầy ngước nhìn lên, tặc lưỡi rồi quay trở lại xuống khoang.
Vì thế ông Arkwright tự nhận trách nhiệm tiếp tục huấn luyện cho tôi, tập trung vào những kỹ năng đòi hỏi thể lực như hồi còn ở cối xay nước. Nhưng mà đánh nhau bằng trượng trên boong tàu bồng bềnh nhấp nhô theo con sóng quả là một trải nghiệm hoàn toàn khác.
"Khi chúng tôi càng gần đến Hy Lạp hơn, nhiệt độ bắt đầu tăng dần, Thầy trừ tà giờ chuyển lên ngủ trên boong, để tránh cái nóng hầm hập dưới khoang. Và cuối cùng thầy cũng đã bắt chuyện lại với tôi. Lúc đầu chỉ là cái gật đầu và nụ cười nửa miệng, nhưng chẳng bao lâu sau đó thầy bắt đầu quay lại những bài giảng nên giờ tôi có lợi thế được những hai thầy trừ tà dạy dỗ cho.
"Lấy vở ghi chép ra nào, anh bạn," thầy bảo tôi, dưới bầu trời đêm quang đãng có gió thổi hây hây, khi rốt cuộc chúng tôi cũng băng xuyên qua eo biển Otranto mà tiến vào đất liền Hy Lạp.
"Này nhé, hồi còn ở Hạt ta từng đề cập với con về hỏa linh và bảo rằng một ngày nào đó ta sẽ nói cho con biết về chúng," thầy tiếp tục. "Ở quê mình thì không có loại này, có thể do thời tiết quá ẩm ướt. Ngay cả mùa hè hiếm khi chúng ta không tuần nào mà không có một trận mưa như trút nước kia mà! Nhưng ở Hy Lạp thời tiết lại nóng nực và khô hanh, và trong điều kiện như thế lũ hỏa linh có thể sinh sôi nhanh chóng. Như ta đã nói, chúng rất nguy hiểm và thỉnh thoảng xuất hiện dưới dạng những quả cầu rực sáng, một số trong suốt, số khác thì mờ đục. Ghi chép cho cẩn thận những gì ta nói đây vì chắc chắn chúng ta sẽ phải đối mặt với bọn chúng ở Hy Lạp: chúng sẽ đi cùng mụ Ordeen xuyên qua cổng dịch chuyển."
"Tôi chấm bút vào bình mực và bắt đầu tốc ký. Kiến thức này sẽ sớm trở nên quan trọng lắm đây.
"Theo nguyên tắc chung, những quả cầu hỏa linh đùng đục thì nóng hơn và nguy hiểm hơn," Thầy trừ tà giảng tiếp. "Nếu ở trong nhà, chúng thường bay gần trần nhà nhưng chúng cũng có thể di chuyển rất nhanh và hầu như không thể nào né khỏi chúng được. Chạm vào chúng là sẽ bị bỏng nặng ngay - và thường là chết trong đau đớn. Một vài trường hợp nghiêm trọng hơn thì những hỏa linh này có thể thiêu rụi kẻ thù thành tro trong tích tắc."
"Nhưng mà chưa hết đâu anh bạn ạ. Còn có loại khác, gọi là hỏa tinh asteri, hình dạng như con sao biển, có năm tua xòe ra lúc nào cũng phừng phừng lửa. Loại này sẽ bám chặt trên trần hay tường nhà rồi thả xuống đầu của những nạn nhân không lường trước. Và một khi bọn chúng đã chạm vào rồi thì chỉ có nước chết.
"Nhưng không đến nỗi bế tắc lắm đâu. Hỏa linh khét tiếng là khó đối phó, nhưng một lưỡi dao bằng hợp kim có phân lượng bạc thích hợp có thể làm chúng phát nổ. Thanh trượng của thầy trừ tà đặc biệt hữu dụng trong trường hợp này. Nếu mà không được nữa, thì nước có thể làm suy yếu hỏa linh khiến chúng ngừng hoạt động đến khi điều kiện khô ráo hơn. Nước là nơi lẩn tránh tuyệt vời khi bị tấn công."
Thầy ngừng một lát để tôi ghi bài cho kịp vào cuốn sổ ghi chú. Chép xong, tính tò mò trong tôi không thể cưỡng lại được nữa. Tại sao thầy lại hy sinh những nguyên tắc của mình để cùng chúng tôi đến Hy Lạp nhỉ? Tôi biết rằng Thầy chẳng muốn nói về vấn đề này đâu nhưng tôi vẫn cứ phải hỏi thôi.
"Thưa thầy, tại sao thầy lại quyết định đi với chúng con vào phút cuối vậy ạ? Sao thầy đổi ý thế?" tôi hỏi.
Thầy nhìn tôi, gương mặt đầy vẻ giận dữ. Rồi vẻ mặt của ông trở nên buồn bã buông xuôi. "Mẹ con gửi thư cho ta và nói ta nghe về những điều ta thà không nên biết. Những điều ta không muốn tin vào. Sau khi lá thư đó đến Chipenden, ta cũng phải đấu tranh tư tưởng suốt một khoảng thời gian dài và chút nữa là ta đã đến trễ."
Tôi muốn biết nhiều thêm nữa, nhưng trước khi tôi kịp mở lời thì một tiếng hét to quát lên từ chỗ đài quan sát bên trên đầu chúng tôi. Chúng tôi đứng phắt dậy nhìn chăm chú qua mạn phải tàu. Vì lúc đó chúng tôi đã rất gần bờ biển Hy Lạp rồi, nên tôi tưởng đó là tiếng thông báo rằng đất liền đã trong tầm mắt.
Nhưng tôi đã nhầm. Đám thủy thủ đang nhốn nháo quanh cây cột buồm, cố gắng thả hết mọi cánh buồm. Một chiếc tàu lớn xuất hiện ở phía tây, chạy ra từ phía mặt trời đang lặn xuống. Chiếc tàu đó mang buồm màu đen và đang nhanh chóng rút ngắn khoảng cách với chúng tôi. Tàu Celeste chạy nhanh là thế, nhưng dường như con tàu kia còn nhanh hơn gấp bội. Đám thủy thủ trên tàu chúng tôi cuống cuồng cả lên và làm việc cật lực, thế nhưng chiếc tàu kia vẫn dần dần tiến đến gần hơn.
"Thuyền trưởng quan sát một chặp qua ống nhòm. "Là tàu hải tặc - chúng ta không có cơ hội chạy thoát nó trước khi trời tối rồi," ông vừa nói vừa gãi gãi đầu râu kẽm."Mà tôi cũng không mơ chúng ta có cơ hội chiến thắng nếu phải đánh nhau đâu. Chúng ta kém xa về hỏa lực."
Tàu hải tặc thì tua tủa đại bác, trong khi tàu chúng tôi chỉ có bốn khẩu súng nhỏ, mỗi bên hai cái. Ông thuyền trưởng vừa dứt lời thì chúng tôi nghe thấy tiếng súng nổ. Một quả đại bác đã rơi xuống nước sát ngay cạnh mạn thuyền chúng tôi, làm nước bắn lên tung tóe. Bọn hải tặc rõ ràng có những thứ vũ khí có thể nhấn chìm tàu chúng tôi một cách dễ dàng."
Ông Bill Arkwright lắc đầu và mỉm cười ma mãnh. "Cũng không đến nỗi tệ đến thế đâu Thuyền trưởng ạ. Đừng bắn trả. Rõ ràng chúng ta không thể thắng được gì có liên quan đến đại bác, nhưng cũng không cần thế. Vì chúng chẳng muốn làm đắm tàu chúng ta làm gì. Chúng sẽ muốn chiếm lấy tàu này làm phần thưởng thôi. Chắc chắn là bọn chúng có ý định cắt cổ chúng ta làm mồi cho cá, nhưng khi tràn qua tàu chúng ta thì chúng sẽ có một bất ngờ khó chịu ngay." Ông quay về phía tôi với nụ cười đầy ẩn ý. "Này cậu Ward, xuống dưới khoang báo cho mấy quý cô dưới kia về tình hình đi nào."
Không tốn một giây nào, tôi chạy xuống dưới và thông báo cho các phù thủy ở Pendle những gì đang diễn ra. Grimalkin đang ngồi trên bậc tam cấp mài một trong mấy con dao phi tiêu của mình."
"Bọn ta đã chuẩn bị nghênh chiến rồi, cậu bé ạ," bà ta nói với tôi. "Mab đã tiên đoán được mối nguy này vài giờ trước. Nói thực là chúng ta đang hân hoan đón chờ trận chiến này đây. Chúng ta đã phải gò bó quá lâu trong cái chuồng dưới này rồi và chị em ta lại đang khát máu đấy."
Tôi nhìn thấy một vài phù thủy đang đứng phía dưới cô ta, mắt ánh lên tia tàn độc khi chúng liếm môi thèm thuồng nghĩ đến số máu tươi chốc nữa đây sẽ là của chúng. Những bộ móng tay của chúng sắc nhọn như những lưỡi dao chúng đang mài, mọi thứ vũ khí đều đã sẵn sàng để cắt nát và đâm thủng da thịt người.
Trên boong tàu Thầy trừ tà đang đứng cạnh Bill Arkwright, cả hai đều đã sẵn sàng cho trận chiến trước mặt. Ông Arkwright khi nào cũng muốn táng bể đầu người ta. Đúng ra là ông đang cười cười hào hứng với hành động sắp đến. Tôi đã bật lưỡi dao ở đầu thanh trượng và tiến đến đứng cùng hai người. Thầy trừ tà gật đầu với tôi còn ông Arkwright vỗ vai tôi như khích lệ.
Thuyền trưởng cùng hầu hết thủy thủ đoàn đều đã dàn hàng đứng giữa mấy cột buồm, tay lăm lăm dùi cui, nhưng họ trông như chẳng phấn khích gì với chuyện đánh đấm. Dĩ nhiên chúng tôi vô cùng vui mừng khi có sự hậu thuẫn của các phù thủy ở Pendle. Miệng tôi khô khốc vì vừa sợ vừa khích động, tuy nhiên tôi nhất định sẽ chiến đấu hết sức mình; nhưng ngay lúc đó, tôi thấy có một bàn tay nắm chặt lấy vai tôi. Là Mẹ.
"Không đâu con," bà nói, kéo tôi ra khỏi nhóm. "Con phải tránh xa cuộc ẩu đả này ra. Chúng ta không dám để con bị thương được. Con còn nhiều việc quan trọng hơn phải làm ở Hy Lạp con ạ."
Tôi cố cãi lại lời bà nhưng mẹ tôi nhất định không nghe. Bực mình quá đi mất, người ta ai cũng được liều còn tôi thì không. Tôi ghét bị bao bọc thái quá lắm chứ, nhưng tôi phải nghe lời Mẹ. Thế là tôi phải đứng sang một bên, điên cả tiết vì không thể tham dự cuộc chiến này.
Chúng tôi chẳng phải chờ lâu. Tàu hải tặc cập vào sát cạnh chúng tôi rồi đám cướp biển quẳng móc qua tàu chúng tôi để ràng hai chiếc tàu lại, mạn trái của chúng va vào mạn phải tàu chúng tôi nghe răng rắc. Vài tên hải tặc nghênh ngang rảo bước trên boong tàu chúng. Được trang bị nào dao, nào đoản kiếm cùng gậy gộc đầu tua tủa gai nhọn, bọn cướp biển trông thật hung hăng và tàn bạo. Đám còn lại đứng chờ ở cột buồm, nhìn xuống chúng tôi như những con kền kền, xem chúng tôi như xác chết.
Nhưng mấy tên cướp biển đầu tiên thậm chí còn chưa kịp nhảy qua thì các phù thủy đã từ dưới khoang ùa lên, dẫn đầu là Grimalkin. Đầu đội mũ trùm và người chi chít vũ khí, bọn họ trông như một đoàn quân với sức mạnh đáng gờm. Vài mụ đang rỏ dãi, nước dãi từ miệng chảy xuống mép mũ trùm rồi nhễu ra khi chúng say sưa nghĩ đến bữa tiệc máu người trước mắt. Mấy mụ khác thì tru lên như chó săn, toàn thân run bần bật vì khoái chí. Cả bọn trông hung tợn đằng đằng sát khí, mà Grimalkin là ghê nhất, hai tay lăm lăm hai con dao dẫn đầu đám phù thủy tiến sát lại lan can tàu tạo thành hàng phòng thủ. Và cả Alice cũng đứng đó, trông cũng quyết liệt dứt khoát như đám còn lại.
Thuyền trưởng tàu hải tặc, một gã to xác tay khua khua thanh đoản kiếm, là kẻ tiên phong nhảy xuống boong tàu Celeste. Và hắn cũng là kẻ đầu tiên toi mạng. Grimalkin tuốt lưỡi dao ra khỏi bao chéo vai mà vung một phát trúng phóc ngay yết hầu gã. Gã thậm chí không kịp bất ngờ, thanh đoản kiếm tuột khỏi tay và toàn bộ thân hình chết ngắc của gã đổ rầm xuống sàn tàu.
Đám cướp còn lại cũng ngay lập tức nhảy xổ lên boong, thế là cuộc chiến bắt đầu. Thầy trừ tà cùng ông Arkwright được chỉ đạo không dấn thân quá sâu vào cuộc chiến này; hai người chỉ đứng ở đuôi tàu, sẵn sàng nghênh chiến khi cần kíp. Thuyền trưởng và đám thủy thủ của ông cũng thừa thãi luôn, chắc chắn họ mừng lắm khi mình không được dùng đến.
Trận đánh chỉ diễn ra chốc lát trên trên boong tàu chúng tôi. Sau cuộc cọ xát ác liệt lúc khởi đầu với các phù thủy, những tên cướp biển còn sống sót đã nhanh chóng rút lui về tàu chúng. Trông thấy những gì vừa xảy ra, và tận mắt chứng kiến cái chết đau thương của kẻ cầm đầu, chúng chắc chắn sẽ muốn thối lui ra xa mà nã đại bác bắn nát chúng tôi thôi, nhưng chính những cái móc sắt giờ lại phản chủ. Trước khi bọn chúng kịp trở tay tháo móc mà tách hai con tàu ra thì những phù thủy đã chuyển sang phản công. Vừa rít vừa rống lên trong cơn khát máu, đám phù thủy tràn sang tàu hải tặc và cuộc tàn sát bắt đầu. Và Alice cùng đi với đám bọn họ.
Phù thủy đuổi đám cướp biển đến cột buồm, lên trên boong tàu và xuống cả dưới khoang. Kẻ nào đứng lại chống trả thì chỉ được đôi ba giây trước khi máu họ đổ ra boong tàu. Tôi ráng căng mắt ra để xem Alice đóng vai trò gì trong vụ này, bụng dạ tôi xốn xang khi nghĩ tới những hiểm nguy mà cô ấy đang đối mặt. Lúc này mặt trời đã lặn, ánh sáng ban ngày cũng lịm đi nhanh chóng nên tôi mất dấu Alice.
Chúng tôi không phải chứng kiến những điều kinh hoàng nhất nhưng chắc chắn phải nghe thấy những tiếng gào thét của đám cướp biển đang giãy chết cùng những lời van xin thảm thiết xin tha mạng.
Tôi đi đến chỗ Mẹ để cùng gặp mọi người.
"Ta thấy thật là khó khi cứ đứng đó để cho những chuyện như thế này xảy ra quá đấy anh bạn," Thầy trừ tà vừa nói vừa trừng mắt nhìn tôi. Tôi đoán là những lời này cũng nhắm đến Mẹ tôi, người đã chọn liên minh cùng đám phù thủy, nhưng nếu mà có thế thật thì mẹ tôi cũng chẳng đáp lại gì.
"Tồi tệ thật, cái này thì tôi đồng ý với thầy," tôi nghe ông Arkwright nói, "nhưng đã có biết bao thủy thủ tội nghiệp đã chết dưới tay bọn cướp biển rồi chứ? Bao nhiêu chiếc tàu đã bị đánh đắm rồi?"
Dĩ nhiên điều đó hoàn toàn đúng nên Thầy trừ tà cũng chẳng đôi co gì thêm. Những tiếng khóc la rồi cũng dần lịm đi và cuối cùng im bặt. Và tôi biết rằng, ẩn dưới màn tối đen kia, đám phù thủy đang lấy máu và xương chúng cần cho những nghi thức của mình. Và tôi cũng biết rõ con người Alice để tin chắc rằng cô bé không hề tham gia vào cái trò này.
Chúng tôi neo lại đến khi bình minh hửng sáng, khi những phù thủy no căng máu trở về tàu Celeste và lui vào khoang của họ. Lúc này tôi nhận thấy sự đối lập giữa Mab và Alice. Mab trông ngời ngời, rõ là đã no nê sau những gì vừa xảy ra; còn Alice đứng khoanh hai tay trước ngực và trông như muốn phát ốm.