← Quay lại trang sách

Chương 13 Máu Của Tôi

Cả người tôi đột nhiên giật bắn lên nhưng tôi không thấy đau đớn gì. Tôi mở mắt nheo nheo lại nhìn thẳng lên ánh nắng chói chang. Đã gần đến trưa. Tôi ngồi dậy nhìn quanh. Thanh trượng đang đặt ngay cạnh mình.

Bất chợt ký ức ùa cả về. Alice! Cái hang!

Tôi nhổm phắt lên. Tôi đang nằm trên một lối sơn đạo hai bên đều là những vách đá cao lởm chởm. Có phải cùng là lối tối qua tôi đi không thì tôi không biết, nhưng chẳng thấy vết tích gì của khe đá có hang ổ của mụ nữ yêu, hay bằng chứng về việc ăn mồi của chúng cả.

"Tom!"

Tôi quay lại thấy Alice đang đi trên đường về phía tôi, nước mắt lã chã trên mặt. Tôi đã nghĩ là cô ấy chết mất rồi, nên chẳng suy nghĩ gì tôi nhào đến quàng tay ôm chặt cô. Bao nỗi nghi ngờ của tôi tan biến hết. Thầy trừ tà có nghĩ gì thì đã sao? Ngay lúc này đây, sau tất cả mọi chuyện chúng tôi đã trải qua, thì tôi không còn quan tâm nữa. Alice cũng ôm lấy tôi, hai chúng tôi đứng như thế trong hồi lâu, nhưng rồi cô lùi lại cách tôi một sải tay, hai tay đặt hờ lên vai tôi.

"Ôi, Tom - chuyện xảy ra đêm qua có phải là thật không? Trời tối om và hàm răng mụ nữ yêu ngoạm vào người tớ. Tớ lả đi vì mất máu nên tớ tưởng vậy là xong rồi chứ. Tớ chết dần đi. Vậy mà, ngay sau đấy, thì mặt trời lại chiếu sáng. Rồi trên người tớ giờ không có một dấu tích nào nữa chứ. Hay là đó chỉ là một cơn ác mộng nhỉ?"

"Chuyện đêm qua là thật đấy," tôi bảo. "Nhưng cậu này, lúc trước Grimalkin có tặng tớ hai món quà - một con dao và một lời bí nguyện. Cho nên lúc mụ nữ yêu lôi cậu vào sâu trong sào huyệt của mụ thì tớ đã dùng lời nguyện ấy để cứu cậu. Rồi cha cậu xuất hiện."

Nói rồi tôi kể cho Alice nghe những gì Quỷ Vương đã nói - tất cả những gì tôi có thể nhớ được; về chuyện hắn bảo tôi sẽ bị hiến tế. Nhưng tôi tuyệt nhiên không nói cho Alice nghe rằng Mẹ tôi là Nữ Yêu nguyên thủy. Tôi không thể nói ra chuyện đó được. Đau lòng lắm.

"Lão ta chỉ đang đùa với mình thôi," Alice nói một cách cay đắng. "Vẫn luôn dùng mọi cách để đem phần lợi về phía mình như mọi khi. Về chuyện cậu sẽ bị hiến tế - đừng thèm suy nghĩ gì về điều này cả nhé. Mẹ cậu đã đánh đổi tất cả chỉ để bảo vệ cậu. Đến đêm qua mà bà cũng giữ cậu tránh xa mọi nguy hiểm còn gì. Lão ta đang nói dối đấy, Tom ạ. Vẫn trí trá, như mọi lần..."

"Cũng có thể. Nhưng mùa hè năm trước hắn đã không nói dối khi nói rằng cậu là con gái hắn, đúng không? Vì thế những gì hắn nói tối qua cũng có thể là sự thật lắm chứ. Ngay cả khi Mẹ yêu tớ, Mẹ vẫn có thể hy sinh tớ và chấp nhận sự mất mát đó - nếu như điều đó đem lại thắng lợi. Có thể bà chỉ cố bảo vệ tớ chỉ để có thể hy sinh tớ vào đúng lúc bà cần nhất thôi."

"Mẹ cậu sẽ không làm như thế đâu, Tom ạ."

"Ngay cả khi đó là cách duy nhất để đánh bại thế lực bóng tối ư? Cậu nên nhớ rằng, bà sinh ra tớ vì lẽ ấy đấy. Có lần bà đã nói với Thầy trừ tà rằng tớ là "món quà dành cho cả Hạt" mà. Tớ được sinh ra trên đời này đều là có mục đích cả."

"Nhưng mà bà sẽ hỏi cậu trước mà. Cũng như việc bà hỏi cậu để lấy tiền ở trong rương và rồi hỏi cậu có đi Hy Lạp cùng bà không ấy."

Tôi ngập ngừng, chợt nhớ đến tình yêu thương mẹ dành cho cả gia đình. "Tớ nghĩ cậu đúng, Alice à. Nếu chuyện buộc phải xảy ra, thì mẹ sẽ hỏi ý kiến tớ."

"Rồi lúc đó cậu sẽ trả lời sao, hả Tom?"

Tôi không đáp. Tôi thậm chí không muốn nghĩ đến điều đó.

"Cả hai chúng ta đều biết là cậu sẽ chấp nhận." "Nhưng mà dẫu có thế thì cũng chẳng ích gì đâu," tôi chua chát đáp. "Quỷ Vương sẽ dùng quyền năng của mình mà hậu thuẫn cho mụ Ordeen đồng thời làm suy giảm đi năng lực của mẹ. Hắn đã đang làm thế với Mẹ tớ rồi. Giờ bà đã không còn có thể tiên đoán được tương lai nữa rồi. Đó là lý do vì sao bà cần sự giúp đỡ của Mab. Và ngay cả khi mụ Ordeen có bị tiêu diệt đi nữa, thì vẫn còn phải lo đến Quỷ Vương. Có vẻ như vô vọng quá."

Chẳng nói thêm lời nào, chúng tôi lại tiếp tục hướng về phía đông, men theo lối mòn quanh co len giữa rặng núi. Mãi sau này chúng tôi mới trò chuyện lại.

Cuối cùng rồi chúng tôi cũng xuống núi xuyên qua rừng thông, đoạn băng qua vùng bình nguyên khô cằn rộng lớn hướng về Meteora. Tôi được biết rằng những tu viện được xây dựng trên đá cheo leo, nên cho dù chúng tôi có lỡ đi chệch quá xa về hướng nam thì vẫn có thể nhìn thấy được tu viện từ khoảng cách rất xa đó.

Ngày thứ hai trong hành trình chúng tôi nghĩ mình nhìn thấy có đám bụi bốc lên trời ở phía cuối chân trời. Có thể đó là đoàn của mẹ - hoặc cũng có thể là lũ Maenad đã tấn công họ. Nên để tránh không bị đuổi bắt, chúng tôi vẫn tiếp tục đi để giữ khoảng cách an toàn.

Cuối cùng, chúng tôi cũng thấy được những mỏm đá ở Meteora về hướng đông bắc. Quang cảnh mỗi lúc một thêm hoành tráng khi chúng tôi tiến đến gần hơn. Nhô lên từ thảm thực vật ken dày những cây to cùng bụi rậm, những cột đá chạm khắc tinh tế lừng lững hiện ra bên trên chúng tôi. Và tận trên đỉnh các cột là những tu viện lẫy lừng. Thoạt trông thật không thể tưởng tượng được là những tòa nhà đó lại có thể được xây nên trên độ cao hiểm nghèo là thế, chứ nói chi đến chuyện chúng được xây đủ vững chãi để chống chọi với sự tàn phá của mưa gió với thời gian.

Thị trấn Kalambaka nhỏ bé có tường bao bọc nằm ngay dưới chân núi, tận cùng ở phía nam là những rặng cây ô liu. Tôi lấy tay che nắng để quan sát đường chân trời. Mẹ đã từng lo rằng chúng tôi có thể đã quá muộn, nhưng có vẻ như vẫn chưa có dấu hiệu nào về thành trì của mụ Ordeen cả.

Chúng tôi bọc ven rìa thị trấn rồi dựng trại tận sâu trong vùng rừng cây dưới rặng núi đá, ẩn mình để không bị phát hiện. Chỉ có những tu sĩ mới có thể từ trên pháo đài của họ mà nhìn xuống chúng tôi.

Cả thị trấn được thắp sáng từ những ngọn đèn treo trên dây thừng nối từng căn nhà với nhau; đèn đung đưa qua lại khi gió nổi. Tối hôm đầu tiên đó chúng tôi bỏ ra hàng giờ mà ngắm đèn: những vì sao trên trời chầm chậm nổi thành vòng từ đông sang tây trong khi mấy chiếc đèn lồng nhảy múa dưới đất. Chúng tôi ăn uống cũng ngon lành. Alice săn được vài con thỏ và hóa ra chúng cũng mềm mại tươi ngon không khác gì những con chúng tôi ăn ở Hạt.

Đêm thứ hai, trong khi đang ăn, Alice đánh hơi thấy hiểm nguy nên đứng phắt dậy, đặt ngón tay lên môi. Nhưng lời cảnh báo của cô đến quá trễ.

Một hình thù khổng lồ từ rừng cây nhảy ra khu đất trống nơi chúng tôi đang ăn. Tôi nghe loáng thoáng tiếng khịt khịt mũi và tiếng kim loại va vào nhau loảng xoảng, cùng lúc đó, mặt trăng lưỡi liềm cũng nhô ra khỏi đám mây, tạo ra một sự hiện hình lấp lánh ánh bạc trước con mắt ngây dại của chúng tôi.

Đó là một kỵ binh trong bộ giáp kim loại, yên dắt hai thanh gươm to kềnh càng. Mà ông ta cưỡi con ngựa mới thật là! Không phải giống ngựa ì ạch kềnh càng thường được dùng để kéo phà kéo xe ngựa như ở Hạt đâu; đây là một con ngựa nòi thuần chủng, tinh anh, vó cất cao, cổ ưỡn cong và thân mình sinh ra để phi nhanh cực. Người cưỡi ngựa là một chiến binh từ đầu đến chân; mũi khoằm, gò má cao, tóc dài cùng bộ râu xồm xoàm che hết cả miệng.

Kỵ sĩ tuốt gươm ra, trong thoáng chốc tôi cứ tưởng tay này sắp tấn công chúng tôi chứ, nhưng không ông ta chỉ ra hiệu rằng chúng tôi phải rời khỏi khu đất trống này. Chúng tôi không muốn cự cãi làm gì; chỉ im lặng quay bước đi thẳng vào rừng.

Khi bình minh lên, chúng tôi mới nhận ra người kỵ sĩ đêm qua là một trinh sát, đi trước dẹp đường cho người của mình. Một đoàn rất đông- ít nhất cũng hơn cả ngàn người - chẳng bao lâu sau tiến qua đồng bằng. Áo giáp của họ sáng loáng dưới ánh mặt trời trông như đồ bạc được đánh bóng, một đám bụi mù bốc lên sau họ trông chẳng khác nào một đám mây báo bão. Trông họ thật oai hùng.

Họ dựng trại ngoài rìa rừng cây ở phía bắc của thị trấn. Là ai vậy nhỉ? Tôi thắc mắc.

"Này Alice, cậu có nghĩ là họ có liên quan gì đến mụ Ordeen không? Chắc lại thêm một đám hậu thuẫn nào đó ấy?"

"Tớ chẳng biết, Tom, nhưng Mẹ cậu chưa lần nào nhắc đến kẻ thù là những chiến binh như thế này cả, phải không nhỉ? Bà chỉ nói là sẽ mướn lính đánh thuê để bảo vệ chúng ta khỏi đám Maenad mà thôi. Có thể là những người này lắm. Nếu vậy thì họ là phe ta. Nhưng đúng là tớ không nghĩ sẽ nhiều như thế này."

"Nếu đúng là họ thì mừng thật, nhưng ta cũng không nên liều lĩnh đến tiếp cận họ làm gì."

Vậy nên chúng tôi vẫn giữ một khoảng cách an toàn, lùi sâu hơn vào rừng, lòng vẫn băn khoăn không biết họ là ai - bạn hay thù. Trong khi chúng tôi chờ đợi, Alice quay sang tôi, cho tay vào túi trong váy mà lôi ra một cái bình đất nung be bé. Đó là cái lọ đựng máu mà cô đã có lần cho tôi xem ở Hạt.

"Dạo gần đây tớ rất hay nghĩ ngợi về Quỷ Vương," cô bảo. "Chúng ta có thể làm hắn tránh xa - ít nhất là khỏi cậu - nếu sử dụng thứ này."

Có hai cách các phù thủy thường sử dụng để giữ Quỷ Vương tránh xa. Một là sinh con cho hắn. Grimalkin đã dùng cách này, và do thế hắn buộc phải tránh xa bà ta. Cách thứ hai là sử dụng lọ máu. Alice nói rằng lọ này chứa vài giọt máu của mụ thủy phù thủy đã chết Morwena, mụ này là con gái của Quỷ Vương. Nếu nó được trộn lẫn với máu của tôi, và do tôi đem theo, thì có nghĩa Quỷ Vương sẽ không thể nào động vào tôi được.

Tôi cương quyết lắc đầu. Tôi đã một lần sử dụng quyền năng bóng tối - là cái lời nguyện ấy - như vậy đã quá đủ rồi. Dần dà chuyện ấy cứ xảy ra thôi: nỗi lo của Thầy trừ tà đang dần thành hiện thực. Tôi đang bị tha hóa. Nhưng chợt một ý nghĩ lóe lên. Tôi nhớ ra lời mấy tháng trước thầy mình từng bảo sau khi tôi nói cho thầy nghe rằng Alice có thể là con gái của Quỷ Vương. Thầy cho rằng Alice không cách nào có thể lấy được giọt máu nào của Morwena: chắc Alice chỉ cần lấy máu mình thôi là được. Máu của bất cứ đứa con Quỷ Vương nào cũng sẽ có tác dụng thôi mà.

"Máu trong lọ là máu cậu, đúng không hử Alice?"

Trong thoáng chốc Alice có vẻ như muốn phủ nhận; nhưng rồi vẻ mặt cô chuyển sang bất chấp.

"Ừ phải đấy Tom, là máu của tớ đấy. Cậu có vẻ yên tâm hơn khi biết sự thật rồi chứ gì? Có thấy hả hê khi vạch mặt tớ là kẻ nói dối chứ? Ha, máu của Morwena hay là của tớ, thì cũng chả khác nhau tẹo nào. Nếu trộn vài giọt máu của cậu vào đây, và một khi cậu giữ nó, thì cậu sẽ chẳng bao giờ phải đối mặt với chuyện như đêm nọ ở trên núi đâu, đúng không?"

Tôi nhìn xuống.

"Thực ra là còn những chuyện khác nữa," cô bé nói tiếp. "Giờ thì chúng ta sẽ phải ở bên nhau mãi mãi. Cái lọ máu này sẽ bảo vệ cậu - và cả cho tớ nữa nếu như tớ ở sát bên cậu.

Nếu chẳng may tớ đi cách cậu quá xa, Quỷ Vương sẽ trong chớp mắt hiện ra mà báo thù vì hắn biết những gì tớ đã làm. Được ở gần cậu thì tớ chẳng nề hà gì, Tom ạ. Nói thực ra là tớ thích nữa là đằng khác. Với lại chúng ta cần phải tận dụng tất cả những gì có thể. Bất kỳ thứ gì có thể cho ta cơ hội."

"Alice này, cậu có ý tốt, nên tớ sẽ không tranh cãi với cậu làm gì. Nhưng không có gì thay đổi cả. Tớ vẫn giữ nguyên lập trường của mình - tớ không thể mạo hiểm sử dụng quyền lực bóng tối thêm một lần nào nữa. Mà cậu nghĩ việc chúng ta bị trói buộc vào nhau là hay lắm sao? Tớ sẽ phải luôn lo sợ rằng có chuyện gì đó lại chia rẽ chúng ta ra. Tớ sẽ không dám rời mắt khỏi cậu! Như thế thì sống làm sao được?"

Tôi không buồn nói tiếp rằng rồi chúng tôi cũng phải sớm chia tay nhau thôi khi quay trở lại Hạt ấy - dĩ nhiên là nếu chúng tôi có thể sống sót sau trận chiến này. Nếu tôi vẫn tiếp tục làm chân tập sự cho Thầy trừ tà, thì chẳng cách nào mà thầy tôi lại cho phép Alice ở chung với chúng tôi ở Chipenden đâu.

Alice gật đầu buồn bã và nhét lọ máu lại vào trong túi.

Khoảng một giờ sau khi mặt trời lên Alice bất ngờ ngồi nhỏm dậy và chỉ vào cái gì đấy ở đàng xa. "Nhìn kia kìa," cô vừa gọi lớn vừa quay mặt về phía tôi. "Hình như tớ nhìn thấy cỗ xe của Mẹ cậu đấy!"

Tôi căng mắt ra, rà soát đường biên bên kia khu trại của đoàn chiến binh. Cuối cùng tôi cũng trông thấy gì đấy rất có thể là một cỗ xe màu đen.

"Cậu có chắc không, Alice?" tôi hỏi.

"Nhìn từ đây thì cũng hơi khó nói, nhưng tớ cho là thế," cô bé trả lời.

Lâu nay tôi mãi tự dằn vặt, tự hỏi mình làm sao có thể cứu Mẹ thoát khỏi đám phù thủy truy đuổi kia, nhưng giờ bao nỗi sợ hãi của tôi chợt tiêu tán. Cuối cùng thì Alice cũng nói đúng. Tôi cứ nhìn mãi, sau đó một lúc, một nhóm nhỏ các chiến binh rời khỏi trại, đi bộ về hướng núi đá. Một người đi dẫn đầu. Đó là một phụ nữ - che mạng và đội mũ trùm kín mít để tránh ánh nắng.

"Là Mẹ cậu đấy, Tom! Tớ chắc luôn đấy!" Alice reo lên. Đi ngay sau người đội chiếc mũ trùm ấy là dáng một người đàn ông với thanh trượng trong tay. Từ dáng đi của người này thì tôi biết chắc đấy là Thầy trừ tà. Một vài người khác đi sau cách một quãng. Tôi nhận ra Seilenos và hai người khác mà chúng tôi đã gặp ở Igoumenitsa. Nếu đó đúng là mẹ, thì bà trông chẳng giống tù nhân chút nào.

Chúng tôi chạy băng ra khỏi rừng về phía bãi đất trống. Người trùm mạng trông thấy chúng tôi ngay lập tức, vẫy vẫy tay, rồi ngoắc ra hiệu cho chúng tôi tiến tới. Khi chúng tôi đến gần hơn, bà vén mạng che mặt ra, quay lưng về phía mặt trời. Alice đã đúng. Là mẹ.

Mẹ mỉm cười - dẫu rằng bà có vẻ hơi thu mình và khách khí. Mắt bà toát lên chút hoang dại, dưới ánh nắng gay gắt khuôn mặt bà dường như còn trẻ hơn trước rất nhiều. Những nếp nhăn mờ mờ quanh miệng bà đã lặn mất hẳn.

"Giỏi lắm, Alice" bà nói. "Con đã xoay sở rất tốt để đến được đây an toàn. Thoạt đầu tình hình rất cam go cho chúng ta, nhưng chúng ta đã chiến đấu chống lại Maenad cho đến khi được các chiến binh đây đến hỗ trợ. Họ là những người đánh thuê, được thuê từ tiền mà con trả lại cho mẹ đấy con à. Họ đi phía tây sang để gặp chúng ta và đến vừa kịp lúc để đánh đuổi kẻ thù. Mẹ nói với con rồi đấy, Tom, Maenad đông vô số kể nên chúng ta cần những người này nếu chúng ta muốn cầm chân bọn chúng để hoàn thành cuộc hành trình của mình."

"Mọi người không sao hết chứ hả mẹ?" tôi hỏi. "Ông Bill Arkwright đâu ạ?"

"Không sao cả, anh bạn," Thầy trừ tà đáp. "Ngoài mấy vết xây xát ra thì mọi người đều không sao. Bill đang bàn tính chiến thuật với tay cầm đầu đám đánh thuê đấy. Họ đang xem làm thế nào để triển khai lực lượng một cách hiệu quả nhất khi chúng ta áp sát được thành Ord."

"Giờ thì con đi với ta," mẹ ra lệnh. "Không còn nhiều thời gian để lãng phí nữa đâu. Chúng ta phải vào một trong mấy tu viện. Có nhiều chuyện chúng ta cần phải nắm."

"Phải tu viện này không ạ?" tôi hỏi, tay chỉ lên tu viện gần nhất, nằm chênh vênh trên vách đá cao nhất phía tay phải chúng tôi đang đứng.

"Không phải," bà vừa đáp vừa lắc đầu, tay kéo lại tấm mạng che ngang mặt. "Cái này gọi là tu viện Ayiou Stefanou - mặc dù là trông thì ấn tượng thật và lại gần thị trấn nhất, nhưng đó không phải là tu viện cao nhất hay quan trọng nhất gì. Không đâu, chúng ta còn phải đi một đoạn dài nữa kia."

Chúng tôi cuốc bộ thêm hàng giờ nữa, những vách đá dựng thẳng đứng và đỉnh Meteora chót vót vẫn luôn trong tầm nhìn của chúng tôi. Cuối cùng chúng tôi đến được một tu viện oai phong nằm trên một vách đá to, rộng và cao ngất.

"Ngay trước mặt ta là Megalou Meteorou," Mẹ nói. "Là tu viện hùng vĩ nhất. Tu viện này ở độ cao khoảng sáu trăm mười lăm thước, cao gần gấp đôi tháp chuông tòa thánh Priestown."

"Làm sao người ta có thể dựng nó được trên tảng đá ở độ cao đó nhỉ?" tôi hỏi, trố mắt nhìn thán phục.

"Có nhiều truyền thuyết lắm con trai ạ," mẹ đáp, "nhưng tu viện đó được một người tên Athanasios thành lập từ hàng trăm năm trước. Trước đó các tu sĩ đang sống trong mấy hang động quanh đây, và đây là tu viện đầu tiên nhất được dựng lên. Có người nói rằng Athanasios cưỡi trên lưng đại bàng để bay lên đến đỉnh..." Bà chỉ tay lên phía hai con đại bàng đang vờn vòng vòng trên không.

"Nghe giống giống như chuyện Herakles quăng tảng đá to ấy nhỉ!" tôi vừa nói vừa cười cười.

"Chứ còn sao nữa. Nhưng thật ra khả năng là ông ấy được dân địa phương giúp cho, mấy người này rất leo núi rất tài."

"Vậy chúng ta lên đó bằng cách nào đây?"

"Có bậc thang đấy Tom. Rất nhiều. Sẽ rất vất vả đấy, nhưng con cứ nghĩ đến việc đẽo mấy bậc cấp ấy vào vách núi đá hẳn mới phải là gian nan đến thế nào! Chỉ có ông Gregory, con và mẹ leo lên thôi. Alice phải chờ ở dưới này. Các tu sĩ đều biết mẹ - vì mẹ đã nói chuyện với họ rất nhiều lần rồi - nhưng nói chung thì phụ nữ không được chào đón ở trên ấy đâu."

Đoàn người áp giải chờ phía dưới cùng Alice đang vô cùng thất vọng, trong khi tôi theo chân mẹ và Thầy trừ tà leo lên các bậc thang bằng đá. Cầu thang lên không có tay vịn, một bên lại còn là vực thẳm hun hút đe dọa nữa chứ. Sau đấy chúng tôi cũng đến được một cánh cửa kim loại lắp ngay trong vách đá. Một tu sĩ ra mở cửa đưa chúng tôi vào thêm bao dãy cầu thang sâu hun hút. Cuối cùng chúng tôi đã đến được nơi cao nhất, trông thấy một vòm mái lớn ngay trên đầu chúng tôi.

"Đó là katholicon," mẹ mỉm cười giải thích. Tôi biết từ này, có nghĩa là nhà thờ hoặc chánh tòa. "Chúng ta đến đó ạ?"

"Không, chúng ta sẽ đến gặp Cha Bề Trên trong trai phòng của ngài."

Chúng tôi được dẫn đi về phía một tòa nhà nhỏ, rồi đến một căn phòng đơn sơ, có vị tu sĩ với gương mặt xám xịt hốc hác và cái đầu cạo còn sát hơn cả đầu của ông Arkwright đang ngồi xổm trên nền đá. Cặp mắt ông ta nhắm nghiền, dường như ông này chẳng thở gì cả. Tôi nhìn quanh mấy bức tường đá thô và đống rơm ở góc phòng được dùng làm giường ngủ - không phải là nơi ở cho một đại tu sĩ cầm trịch cả khu tòa thánh mà tôi đã mường tượng.

Cửa phòng sau lưng chúng tôi đóng sập lại, nhưng Cha Bề Trên vẫn không nhúc nhích hay tỏ vẻ gì là để ý đến sự hiện diện của chúng tôi. Mẹ đặt ngón tay lên môi ra dấu chúng tôi nên giữ im lặng. Rồi tôi nhận thấy môi của vị tu sĩ khẽ động đậy nên nhận ra là ông đang cầu nguyện.

Rốt cuộc khi ông mở mắt ra và nhìn lại chúng tôi, tôi thấy đôi mắt ông xanh biếc một màu hoa chuông xanh từng luôn khiến cho núi rừng cây cối ở Hạt tôi bừng sáng lên mỗi độ xuân về. Ông chỉ tay ra hiệu chúng tôi ngồi cùng trên sàn nhà thế là chúng tôi ngồi xuống đối diện ông.

"Đây là bạn của ta, ông Gregory, một kẻ thù của thế lực bóng tối," Mẹ nói, gật đầu hướng về Thầy trừ tà.

Vị tu sĩ khẽ mỉm cười với thầy. Rồi ông ta dán mắt vào tôi. "Con trai của bà ư?" ông hỏi. Ông nói tiếng Hy Lạp - loại thổ ngữ mà tôi hiểu dễ dàng.

"Vâng, thưa Cha," Mẹ trả lời cũng bằng thứ tiếng ấy, "đây là con út và cũng là con trai thứ bảy của ta, Thomas."

"Bà có kế hoạch xâm nhập vào thành Ord không?" vị tu sĩ quay sang hỏi mẹ.

"Nếu như Cha có thể sử dụng sức ảnh hưởng của mình thuyết phục mọi người tránh sang một bên, thì vài người trong đoàn của ta có thể thế vào chỗ của họ trong phái đoàn thành Kalambaka."

Vị tu sĩ chau mày. "Để làm gì?" ông hỏi. "Bà mong đạt được điều gì khi mà chấp nhận rủi ro đến dường thế?"

"Một vài tôi tớ của mụ Ordeen đã thức tỉnh khi thành Ord xuất hiện lần đầu tiên - để nhận đoàn người vào. Bọn ta sẽ ra đòn nghi binh, và khi bọn chúng chuyển mục tiêu sang hướng khác, một cuộc tấn công mạnh mẽ hơn sẽ được dấy lên. Bọn ta mong tìm được Ordeen mà tiêu diệt trước khi mụ hoàn toàn thức tỉnh..."

"Bà sẽ dự phần vào nghi lễ hiến máu à? Hy sinh đến mức đó sao?"

"Thực ra có nhiều cách để chọc thủng hàng phòng thủ của pháo đài ấy. Ta sẽ sử dụng cùng một công cụ mà người xưa từng dùng - một con ngựa gỗ,"mẹ nói thêm đầy bí ẩn.

Tôi chả hiểu ý bà là gì, nhưng đôi mắt vị tu sĩ thì bất chợt bừng sáng lên ra điều am tường; đoạn ông ta lại quay sang chăm chú nhìn tôi.

"Cậu bé này có biết được là mình phải làm gì không?" ông hỏi.

Mẹ lắc đầu. "Ta sẽ nói cho thằng bé biết khi thời khắc đến. Nhưng thằng bé là đứa con trung thành biết nghe lời và sẽ làm những gì cần thiết."

Nghe thế tim tôi chùng hẳn xuống. Tôi nhớ đến những gì Quỷ Vương đã nói với mình. Liệu hắn có nói sự thật chăng? Cha Bề Trên đã sử dụng cụm từ "nghi lễ hiến máu". Có phải tôi sẽ được hy sinh hiến tế để giành chiến thắng à?

Bấy giờ Thầy trừ tà mới cất lời. "Có vẻ như có rất nhiều chuyện chúng tôi chưa được biết đây - mà chắc chắn là chẳng lâu nữa đâu rồi chúng tôi sẽ được biết hết những chuyện khủng khiếp nhất thôi mà," thầy nói rồi liếc dài mẹ. "Nhưng Cha có thể nói cho chúng tôi nghe được điều gì chứ, thưa Cha? Đã có những dấu hiệu cho thấy chính xác khi nào mụ Ordeen sẽ xuyên qua cổng dịch chuyển chưa thế?"

Cha Bề Trên lắc đầu. "Chưa, nhưng sẽ rất sớm thôi - chúng ta tin là chỉ còn vài ngày thôi, chứ chẳng phải là vài tuần nữa."

"Chúng ta có rất ít thời gian để chuẩn bị," Mẹ nói, rồi đứng dậy. "Bọn ta phải xin phép Cha thôi. Vậy nên thưa Cha, ta phải hỏi Cha lại một lần nữa - Cha sẽ yêu cầu phái đoàn đó tránh đường để bọn ta thay thế cho họ chứ?"

Cha Bề Trên gật đầu. "Ta sẽ làm như bà yêu cầu - dĩ nhiên họ sẽ hân hoan khi được giải thoát khỏi cái nhiệm vụ như cái án tử đối với đại đa số ấy. Nhưng trước khi mọi người rời đi, ta muốn mọi người hãy để cho chúng ta cầu nguyện," ông nói. "Đặc biệt là cậu bé. Ta cảm giác là cậu này không biết gì về uy lực của chúng ta cả."

Thế là chúng tôi theo chân Cha Bề Trên từ trai phòng đơn sơ đi về phía mái vòm nguy nga của katholicon. Tôi cảm thấy có chút bực bõ vì câu nhận xét của ông này. Ông ta làm sao mà biết được tôi đang nghĩ gì cơ chứ? Trước giờ tôi chưa khi nào tin mấy lời kinh cầu có thể thưc sự làm nên trò trống gì cả, nhưng tôi vẫn cất lời "Amen" mỗi khi cha tôi nói lời tạ ơn trước bữa tối. Tôi tôn trọng những ai có đức tin và biết cầu nguyện, như cha đã dạy. Có muôn vàn cách để vươn tới ánh sáng cơ mà.

Nhà thờ thật lộng lẫy, nào là hoa văn cẩm thạch với cả những bức tranh khảm xinh đẹp. Chừng một trăm tu sĩ đang đứng hướng mặt về phía bàn thờ chánh điện, hai tay chắp lại như thể họ đang cầu nguyện rồi, mặc dù họ vẫn chưa bắt đầu. Rồi họ đột nhiên đồng thanh hát lên. Lời nguyện của họ là một bài thánh tụng. Bài này thật lạ.

Tôi đã từng được nghe dàn đồng ca ở nhà thờ Priestown, nhưng nếu so với lần này thì đó chỉ như một bài ca tào lao trong tửu quán. Giọng hát của các vị tu sĩ cao vút lên tận mái vòm và hòa quyện với nhau, thanh trầm thanh bổng như tiếng hát thiên thần. Ta có thể cảm nhận được sức mạnh vô biên của bao giọng ngân ấy khi chúng hòa quyện nhịp nhàng vào nhau. Một âm thanh đầy uy lực với cùng một mục đích.

Những lời nguyện ấy đúng thật là có đủ uy lực để kìm chân mụ Ordeen chăng? Có vẻ như là thế. Nhưng mà thế lực của bóng tối đã gia tăng, lần này mụ nữ thần khát máu sẽ không chịu giam chân nơi bình nguyên này. Trừ khi chúng tôi có thể tiêu diệt mụ trước, bằng không mụ sẽ tiêu diệt toàn bộ Hạt. Tuy nhiên khả năng thành công của chúng tôi quá thấp.

Chúng tôi cáo biệt Cha Bề Trên rồi rời khỏi katholicon, âm thanh bài thánh ca vẫn còn vang vọng mãi sau lưng chúng tôi. Đến khi đấy tôi mới nhác thấy vẻ mặt của Thầy trừ tà. Gương mặt cau có tức giận giống như lần trước khi Thầy để tôi lại nông trại mà bỏ về Chipenden vậy. Tôi cảm giác thầy mình sắp sửa huỵch toẹt ra rồi đây; và Mẹ sẽ phải hứng chịu nguyên tràng xỉa xói khinh miệt ấy.