Chương 10 Phái Đoàn Mười Ba Người
Tạng sáng khi tôi trèo ra khỏi võng, đã có hơn năm chiếc xe ngựa đang chờ chúng tôi trên cầu cảng. Alice đã ở dưới đó đứng ngoài rìa một nhóm các phù thủy xứ Pendle - những người từ tộc Deane. Cô bé trông lạc lõng chẳng vui vẻ chút nào, nhưng khi tôi bước xuống ván cầu thì khuôn mặt cô ấy bừng lên và Alice vội rảo bước đến chỗ tôi.
"Chuyện gì thế Tom?" cô bé hỏi. "Hôm qua cậu đi đâu với mẹ cậu thế? Có chuyện gì không hay à? Trông cậu chẳng vui vẻ tí nào cả..."
"Thế thì cả hai đứa mình đều trông không vui rồi," tôi trả lời cô bé.
Chẳng nói thêm lời nào, chúng tôi bước đi ra xa con tàu tránh ngoài tầm tai những người khác. Alice đứng đó chờ đợi, còn tôi lại không thể nói cho cô bé biết Mẹ tôi thực ra là ai. Chỉ mình tôi biết chuyện đó đã là quá đủ rồi. Tôi thấy mình đau đớn và xấu hổ về thứ mà mẹ tôi từng là.
"Mẹ dẫn tớ về ngôi nhà ngày xưa Mẹ từng ở cùng bố," tôi nói với Alice. "Chỉ thế thôi."
"Nhưng bà đã nói gì cho cậu nghe thế, Tom? Chắc chắn phải là điều gì đó ghê gớm lắm mới làm mặt cậu trông thiểu não thế này!"
"Tớ thấy buồn buồn - chỉ có thế thôi. Trở lại căn nhà đó làm Mẹ có cảm giác như Mẹ lại mất bố thêm một lần nữa. Nhưng Mẹ vẫn muốn tớ đến đấy."
Alice không thực sự thỏa mãn với câu trả lời của tôi lắm, và khi chúng tôi quay trở lại tàu Celeste, tôi trông thấy Mab Mouldheel đang nhìn chúng tôi chằm chằm. Cô ta có thể thấy là cả hai chúng tôi chẳng đứa nào đang vui nên cô ta cười rõ đểu.
Phải mất một tiếng hơn mới khuân hết các nhu yếu phẩm lên xe ngựa, lúc đó mặt trời cũng đã đứng bóng. Đám phù thủy lúc này cũng đã bắt đầu lục tục rời tàu, một vài người kiếm được chỗ trên chiếc xe ngựa, nhưng phần lớn là họ đi bộ. Chúng tôi khởi hành về hướng đông: cỗ xe của Mẹ dẫn đường, vây xung quanh đoàn hộ tống. Tiếp đến là mấy chiếc xe ngựa thồ hàng hóa và lương thực, rồi đến đám phù thủy, dẫn đầu là Grimalkin, Alice đi bên cạnh.
Tôi đi sau cùng ông Bill Arkwright và Thầy trừ tà. Trong khi tôi quẳng giỏ của tôi trên xe của mẹ, thì thầy John Gregory vẫn mang theo hành trang của mình, dẫu trời đang nóng như đổ lửa. Tôi lại tự hỏi không biết Mẹ đã viết gì trong thư mà khiến thầy tôi nhập hội cùng chúng tôi muộn màng đến vậy, phóng lên tàu vào đúng phút chót. Chính xác thì điều gì đã thay đổi suy nghĩ của thầy? Liệu thầy có biết sự thật Mẹ tôi là ai không? Không đâu, tôi cảm thấy chắc chắn rằng nếu thầy biết được thực sự thân sinh của tôi là ai, thì thầy sẽ không muốn dính dáng gì đến tôi nữa đâu. Tôi sẽ bị khai trừ suốt kiếp như Alice thôi.
Chúng tôi đi mải miết nguyên một ngày dài dưới cái nắng khủng khiếp, men theo dòng sông Kalamos chảy trong thung lũng hướng về thị trấn Yiannena. Tinh thần tôi xuống lắm rồi. Tôi không thể ngừng suy nghĩ về thân thế trước đây của mẹ. Suốt chặng đường chẳng ai nói với ai lời nào. Mặt trời vẫn thiêu đốt nên chúng tôi phải dốc hết sức mới theo kịp mấy chiếc xe ngựa.
Chúng tôi đi qua những ngôi làng với nhiều ngôi nhà bằng đá sơn trắng cùng mấy vạt cây ô-liu, thu hút được vài ánh nhìn tọc mạch. Tôi không biết liệu ngoài kia có tên do thám nào đang báo cáo lại đường đi nước bước của chúng tôi cho đám Maenand không đây. Chúng tôi đến đây để tiêu diệt mụ Ordeen và vì thế, chúng tôi là kẻ thù của chúng - đến lúc nào đấy bọn chúng sẽ phải tấn công. Vì cả đoàn chúng tôi và đám Maenad đều cùng hướng về thành Ord, nên dường như chuyện đến lúc nào đấy bọn tôi sẽ chạm trán trên đường là điều không thể tránh khỏi.
Tôi vốn đã quen với đám côn trùng vo ve lười biếng ở quê nhà, nhưng ở đây thì chúng có mặt khắp nơi. Cứ có cả đàn cả những thứ li ti bay vào trong mũ trùm của tôi mà đốt.
"Ở đây có bao giờ mưa không nhỉ?" tôi hỏi, mắt ngước nhìn lên bầu trời trong vắt và mặt trời chói chang.
"Tôi tin là mùa đông thì mưa rất nhiều," ông Arkwright trả lời, "và thời tiết cũng sẽ rất lạnh nữa. Mẹ cậu bảo mùa xuân thì mọi thứ hoàn toàn đổi khác, hoa dại thì cứ là trải thảm dọc dài."
"Con muốn thấy cảnh đó quá," tôi đáp. "Biết đâu đấy? Một khi xử lý hết việc rồi thì khi nào đấy chúng ta có thể quay lại chốn này. Con cũng muốn biết thêm về quê hương của mẹ. Nhưng mà cái tiếng vo vo đó là gì thế nhỉ?" Âm thanh ấy cứ rì rì suốt từ nãy đến giờ và bắt đầu làm tôi khó chịu rồi đây.
"Ve sầu - một loại châu chấu ấy mà," ông Arkwright giải thích. "Ồn ào thấy ghét, nhỉ? Nhưng mà chúng ta phải để mắt đến thứ to hơn kia cậu Ward ạ - như là lợn lòi chẳng hạn. Ăn thì ngon thật nhưng kẹt giữa hai nanh của nó cũng đau lắm cơ! Rồi cả chó sói và thậm chí là gấu."
"Đúng đấy, nơi này khác hẳn vùng của chúng ta," Thầy trừ tà lên tiếng. "Hy Lạp vừa hoang dã vừa nguy hiểm hơn gấp bội. Đó là chưa kể đến thế lực bóng tối đấy. Ngoài lũ Maenad ra, còn có phù thủy nữ yêu sống trên núi cao - nhiều lắm kia - rồi lại cả mụ Ordeen, cùng cái đoàn hỏa linh sẽ xuyên qua cổng dịch chuyển cùng mụ ta nữa."
Lời thầy khiến chúng tôi im bặt, mỗi người vùi mình vào một suy nghĩ riêng. Hiểm họa khôn lường đang rình rập cần được giải quyết hết trước khi chúng tôi có thể quay trở lại Hạt.
Tôi tự nghĩ không biết thầy trò tôi có cơ may nào được nhìn thấy bờ biển xanh ngút của Hạt lần nữa không.
Chúng tôi dừng chân vài tiếng trước khi hoàng hôn buông xuống sau khi băng qua khu làng Kreatopolio, có nghĩa là đồ tể. Ở đây có nhiều những cửa hàng bán thịt, treo đầy mấy miếng thịt cừu ở ngoài, thế là chúng tôi tranh thủ mua thịt tươi. Những người bạn của Mẹ dựng ba túp lều - túp lớn nhất dành cho Mẹ; có cả người canh gác suốt đêm. Một vài phù thủy ở trong những túp lều còn lại, nhưng phần lớn đều ngủ ngoài trời. Tôi quá mệt nên vừa nhắm mắt đã chìm vào giấc ngủ."
Mặc dù chúng tôi cần phải đến đích càng sớm càng tốt, Mẹ vẫn quyết định chúng tôi có thể nghỉ ngơi một ngày tại đây trước khi đi tiếp. Bà hơi ngại đám Maenad. Trinh sát sẽ đi xem xem có nguy hiểm trước mắt gì không vào sáng hôm sau.
Chúng tôi đều thức dậy từ rất sớm và ăn sáng trước khi mặt trời lên. Bữa sáng vô cùng đơn giản - chỉ có ít pho mát dê, được gọi là feta, và vài lát bánh mì không bơ.
"Con thèm một đĩa thịt nguội với trứng đến chết được!" tôi phàn nàn với ông Arkwright.
"Tôi cũng thế cậu Ward ạ," ông đáp, "nhưng sáng nay có mấy người không phải đi do thám đã đi săn lợn lòi rồi đấy. Nên chắc chút trưa bọn ta sẽ được ăn ngon hơn thôi mà. Bằng không thì vẫn luôn có thịt cừu mình mua hôm qua đấy thôi."
Sau bữa sáng, ông Arkwright, Thầy trừ tà và tôi đi dạo xa khỏi khu dựng lều, tìm ra một cụm cây ô liu để náu ánh mặt trời gay gắt. Nhưng Thầy trừ tà có vẻ bồn chồn không ở yên được. Mới đó mà thầy đã đứng lên.
"Chúng ta chưa được biết hết thông tin!" ông phàn nàn. "Ta đi nói chuyện với mẹ cậu đây, anh bạn."
Thầy bỏ đi khoảng chừng một giờ đồng hồ. Khi trở lại, thái độ của ông thật u ám.
"Sao rồi?" Ông Bill Arkwright hỏi. "Thầy có thêm được câu trả lời nào không?"
Thầy trừ tà buông trượng, ngồi chồm hỗm bên cạnh chúng tôi dưới tán cây ô liu. Phải mất một hồi lâu thầy mới trả lời.
"Có vẻ như khi mụ Ordeen vượt qua cổng dịch chuyển, sẽ có một phái đoàn người địa phương đi vào thành Ord," Thầy trừ tà nói. "Đó là một nghi lễ bất di bất dịch. Phái đoàn này hy vọng sẽ khuyên bảo được mụ ta mà giúp làm giảm đi sức tàn phá của chuyến viếng thăm đó của mụ. Nhưng sự thật là, bọn họ có làm gì cũng chưa khi nào tạo ra được khác biệt thực sự cả."
"Vậy tại sao họ làm như vậy?" Tôi hỏi. "Nếu không được gì thì làm thế để làm gì?"
"Vì họ là con người, anh bạn ạ. Con người luôn có hy vọng. Cho dù tình hình có bi đát đến thế nào đi nữa, họ vẫn luôn tự trấn an bản thân rằng họ có thể thay đổi mọi chuyện theo hướng tốt đẹp hơn; rằng chuyến đi lần này của họ sẽ đổi ngược kết quả.
"Mụ Ordeen cần máu người để bừng tỉnh hoàn toàn sau giấc ngủ dài ở thế giới bên kia. Phái đoàn chỉ còn vài người là quay trở ra được, mà mấy người ấy toàn điên cuồng lảm nhảm la hét không thôi. Cái kinh nghiệm khủng khiếp ấy đã xáo trộn hoàn toàn tâm trí họ. Kalambaka lần này sẽ cắt cử một đoàn gồm mười ba người - con số mà lần nào cũng thế - nhưng Mẹ con lại có một ý kiến khác. Một đoàn gồm mười ba người chúng ta sẽ đi thay cho họ."
Ông Arkwright huýt sáo qua kẽ răng. "Bà ấy có nói là ai sẽ đi không?"
Thầy trừ tà nhìn tôi trừng trừng. "Đến thời điểm này bà ấy chỉ nêu tên có một người thôi đấy anh bạn. Là con. Con sẽ là một trong số phái đoàn đó."
"Ý nghĩ này làm tôi phát khiếp, nhưng tôi cố gắng không để lộ ra ngoài. Tôi thầm hy vọng Thầy trừ tà, ông Arkwright hoặc cả mẹ sẽ cùng đi với tôi. Thế thì ít ra tôi cũng không đơn độc một mình.
"Chắc chắn là chiêu trò gì rồi đây. Một cách để vào sâu trong hang mà tấn công bất ngờ chăng?" Ông Arkwright hỏi lại.
"Ừ, thì ý là vậy đấy. Bà ta chưa nghĩ cho hết lẽ đâu, nhưng vẫn hy vọng sẽ tạo được đòn nghi binh. Cuộc tấn công chủ đạo sẽ được phát động khi phái đoàn kia đang làm chuyện của mình. Bà ấy sẽ mướn lính đánh thuê - rất đông. Đám chiến binh hung dữ từ phương bắc."
Chặp sau ông Arkwright bỏ đi cùng mấy con chó còn tôi ở lại cùng Thầy trừ tà. Thầy trông cứ nhấp nha nhấp nhổm vừa luôn mồm lẩm bẩm một mình vừa lắc lắc đầu.
"Có gì không ổn vậy thầy?" tôi hỏi.
"Không ổn ư? Quá nhiều điều không ổn ấy chứ. Đây là tình huống nguy hiểm nhất mà ta lâm vào khi mắt vẫn mở to đấy anh bạn ạ. Nếu may mắn chúng ta có thể sống sót sau cuộc tấn công của đám Maenad, thì chúng ta vẫn phải băng qua dãy núi Pindhos, mà ở đó thì lúc nhúc bọn phù thủy nữ yêu hoang dã. Và mọi chuyện này đều là trước khi chúng ta có thể để mắt đến mụ Ordeen..."
Nghe thầy vừa nhắc đến phù thủy nữ yêu là tôi chợt nhớ đến Meg, tình yêu vĩ đại của thầy, với lại người chị của bà ta, Marcia hoang dã. Năm ngoái cả hai bọn họ đều đã lên tàu trở về Hy Lạp. Biết đâu lộ trình của chúng tôi sẽ đưa chúng tôi đến gần nơi họ đang sống nhỉ? Tôi không biết liệu thầy có vẫn còn nhớ đến Meg hay không.
"Thầy có đi gặp Meg khi mình còn ở đây không ạ?" tôi hỏi.
Thầy Trừ Tà cúi đầu, trong thoảng chốc tôi cứ tưởng thầy sẽ không trả lời chứ - hoặc sẽ đanh thép bảo tôi đừng chăm lo chuyện người khác. Nhưng rồi thầy ngước lên và tôi thấy vẻ muộn phiền trong mắt ông; không cần thầy trả lời, tôi biết thầy lâu nay vẫn đang cân nhắc về chuyện này rồi.
"Ta cũng đã nghĩ đến chuyện này rồi, anh bạn ạ, nhưng rồi ta quyết định là không. Con biết đấy, bà ấy đã nói cho ta biết sẽ về đâu. Lúc này đây bà ta đang sống ở một ngôi nhà quê hẻo lánh tận dưới miền nam. Vì bà ta tránh xa mọi người, nên có lẽ bà ấy cũng đã quay trở về với hình dạng hoang dã nguyên thủy. Có lẽ ta không thể nhận ra bà ta được đâu. Một hai năm thôi rồi bà ta sẽ chẳng khác gì người chị Marcia cả. Giờ với ta, bà ấy đã mất rồi. Thà bà ấy chết đi cũng được. Người phụ nữ ta từng quen biết yêu thương giờ chắc hẳn đã không còn nữa, nên ta muốn lưu giữ lại những ký ức cuối cùng của ta về bà ấy như chúng từng vốn thế..."
Thầy lắc lắc đầu một cách buồn bã, tôi thì chẳng nghĩ ra được điều gì mà nói để an ủi thầy. Nhưng rồi tôi ngạc nhiên khi thấy thầy vừa đứng lên vừa mỉm cười.
"Anh bạn này, con có biết xương cốt già nua của ta chưa khi nào thấy khỏe như thế này không hử! Chắc là nhờ hơi nóng và không khí hanh khô đây. Rõ là chúng sẽ đau trở lại khi chúng ta quay về Hạt thôi. Nhưng dẫu có thế, được về nhà là ta mừng rồi!"
Xế chiều hôm đó ông Seilenos và ba người của ông quay trở về sau một chuyến săn lợn lòi thành công mỹ mãn. Những người khác thì đi do thám tình hình và canh gác quanh khu cắm trại.
"Anh bạn này, con có biết xương cốt già nua của ta chưa khi nào thấy khỏe như thế này không hử! Chắc là nhờ hơi nóng và không khí hanh khô đây. Rõ là chúng sẽ đau trở lại khi chúng ta quay về Hạt thôi. Nhưng dẫu có thế, được về nhà là ta mừng rồi!"
Xế chiều hôm đó ông Seilenos và ba người của ông quay trở về sau một chuyến săn lợn lòi thành công mỹ mãn. Những người khác thì đi do thám tình hình và canh gác quanh khu cắm trại.
Đêm ấy chúng tôi dùng bữa dưới trời sao, với thịt lợn rừng và cừu. "Đến lúc này mọi thứ đều tốt đẹp cả," Mẹ nói. "Xung quanh đây có rất nhiều thứ giải khuây và những người đi trinh sát nói lại rằng không có dấu hiệu hoạt động của kẻ thù. Ngày mai chúng ta sẽ tiếp tục tiến đến Meteora."
Seilenos nhìn qua Thầy Trừ Tà, thầy chỉ đang thờ ơ khều khều thức ăn. "Ăn đi chứ, ông Gregory!" ông vừa nói vừa cười. "Chúng ta phải chiến đấu với thế lực bóng tối sớm thôi. Cần phải tích trữ sức lực chứ!"
Thầy Trừ Tà nhìn lại ông Seilenos với vẻ nghi hoặc. Tôi thấy ngay là thầy mình không hẳn đánh giá cao ông Seilenos. "Ở Hạt của tôi, những Thầy trừ tà như chúng tôi chẳng ăn uống nhiều khi thế lực bóng tối đe dọa đâu," thầy lạnh lùng trả lời. "Lúc nước sôi lửa bỏng, chúng tôi nhịn đói, cương quyết không ăn để trí óc và tinh thần được chuẩn bị sắc bén hơn mà đối mặt với kẻ thù."
"Thầy trừ tà xứ Hy Lạp lắc đầu. "Chuyện này tôi chịu không hiểu nổi!" ông ta thốt lên giơ hai tay lên đầu vì khó hiểu. "Cái kiểu điên rồ ấy chỉ làm ông yếu hơn thôi. Rượu vang và thức ăn mang cho ta sức mạnh cơ mà. Không phải thế à? Ông cần đến sức mạnh để chiến đấu với rồng lửa chứ!"
"Rồng lửa là gì thế ạ?" tôi hỏi.
"Hình thái cao cường hung mạnh nhất của hỏa linh chính là rồng lửa này đây. Còn mạnh hơn cả hỏa tinh cơ. Là một loại bò sát to lớn, nằm cuộn trong tâm những ngọn lửa hừng hực nhất. Nó còn nhả ra lửa nữa nhé. Với lại phì hơi nóng lột da từ lỗ mũi. Ta cần phải ăn thật nhiều mới đánh lại cái thứ kinh khiếp ấy. Ăn nhiều vào nào, cậu trừ tà trẻ ạ! Cậu sẽ sớm cần đến toàn bộ sức lực đấy. Bà nhà mấy ông không cho mấy ông ăn uống đầy đủ hay sao thế?" Ông Seilenos hỏi, nhìn qua nhìn lại hết ông Arkwright sang Thầy trừ tà.
"Tôi không có vợ," ông Arkwright càu nhàu.
"Những Thầy trừ tà chúng tôi ở Hạt không kết hôn," thầy John Gregory giải thích. "Vợ con sẽ khiến chúng tôi sao nhãng công việc, là việc chống lại thế lực bóng tối ấy."
"Ừ, vợ đẹp thì đúng là sao nhãng thật," ông Seilenos đồng tình. "May mắn sao vợ tôi vừa xấu vừa điêu!" ông nói tiếp, nháy mắt với tôi. "Tôi cũng phải nuôi năm đứa con nữa. Đó là lý do vì sao tôi đi cùng với cậu đây. Để trốn vợ và kiếm vài đồng từ người mẹ tốt bụng của cậu đấy!"
Bụng đói cồn cào nên tôi ăn cho đến khi no căng. Dẫu thế, so với ông Seilenos, tôi cũng chỉ là đang khều khều thức ăn thôi. Ông này ăn cho đến khi bụng ông như sắp bung ra, đám người của ông ta thì hò reo cổ vũ, chừng như họ rất hân hoan với cái sự ăn tham vô độ của ông này. Khi tôi chuẩn bị ngủ, ông ấy vẫn còn đang ăn - và uống cơ man nào là rượu.
Tôi ngẫm nghĩ về những gì Thầy trừ tà nói hồi chiều. Mẹ không hề bàn luận gì về kế hoạch của mình vào bữa tối, có nghĩa là Mẹ vẫn còn đang đắn đo suy tính. Tại sao Mẹ lại chọn tôi là một trong phái đoàn đó nhỉ? Suy nghĩ đó đáng sợ thật đấy nhưng tôi phải tin tưởng vào nhận định của bà thôi.
Trời vừa hửng sáng, chúng tôi lại tiếp tục hành trình về phương đông.
Chúng tôi đi liên tục trong ba ngày, mỗi chặng đường đi qua lại càng thấy mệt mỏi hơn. Trời vừa nóng nực vừa bụi mù, mặt trời cứ tàn nhẫn thiêu đốt. Sang ngày thứ ba thì chúng tôi đã đến ven rìa thị trấn Yiannena.
Cuối cùng chúng tôi cũng có thể trông thấy rặng núi xa xa phía chân trời, là nơi chúng tôi phải vượt qua để đến được Meteora. Hai đêm sau, khi chúng tôi giăng lều bên phần sườn thấp của rặng núi này, thì đỉnh Pindhos cũng đã lù lù rất gần bên. Ngày mai, trước giờ trưa, chúng tôi sẽ bắt đầu leo núi. Bên kia núi sẽ là bình nguyên Kalambaka đang chờ đón, là nơi mà Ordeen sẽ từ cổng dịch chuyển phừng phừng lửa đỏ hiện ra. Từng dặm đường đi qua sẽ đưa chúng tôi lại gần hơn với hiểm nguy tột cùng.