Chương 4 TẤM BIA MỘ CỦA PHÙ THỦY
AI CŨNG BIẾT Ở RÌA NGHĨA ĐỊA CÓ mộ của một mụ phù thủy. Từ khi biết suy nghĩ, Bod đã nghe bà Owens dặn là phải tránh xa cái góc đó.
'Tại sao ạ?" nó hỏi.
"Người sống đến đấy không tốt” bà Owens đáp. "Chỗ ấy ẩm thấp lắm. Gần như đầm lầy ấy. Con mà đến đấy thì sẽ bị cảm ngay."
Còn ông Owens thì lại trả lời theo cách thoái thác và nghèo trí tưởng tượng hơn. "Nơi ấy không tốt," ông chỉ nói có vậy.
Ranh giới chính thức của nghĩa địa nằm ở chân đồi phía Tây, dưới cây táo già, với một cái hàng rào làm bằng cọc sắt hoen gỉ, trên đầu mỗi cọc là một mũi nhọn cũng đã gỉ hết, nhưng đằng sau đó là một bãi đất hoang đầy cây tầm ma, cỏ dại, mâm xôi và lá khô. Bod, nhìn chung là một đứa trẻ biết nghe lời, không tìm cách chui qua hàng rào, nhưng nó đi xuống đó rồi nhìn qua những cọc sắt. Nó biết nó chưa được nghe toàn bộ đầu đuôi câu chuyện, và điều đó khiến nó bực mình.
Bod trèo trở lại lên đồi, đến chỗ ngôi nhà thờ nhỏ nằm gần cổng nghĩa địa, và nó đợi cho đến khi trời tối. Khi ánh chiều chạng vạng chuyển từ màu xám sang tím thì có tiếng động trên tháp nhà thờ, lật phật như tiếng một tấm vải nhung nặng, rồi chú Silas rời căn buồng trên tháp chuông của mình và chúc đầu trèo xuống khỏi ngọn tháp.
"Ở góc nghĩa địa đằng kia có gì ạ?" Bod hỏi. "Đằng sau mộ Harrison Westwood, Thợ Bánh của Giáo khu, cùng hai bà vợ, Marion và Joan ấy ạ?"
"Cháu hỏi làm gì?" người bảo trợ của nó hỏi lại, phủi bụi trên bộ quần đen bằng những ngón tay trắng như ngà.
Bod nhún vai. "Cháu chỉ tò mò thôi!".
"Đó là phần đất không được nhà thờ ban phước” chú Silas đáp. "Cháu có hiểu như thế nghĩa là gì không?"
"Không ạ," Bod nói.
Chú Silas bước ngang qua lối đi mà không làm xáo trộn một chiếc lá rụng nào, rồi ngồi xuống cạnh Bod trên chiếc ghế dài. Chú nói bằng cái giọng êm như nhung của mình, "Có những người tin rằng mọi mảnh đất đều linh thiêng. Họ tin rằng mảnh đất ấy đã linh thiêng từ trước khi chúng ta đặt chân lên, và vẫn linh thiêng sau khi chúng ta đã rời đi. Nhưng ở đây, ở xứ sở của cháu, người ta ban phước cho các nhà thờ và khoảng đất dành riêng cho việc mai táng, để biến chúng thành nơi linh thiêng. Nhưng bên cạnh các khoảng đất thiêng, họ vẫn chừa ra một phần đất không được ban phước, một khu Nghĩa địa Bần cùng, dành riêng để chôn bọn tội phạm, người tự tử và những kẻ không theo đạo."
"Vậy những người chôn ở khoảng đất bên kia hàng rào là người xấu ạ?"
Chú Silas nhướn một bên lông mày đẹp tuyệt lên. "Gì cơ? Ồ không, không phải thế đâu. Để xem nào, đã lâu rồi chú chưa đi xuống đó. Nhưng chú không nhớ ở đó có ai cực kỳ xấu xa cả. Cháu phải nhớ là thời xưa, chỉ ăn trộm một silinh thôi cũng đủ để bị treo cổ rồi. Và trên đời luôn có những người cảm thấy cuộc sống của họ đã trở nên không chiu nổi nữa, đến nỗi họ tin rằng điều tốt nhất họ có thể làm là nhanh chóng chuyển bản thân sang một thể tồn tại khác”
"Ý chú định nói là họ đã tự giết mình ấy ạ?" Bod hỏi. Giờ nó đã lên tám, mắt lúc nào cũng mở to đầy tò mò, và nó không ngốc một chút nào.
"Đúng thế”
"Làm thế có tác dụng không ạ? Khi chết đi thì họ có sung sướng hơn không ạ?"
"Thỉnh thoảng. Nhưng phần lớn là không. Cũng giống như những người nghĩ rằng nếu chuyển đến ở một chỗ khác thì họ sẽ sung sướng hơn, nhưng rồi họ nhận ra làm thế không phải lúc nào cũng có tác dụng. Cho dù
ta có đi đến đâu thì ta cũng đem theo bản thân mình. Nếu cháu hiểu chú định nói gì”
"Hơi hơi ạ," Bod nói.
Chú Silas đưa tay xoa đầu thằng bé.
Bod hỏi, "Thế còn phù thủy thì sao ạ?"
"Ừ. Đúng thế đấy," chú Silas nói. "Những người tự tử, tội phạm, và phù thủy. Những người không được xưng tội trước khi chết” Chú đứng dậy, nom như một bóng đen thẳm tối giữa ánh chiều. "Nói chuyện mãi, chú còn chưa kịp ăn sáng nữa” chú nói. "Còn cháu thì đã muộn giờ học rồi đấy." Giữa khu nghĩa địa tranh tối tranh sáng, một tiếng nổ lặng lẽ bùng lên, một khoảng bóng tối đen thẳm rung rinh chập chờn, và chú Silas biến mất.
Khi Bod đến lăng của thầy Pennyworth thì trăng đã mọc, và thầy Thomas Pennyworth (người nằm lại đây để rồi sẽ được hồi sinh trong cảnh thiên đường huy hoàng nhất) đang ngồi đợi nó, không lấy gì làm vui vẻ.
"Trò đến muộn."
"Em xin lỗi, thưa thầy Pennyworth."
Thầy Pennyworth tặc tặc lưỡi. Tuần trước thầy Pen-nyworth đã dạy Bod về Tâm trạng cùng Tình cảm, và Bod đã quên mất cái nào là cái nào. Nó chỉ sợ sẽ bị kiểm tra, nhưng thầy Pennyworth lại bảo, "Ta nghĩ đã đến lúc chúng ta phải học một số điều thực tiễn hơn. Dù sao thì thời gian cũng đang dần trôi qua."
"Thế ạ?" Bod hỏi.
"Ta e là thế, trò Owens ạ. Nào, phép Tàng hình của trò thế nào rồi?"
Bod đã mong là nó sẽ không bị hỏi câu ấy.
"Cũng ổn ạ," nó nói. "Ý em là, thầy biết đấy."
"Không, trò Owens ạ. Ta không biết. Sao trò không thử làm cho ta xem sao?"
Tim Bod thót lại. Nó hít một hơi thật sâu, rồi cố hết sức nhắm nghiền mắt lại và làm mình mờ dần đi.
Thầy Pennyworth không hài lòng chút nào.
"Hừ. Không phải thế. Không đúng tí nào cả. Phải Xuyên thấu và Tàng hình như người chết vậy. Xuyên qua những cái bóng. Biến thành tàng hình trong tâm trí người ta. Làm lại lần nữa xem nào”
Bod gắng sức hơn chút nữa.
"Trông trò vẫn rõ rành rành như cái mũi trên mặt trò ấy," thầy Pennyworth nói. "Và cái mũi của trò thì lại cực kỳ nổi bật. Cũng như toàn bộ phần còn lại trên mặt trò, chàng trai ạ. Và cả người trò nữa. Nhân danh tất cả những gì thiêng liêng, hãy cố làm sạch đầu óc mình đi nào. Rồi. Giờ thì trò là một con hẻm không người. Trò là một ô cửa trống rỗng. Trò chẳng là gì hết. Mắt người thường không thể trông thấy trò. Trí óc người thường không thể nhớ được trò. Ở chỗ trò đứng chẳng có gì hết, chẳng có ai hết."
Bod thử lại lần nữa. Nó nhắm mắt vào và cố tưởng tượng mình đang chìm vào nền đá ẩm mốc của lăng mộ, biến thành một cái bóng trong màn đêm, không hơn không kém. Rồi nó hắt hơi.
"Tệ quá” thầy Pennyworth thở dài nói. "Rất tệ. Ta nghĩ ta phải nói chuyện với người bảo trợ của trò về việc này thôi." Thầy lắc đầu. "Nào. Các tâm trạng. Liệt kê đi."
"Ờ. Vui vẻ. Cáu kỉnh. Thản nhiên. Và còn một cái nữa. Ờ, hình như là sầu muộn ạ."
Thế là bài học tiếp tục, cho đến khi nó phải chuyển sang học Ngữ pháp và Tập làm văn với cô Letitia Bor-rows, Người Phụ nữ Độc thân Của Giáo khu (người khi còn sống đã không hề làm hại một người đàn ông nà. . Bạn có thể nói như vậy về bản thân không hỡi người viếng mộ?) . Bod quý cô Borrows, thích hầm mộ ấm cúng của cô, và thích cả chuyện cô rất dễ bị xao nhãng sang vấn đề chẳng liên quan gì đến bài học.
"Người ta bảo có một mụ phù thủy được chôn ở phần đất không được - không được ban phước", nó nói.
"Đúng vậy. Nhưng em không muốn đến chỗ ấy dâu."
"Tại sao lại không ạ?"
Cô Borrows mỉm cười, nụ cười chân thật của người chết. "Người ở đó không giống chúng ta."
"Nhưng nó vẫn thuộc nghĩa địa, phải không ạ? Ý em là, nếu muốn đến đó thì em vẫn được phép, đúng không ạ?"
"Em không nên đến đó," cô Borrows nói.
Bod là đứa trẻ ngoan, nhưng tò mò, vì vậy, sau buổi học đêm ấy, nó liền đi qua mộ của Hanison West-wood, Thợ Làm Bánh, qua đài tưởng niệm của dòng họ, một bức tượng thiên thần cụt tay, nhưng nó không đi xuống đồi để đến khu Nghĩa địa Bần cùng. Thay vào đó, nó lên sườn đồi, đến cái nơi mà một buổi tiệc ngoài trời cách đây chừng ba mươi năm đã để lại dấu vết dưới hình dạng một cây táo lớn.
Có một số bài học mà Bod đã thuộc nằm lòng. Cách đây mấy năm, nó từng hái một mớ táo xanh trên cây, chua loét và hạt còn trắng, chén đầy một bụng, để rồi phải hối hận mãi suốt mấy ngày trời, trong khi bụng đau quằn quại và phải nghe bà Owens giảng giải về những thứ không nên ăn. Giờ thì nó luôn đợi táo chín rồi mới ăn, và không bao giờ dám ăn quá hai hoặc ba quả cùng một lúc. Nó đã ăn hết táo trên cây từ tuần trước, nhưng thích đến chổ cây táo để ngồi ngẫm nghĩ.
Nó leo lên, trèo đến chỗ ngồi ưa thích của mình ở một chạc cây, rồi nhìn xuống khu Nghĩa địa Bần cùng ở dưới, một khoảng đất đầy mâm xôi dại và cỏ không được xén, nằm dưới ánh trăng. Nó tự hỏi không biết mụ phù thủy có phải một mụ già răng cứng như thép, đi lại trong căn nhà có chân gà, hay là một mụ già gầy gò, mũi nhọn hoắt, cưỡi chổi bay.
Dạ dày Bod sôi lên, và nó chợt nhận ra là mình đang đói. Nó ước gì mình không chén sạch táo trên cây. Giá mà nó để dành lại một quả...
Nó ngước lên, và tưởng như mình vừa thoáng trông thấy một cái gì đó. Nó nhìn lại một lần, rồi lần nữa, để cho chắc chắn: đó là một trái táo chín, đỏ mọng.
Bod rất tự hào về tài leo cây của mình. Nó đu người lên, chuyền từ cành này qua cành khác, tưởng tượng rằng mình là chú Silas, đi lại nhẹ nhàng trên một bức tường dốc đứng. Quả táo, với lớp vỏ đỏ thắm đến mức gần như biến thành màu đen trong ánh trăng, nằm vừa ngoài tầm với của nó. Bod chậm rãi di chuyển dọc theo cành cây, cho đến khi ở ngay bên dưới quả táo. Rồi nó vươn tay lên, các đầu ngón tay chạm vào quả táo hoàn hảo ấy.
Nó không bao giờ được biết mùi vị quả táo đó ra sao.
Một tiếng "rắc" to vang lên, nghe như tiếng súng săn, và cành cây gẫy gập dưới sức nặng của nó.
º º º
Một cơn đau nhói làm nó tỉnh dậy, cảm giác tê buốt như bị đâm bởi một thỏi băng, như một tia chớp chậm rãi lóe lên, trong khi nó nằm trên lớp cỏ vào cái đêm mùa hạ ấy.
Mặt đất bên dưới nó có vẻ khá mềm, ấm áp một cách kỳ lạ. Nó đặt tay xuống và sờ thấy thứ gì đó giống như một lớp lông ấm dưới chân mình. Nó đã ngã lên đống cỏ, nơi người trông coi nghĩa địa đổ cỏ mới cắt lên, và đống cỏ đã giúp chặn cú ngã của nó. Nhưng ngực nó vẫn nhức nhối, còn chân nó thì đau như thể lúc ngã, nó đã đập chân xuống đất trước và bị trẹo.
Bod rên lên.
"Suỵt, suỵt, chú bé, yên nào," một giọng nói vang lên sau lưng nó. "Cậu từ đâu đến vậy? Rơi xuống như một cơn mưa rào ấy. Ai lại thế bao giờ?"
"Tôi bị ngã từ trên cây táo," Bod nói.
"À. Để tôi xem chân cậu nào. Tôi dám chắc là cũng bị gẫy như cái cành cây kia rồi." Những ngón tay mát lạnh chọc chọc vào chân trái nó. "Không gẫy. Bị trẹo phải, có lẽ là bong gân nữa. Cậu có vận may hiếm thấy đấy, ngã vào đúng đống cỏ này. Không sao đâu."
"Thế à, tốt quá” Bod nói. "Nhưng mà đau lắm."
Nó quay đầu lại phía sau, ngước nhìn lên. Cô gái đó lớn hơn nó, nhưng chưa phải là người lớn, không có vẻ thân thiện nhưng cũng không thù địch. Trông cô chỉ có vẻ thận trọng. Cô có khuôn mặt rất thông minh nhưng không xinh đẹp chút nào.
"Em là Bod," nó nói.
"Chú nhóc còn sống ấy à?" cô gái hỏi.
Bod gật đầu.
"Tôi cũng đoán thế," cô nói. "Chúng tôi đã nghe kể về cậu, ngay cả ở khu Nghĩa địa Bần cùng này. Người ta gọi cậu là gì?"
"Owens ạ," nó đáp. "Nobody Owens. Gọi tắt là Bod."
"Rất hân hạnh được làm quen với cậu, cậu Bod."
Bod ngắm nhìn cô gái từ đầu đến chân. Cô mặc chiếc áo dài trắng đơn giản. Cô có mái tóc dài màu nâu xỉn, và trên mặt có vẻ gì đó gần giống như một con yêu tinh ranh mãnh - ở khóe miệng cô như luôn có một nụ cười vương vất, cho dù nét mặt của cô có như thế nào đi chăng nữa.
"Chị là người tự tử à?" nó hỏi. "Hay chị đã ăn cắp một silinh?"
"Tôi chưa bao giờ ăn cắp cái gì hết” cô gái đáp. "Cho dù là một cái khăn tay. Hơn nữa," cô nhanh nhảu nói thêm, "người tự tử được chôn ở đằng kia, phía bên
kia bụi táo gai ấy, còn bọn tội phạm thì ở chỗ bụi mâm xôi, cả hai tên. Một gã chuyên nghề đúc tiền giả, còn tên kia là cướp đường, hay ít ra thì hắn cũng huênh hoang như vậy, nhưng nếu cậu hỏi tôi thì tôi xin nói rằng hắn chỉ là một tên trộm, một kẻ ăn sương tầm thường mà thôi”
"Thế ạ," Bod nói. Rồi, với một nỗi nghi ngờ mới nảy ra trong lòng, nó rụt rè nói, "Người ta bảo ở đây chôn một mụ phù thủy."
Cô gái gật đầu. "Bị dìm chết, bị thiêu sống, rồi đem chôn mà chẳng có được lấy một tảng đá đánh dấu mộ phần."
"Chị vừa bị dìm vừa bị thiêu à?"
Cô gái ngồi xuống cạnh nó trên đống cỏ mới cắt, hai bàn tay lạnh ngắt ôm lấy cái chân nhức nhối của nó. "Chúng kéo đến căn nhà nhỏ của tôi vào lúc bình minh, khi tôi còn chưa kịp tỉnh ngủ, và lôi tôi ra bãi cỏ làng. "Mày là phù thủy!" chúng hét lên, những kẻ béo tốt, mặt mũi sạch sẽ hồng hào trong ánh nắng sớm như lũ lợn con được tắm rửa sạch sẽ cho ngày chợ phiên. Từng đứa một, chúng đứng giữa trời và kể lại chuyên sữa bị chua, ngựa bị què, rồi cuối cùng, chị chàng Jemima đứng dậy, người béo nhất, hồng hào nhất, mặt mũi cọ rửa sạch sẽ nhất, rồi kể lại rằng Solomon Porrit giờ đã bỏ mặc chị ta, suốt ngày lởn vởn quanh cửa hàng giặt là, như con ong vo ve quanh hũ mật, và chị ta tuyên bố anh ta thành ra như thế chính là do bùa mê của tôi, rằng chàng trai tội nghiệp đó hẳn đã bị bỏ bùa. Thế là chúng trói tôi vào chiếc ghế hình phạt và dìm tôi xuống ao, chúng nói rằng nếu là phù thủy thì tôi sẽ không bị chết đuối, và cũng chẳng bận tâm đến chuyện bị dìm, còn nếu không phải phù thủy thì tất tôi đã cảm thấy đau đớn. Và bố của Jemima cho mỗi tên trong bọn một đồng bốn xu bằng bạc, để chúng giữ cái ghế chìm trong làn nước xanh lè kinh khủng ấy thật lâu, để xem tôi có bị chết ngạt không."
"Thế chị có bị làm sao không?"
"Có chứ. Tôi uống đầy một bụng nước. Nó đã kết liễu đời tôi”
"Ồ," Bod nói. "Như thế tức là chị không phải là phù thủy."
Cô gái đưa cặp mắt ma mờ ảo nhưng sáng trong nhìn nó rồi nhoẻn miệng cười. Trông cô vẫn giống yêu tinh, nhưng giờ thì là một con yêu tinh xinh xắn, và Bod nghĩ rằng cô chẳng cần đến bùa mê cũng vẫn có thể thu hút được anh chàng Solomon Porrit kia, chỉ cần nụ cười ấy thôi. "Nói vớ vẩn. Tất nhiên tôi là phù thủy rồi. Chúng đã biết được điều đó, khi chúng cởi trói cho tôi khỏi chiếc ghế hình phạt và ném tôi lên bãi cỏ của làng, chín phần chết một phần sống, khắp người đầy rêu và bùn đất hôi thối. Tôi trợn mắt lên và nguyền rủa tất cả bọn chúng, tất cả những kẻ có mặt trên bãi cỏ làng sáng hôm ấy, nguyền rằng chúng sẽ không bao giờ được yên nghỉ trong mồ. Tôi rất ngạc nhiên khi thấy lời nguyền ấy đến một cách dễ dàng tới mức nào. Giống như là khiêu vũ vậy, chân ta có thể bắt nhịp được với một điệu nhạc mới mà tai ta chưa hề nghe, đầu óc ta chưa hề biết, và cứ thế nhảy nhót cho đến tận bình minh." Cô đứng lên, xoay tròn, vung chân lên, hai bàn chân trần trắng muốt dưới ánh trăng. "Tôi đã nguyền rủa bọn chúng như thế đấy, bằng hơi thở cuối cùng trong cổ họng đầy nước ao của tôi. Và rồi tôi chết. Chúng thiêu xác tôi trên bãi cỏ cho đến khi tôi chỉ còn là một đống than đen xì, rồi chúng hắt tôi vào một cái hố trên khu Nghĩa địa Bần cùng, chẳng có lấy một hòn đá để đánh dấu tên tuổi” Chỉ đến lúc ấy cô mới ngừng lại, và có vẻ buồn bã trong thoáng chốc.
"Thế có ai trong số họ được chôn trong nghĩa địa không?" Bod hỏi.
"Không một ai," cô gái nháy mắt nói. "Vào thứ Bảy sau ngày chúng dìm chết và thiêu xác tôi, ông Porringer nhận được một tấm thảm gửi từ tận thành London, đó là một tấm thảm rất đẹp. Nhưng hóa ra trong tấm thảm ấy còn có một thứ khác ngoài những sợi len dày dệt khéo, bởi vì giữa những họa tiết của tấm thảm là mầm dịch hạch, và đến thứ Hai, năm người trong số chúng đã ho ra máu, còn da chúng đen xì như da tôi khi chúng lôi tôi ra khỏi đống lửa. Một tuần sau thì bệnh dịch đã lan ra gần hết cả làng, vậy là chúng phải ném bừa những cái xác xuống một cái huyệt chung được đào ngoài làng rồi lấp kín lại."
"Tất cả mọi người trong làng đều chết hết ạ?"
Cô gái nhún vai. "Tất cả những kẻ đã đứng xem tôi bị dìm chết và bị thiêu. Chân cậu thế nào rồi?"
"Đỡ hơn rồi ạ," nó đáp. "Cảm ơn chị."
Bod chậm rãi đứng dậy và tập tễnh trèo xuống khỏi đống cỏ. Nó tựa người vào hàng rào sắt. "Thế lúc nào chị cũng là phù thủy à?" nó hỏi. "Ý em là, trước khi chị nguyền rủa bọn họ ấy?"
Cô gái khịt mũi đáp, "Đâu cần phải có ma thuật thì mới khiến cho Solomon Porrit lởn vởn quanh nhà tôi."
Bod nghĩ rằng câu nói ấy chẳng hề trả lời câu hỏi của nó chút nào, nhưng nó không nói ra.
"Tên chị là gì?" nó hỏi.
"Không có bia mộ," cô gái bĩu môi nói. "Thế thì là ai mà chẳng được. Phải không?"
"Nhưng chị phải có tên chứ”
"Nếu cậu khăng khăng muốn biết, thì là Liza Hempstock," cô gay gắt đáp lại. Rồi cô nói thêm, "Đòi hỏi như thế thì có phải là quá lắm không? Tôi chỉ muốn có một cái gì đó đánh đấu mộ phần của mình. Tôi nằm ngay dưới kia kìa, thấy không? Nhưng chẳng có gì ngoài mấy bụi tầm ma đánh dấu nơi tôi yên nghỉ” Và trong một thoáng, trông cô buồn rầu đến nỗi Bod chỉ muốn ôm lấy cô. Thế rồi, trong khi chui qua những thanh sắt ở hàng rào, nó chợt nảy ra một ý. Nó sẽ kiếm cho Liza Hempstock một tấm bia mộ, trên có đề tên của cô. Nó sẽ làm cho cô mỉm cười.
Lúc trèo lên đồi, nó quay lại vẫy chào tạm biệt, nhưng cô gái đã biến mất.
º º º
Trong khắp nghĩa địa có vô số mảnh vỡ từ các tấm bia và các bức tượng trên mộ của những người khác, nhưng Bod biết nó không thể đem một thứ như thế đến cho cô phù thủy mắt xám ở khu Nghĩa địa Bần cùng. Nó sẽ phải kiếm một tấm bia đẹp hơn. Nó quyết định sẽ không cho ai biết kế hoạch của mình, với lý do không phải là không chính đáng rằng họ sẽ ngăn cấm nó.
Suốt mấy ngày sau đó, nó nghiền ngẫm trong đầu đủ các kế hoạch khác nhau, mỗi kế hoạch mới lại rắc rối và khó thực hiện hơn kế hoạch cũ. Thầy Pennyworth tỏ ra hết sức thất vọng.
"Ta tin rằng trò đang ngày càng tệ, chứ chẳng hề tiến bộ lên chút nào” thầy tuyên bố, đưa tay gãi gãi chòm râu bụi bặm của mình. "Trò chẳng Tàng hình được gì cả. Trông trò vẫn rõ rành rành ấy. Không ai có thể không chú ý tới trò được. Nếu trò đi đến chỗ ta cùng với một con sư tử màu tím, một con voi màu xanh lá cây và một con ngựa thần màu đỏ, trên lưng là vua nước Anh đóng đủ bộ Hoàng bào, thì ta tin rằng người ta sẽ chỉ nhìn vào trò và một mình trò mà thôi, còn những thứ kia chỉ là những vật tầm thường không đáng kể."
Bod chỉ trố mắt nhìn thầy, không nói gì. Nó đang tự hỏi không biết ở những nơi người sống thường đến có cửa hàng nào chuyên bán bia mộ hay không, và nếu có thì làm sao để nó có thể tìm được một cửa hàng như thế. Chuyện Tàng hình không hề làm nó bận tâm.
Nó lợi dụng việc cô Borrows dễ bị sao nhãng để lái câu chuyện từ những bài học Ngữ pháp và Tập làm văn sang một chủ đề hoàn toàn khác về chuyện tiền nong.
º º º
Bod tự hỏi không biết phải lùi lại bao nhiêu ngàn năm thì ngôi mộ ở sâu nhất trong lòng quả đồi này mới nằm trên một vùng đồng bằng, và nó hiểu rằng chắc phải cách đây lâu lắm. Nó có thể cảm thấy các Sát thủ đang cuộn xoáy quanh nó bằng những đợt sóng khiếp hãi, như những tua cuốn của một thứ dây leo ăn thịt. Nó bắt đầu thấy lạnh, đầu óc mụ mẫm đi, như thể một con rắn độc có cái răng nanh lạnh buốt đã cắn vào tim nó, và thứ nọc độc băng giá ấy đang truyền đi khắp người nó.
Nó tiến một bước tới trước, tựa người vào phiến đá, rồi đưa tay ra nắm lấy chiếc trâm cài lạnh toát.
DỪNG LẠI! các Sát thủ rít lên. CHÚNG TA PHẢI CANH GÁC VẬT ĐÓ CHO CHỦ NHÂN.
"Ông ấy sẽ không thấy phiền đâu," Bod nói. Nó lùi lại một bước, tiến về phía các bậc thang bằng đá, cố tránh những cái xác khô đét của người và thú trên mặt đất.
Bọn Sát thủ quằn quại tức tối, lượn vòng quanh căn buồng nhỏ như những bóng ma bằng khói. Rồi chúng đi chuyển chậm lại. NÓ SẼ QUAY TRỞ LẠI, các Sát thủ thốt lên bằng ba giọng nói hòa quyện vào nhau. LUÔN LUÔN QUAY TRỞ LẠI.
Bod cố hết sức lao thật nhanh lên những bậc thang đá trong lòng đồi. Có lúc nó đã tưởng như có vật gì đó đang đuổi theo mình, nhưng khi nó xông ra miệng hang ở trong lăng Frobisher và hít thở bầu không khí trong lành buổi sớm mai, thì không có vật gì chuyển động hay bám theo nó cả.
Bod ngồi giữa khoảng không gian thoáng đãng trên đỉnh đồi, tay nắm chặt chiếc trâm cài. Mới đầu nó tưởng chiếc trâm chỉ tuyền một màu đen, nhưng rồi mặt trời mọc, và nó có thể thấy ở giữa lớp kim loại đen có gắn một viên đá đỏ xoáy tròn. Viên đá to bằng quả trứng chim két, và Bod dán mắt vào màu đỏ rực của nó như bị hút hồn, băn khoăn không biết có phải trong lòng viên đá đang có gì đó chuyển động hay không. Nếu Bod còn nhỏ, thì hẳn nó đã muốn cho viên đá vào miệng.
Viên đá được giữ bởi hai cái móc kim loại màu đen giống hình móng vuốt, xung quanh là một vật uốn lượn nữa. Cái vật uốn lượn đó nom như một con rắn, nhưng lại có rất nhiều đầu. Bod tự hỏi không biết đó có phải hình dạng thực sự của các Sát thủ khi chúng hiện ra dưới ánh sáng ban ngày hay không.
Nó đi xuống đồi, tận dụng tất cả các đường tắt mà nó biết; xuyên qua vòm dây trường xuân rậm rạp bao trùm lên hầm mộ của gia đình Bartleby (bên trong hầm mộ là tiếng rì rầm của nhà Bartleby đang chuẩn bị đi ngủ), rồi đi tiếp, chui qua hàng rào sắt vào khu Nghĩa địa Bần cùng.
Nó gọi to "Chị Liza! Chị Liza!" rồi nhìn quanh.
"Chào chú nhóc hậu đậu” giọng Liza vang lên. Bod không nhìn thấy cô, nhưng cái bóng bên dưới cây táo gai như tối sẫm hơn, và khi nó lại gần thì cái bóng biến thành một cái gì đó trong mờ, ánh lên màu bạc như ngọc trai dưới ánh nắng sớm. Một cái gì đó có hình cô gái. Một cái gì đó có cặp mắt xám. "Tôi phải được nghỉ ngơi chứ” cô nói. "Cậu muốn gì nào?"
"Tấm bia mộ của chị," nó nói. "Em muốn biết chị muốn ghi chữ gì lên đó."
'Tên của tôi” cô nói. "Nó phải ghi tên tôi, với một chữ E hoa, tức là Elizabeth, giống như vị nữ hoàng đã mất khi tôi ra đời, và một chữ H hoa, tức là Hempstock. Trên đó có viết thêm gì nữa thì tôi không cần biết, vì tôi cũng chẳng phải người hay chữ."
"Thế còn ngày tháng thì sao?" Bod hỏi.
"Willyum Người Chinh phục, một ngàn không trăm sáu mươi sáu” cô nói bằng giọng du dương như hát, trong tiếng gió buổi sáng xào xạc giữa bụi táo gai. "Chỉ cần một chữ E hoa. Và một chữ H hoa."
"Thế chị có nghề nghiệp gì không?" Bod hỏi. "Ý em là, khi chị không làm phù thủy ấy?"
"Tôi làm nghề giặt là” cô gái đáp, thế rồi ánh nắng sớm tràn ngập khoảng đất hoang, và Bod chỉ còn lại một mình.
Đã là chín giờ sáng, cả thế giới đều đang ngủ say. Nhưng Bod thì cương quyết không đi ngủ. Nó có sứ mệnh phải hoàn thành. Nó là một chú bé lên tám, và thế giới bên ngoài nghĩa địa đối với nó không có gì dáng sợ cả.
Quần áo. Nó cần phải có quần áo. Nó biết tấm vải liệm màu xám nó thường mặc sẽ không dùng được. Trong nghĩa địa thì tấm vải ấy là một chiếc áo tốt, vì nó đồng màu với những phiến đá và những cái bóng. Nhưng nếu muốn dấn thân vào thế giới bên ngoài những bức tường nghĩa địa thì nó cần phải hòa nhập
vào thế giới đó.
Trong hầm mộ bên dưới ngôi nhà thờ đổ nát có mấy bộ quần áo, nhưng Bod không muốn đi xuống hầm mộ, ngay cả vào giữa buổi sáng. Bod đã sắp sẵn cớ để tự thanh minh với ông bà Owens, nhưng nó không muốn phải giải thích với chú Silas; chỉ cần nghĩ đến việc đôi mắt tối sẫm của chú trở nên giận dữ, hay tệ hơn nữa là thất vọng, là nó đã thấy hổ thẹn vô cùng rồi.
Ở góc nghĩa địa có nhà kho của người làm vườn, một căn chái nhỏ màu xanh bốc mùi đầu máy, trong đó đặt chiếc máy cắt cỏ đã cũ, không được sử dụng nên hoen gỉ hết, cùng với một số dụng cụ làm vườn cũ kỹ khác. Cái kho đã bị bỏ hoang khi người làm vườn cuối cùng của nghĩa địa về hưu, từ trước khi Bod ra đời, và việc trông coi nghĩa địa bây giờ được chia đều giữa hội đồng thành phố (từ tháng Tư đến tháng Chín, mỗi tháng một lần, họ cử một người đến cắt cỏ và dọn các lối đi) và những người tình nguyện trong thành phố, thuộc hội Bằng Hữu Của Nghĩa địa.
Cửa nhà kho có một chiếc khóa móc lớn để bảo vệ những thứ bên trong, nhưng từ lâu Bod đã phát hiện ra một tấm ván gỗ ở phía sau đã bị long. Thỉnh thoảng khi muốn được ở một mình, nó vẫn chui vào nhà kho để ngồi suy nghĩ.
Kể từ lần đầu tiên đặt chân vào nhà kho, nó đã thấy trong đó có một chiếc áo khoác lao động màu nâu treo ở đằng sau cửa, bị bỏ quên hay vứt lại từ bao nhiêu năm trước, cùng với chiếc quần bò làm vườn dính đầy vết cỏ xanh. Cái quần quá dài đối với nó, nhưng nó xắn gấu quần lên cho đến khi hở hai bàn chân ra rồi dùng một mẩu dây thừng màu nâu quấn quanh bụng làm thắt lưng. Có một đôi ủng ở góc nhà kho, nhưng chúng quá rộng và bùn đất xi măng đóng dày đến nỗi nó gần như không nhấc chân lên nổi, và nếu nó đi một bước thì đôi ủng lại tuột trên nền nhà. Nó nhét cái áo qua tấm ván bị long, rồi tự mình chui qua, và mặc áo vào. Nó nghĩ nếu xắn hai ống tay lên thì cái áo cũng khá vừa vặn. Chiếc áo có hai túi rộng, nó liền thọc tay vào túi, cảm thấy mình bảnh chọe vô cùng,
Bod đi xuống cổng chính của nghĩa địa, và nhòm qua những chấn song ở cổng. Một chiếc xe buýt rầm rầm chạy qua trên phố; rồi có cả xe ô tô, đủ thứ tiếng ồn, đủ loại cửa hàng. Còn đằng sau nó là một vùng xanh mát rậm rạp cây cối và dây thường xuân: mái nhà của nó.
Tim đập thình thịch, Bod bước ra thế giới bên ngoài.
º º º
Trong đời mình Abanazer Bolger đã gặp nhiều loại người kỳ lạ; nếu bạn có một cửa hiệu như của Abanazer thì bạn không thể không gặp những người như thế - cửa hàng nằm giữa những đường ngang ngõ tắt của khu PHỐ CỔ - vừa là cửa hàng bán đồ cổ, vừa là cửa hàng bán đồ cũ, vừa là cửa hiệu cầm đồ (ngay cả bản thân Abanazer cũng không dám chắc phần nào là chính), thu hút đủ loại người kỳ lạ, kẻ muốn mua đồ, kẻ cần bán thứ gì đó.. Abanazer Bolger mua bán mọi thứ trong cửa hàng một cách chính đáng, nhưng việc kinh doanh không chính đáng của lão còn phát đạt hơn, lão mua các thứ có được bằng những cách không lấy gì làm lương thiện, rồi lại êm ái tuồn chúng đi đường khác. Việc kinh doanh của lão giống như một tảng băng vậy. Chỉ có cái cửa hiệu nhỏ bụi bặm này là nổi trên bề mặt mà thôi. Phần còn lại thì chìm bên dưới, và Abanazer Bolger muốn giữ nguyên nó như vậy.
Abanazer Bolger đeo một cặp kính dày cộp, trên mặt lúc nào cũng có vẻ hơi ghê ghê, tựa hồ lão vừa nhận ra rằng món sữa pha trà của mình đã bị chua, và miệng lão không thể quên được cái vị chua ấy. Vẻ mặt ấy rất có lợi cho lão mỗi khi người ta muốn bán thứ gì đó cho lão. "Thật thà mà nói thì nó chẳng đáng giá mấy," lão sẽ nhăn mặt mà nói vậy. "Nhưng tôi sẽ trả cho ông bạn một cái giá phải chăng, vì vật này có giá trị tình cảm." Nếu bạn muốn có được thứ gì đó từ Abanazer Bolger, và cũng nhận được một thứ tương đương thế, thì bạn quả là may mắn.
Một cửa hiệu như của Abanazer Bolger thu hút nhiều hạng người kỳ dị, nhưng thằng bé bước vào cửa hàng sáng hôm đó là một trong những kẻ kỳ dị nhất mà Abanazer có thể nhớ được trong suốt cả quãng đời chuyên lừa gạt tài sản của những kẻ kỳ dị. Trông nó khoảng chừng bảy tuổi, và mặc bộ quần áo nom như mượn của ông nội. Người nó bốc mùi như một cái nhà kho. Nó có mái tóc dài bờm xờm, và vẻ mặt nghiêm trang như đưa đám. Tay nó thọc sâu vào túi cái áo khoác nâu cáu bẩn, nhưng mặc dù không nhìn thấy tay thằng bé, Abanazer vẫn có thể nhận ra một vật gì đó đang được nắm chặt - một cách đầy che chở - trong bàn tay phải của nó.
"Xin lỗi ông” thằng bé nói.
"Được rồi, được rồi, chú nhóc," Abanazer Bolger cảnh giác đáp lại. Trẻ con , lão thầm nghĩ. Hoặc là chúng vừa thó được cái gì, hoặc là chúng muốn đem đồ chơi đi bán . Nhưng dù là cái gì đi chăng nữa thì lão vẫn thường từ chối. Cứ thử mua đồ bọn trẻ ăn cắp được mà xem, rồi thì chẳng mấy chốc sẽ bị một ông bố bà mẹ phẫn nộ nào đó buộc tội vì đã trả Johnnie hoặc Matilda bé bỏng có mười bảng cho chiếc nhẫn cưới của họ. Lũ trẻ bao giờ cũng gây phiền nhiễu hơn là đem lại lợi nhuận.
"Cháu cần mua một thứ cho một người bạn," thằng bé nói. "Và cháu nghĩ có lẽ ông sẽ muốn mua thứ cháu đem đến."
"Ta không mua đồ của trẻ con," Abanazer Bolger thẳng thừng trả lời.
Bod rút tay ra khỏi túi và đặt chiếc trâm cài lên mặt quầy bẩn thỉu. Bolger liếc mắt nhìn cái trâm, rồi lão cúi xuống săm soi. Lão tháo cặp kính ra. Lão lấy một cái thấu kính đặt trên quầy gắn vào mắt. Lão bật ngọn đèn nhỏ trên quầy và dùng thấu kính kiểm tra chiếc trâm một cách kỹ càng. "Xà thạch ư?" lão lẩm bẩm với mình chứ không phải với thằng bé. Rồi lão bỏ thấu kính xuống, đeo cặp kính vào, và chú mục nhìn thằng bé vẻ cáu kỉnh và ngờ vực.
"Chú mày tìm được cái này ở đâu?" Abanazer Bol-ger hỏi.
Bod hỏi, "Ông có muốn mua nó không?"
"Chú mày đã đánh cắp nó. Chú mày thó được nó ở một viện bảo tàng nào đó, phải không?"
"Không” Bod đáp ngay. "Ông có muốn mua nó không, hay để cháu đi tìm người khác muốn mua?"
Nghe vậy, vẻ cáu gắt của Abanazer Bolger liền thay đổi. Đột nhiên lão lại tỏ ra niềm nở vô cùng. Lão toét miệng cười. "Xin lỗi chú nhóc” lão nói. "Chỉ có điều người ta ít khi thấy một món đồ như thế này. Nhất là trong một cửa hiệu như của ta. Ở một nơi không phải viện bảo tàng. Nhưng nhất định là ta muốn mua rồi. Chú nhóc nghe này. Sao hai ta không uống tách trà, ăn miếng bánh quy - ta có một gói bánh quy sô cô la ở phòng trong đấy - và bàn xem một món đồ như thế này thì đáng giá bao nhiêu? Chú nhóc thấy thế nào?"
Bod nhẹ cả người khi thấy lão già cuối cùng cũng tỏ ra thân thiện. "Cháu cần đủ tiền để mua một tấm bia” nó nói. "Một tấm bia mộ cho bạn cháu. Ờ, thật ra chị ấy cũng không phải bạn cháu. Chỉ là một người cháu quen thôi. Ông biết không, cháu nghĩ chị ấy đã chữa khỏi chân cho cháu."
Không để ý đến những lời huyên thuyên của thằng bé, Abanazer Bolger dẫn nó ra phía sau quầy hàng, mở cánh cửa dẫn vào buồng kho, một căn phòng nhỏ không cửa sổ, với hàng chồng hộp các tông cao ngất ngưởng, hộp nào cũng đầy các thứ đồ linh tinh. Trong góc phòng có một chiếc két, một cái két lớn kiểu cổ. Có cả một cái hộp chất đầy đàn vi ô lông, một đống da thú nhồi mạt cưa, ghế không có mặt, sách vở, tranh ảnh.
Bên cạnh cánh cửa có một cái bàn nhỏ và Abanazer kéo cái ghế độc nhất ra rồi ngồi xuống, để mặc Bod đứng đó. Lão lục lọi trong ngăn kéo, Bod thấy trong đó có một chai whisky đã cạn gần nửa, rồi lão lôi ra một gói bánh quy sô cô la đã gần hết, mời thằng bé một cái; đoạn lão bật đèn bàn lên và lại ngắm nghía chiếc trâm cài, ngắm viên đá với những xoáy tròn màu đỏ và cam, ngắm vòng kim loại màu đen bao quanh, cố ngăn một cái rùng mình trước vẻ mặt của những cái đầu rắn. "Thứ này cũ lắm rồi," lão nói. "Nó" - vô giá , lão thầm nghĩ - "có lẽ không đáng giá lắm, nhưng ai mà biết được đấy” Mặt Bod xịu xuống. Abanazer Bolger cố tỏ vẻ an ủi. "Nhưng trước khi trả tiền, ta chỉ cần biết là chú mày đã không ăn trộm nó thôi. Chú mày lấy nó từ trong tủ của mẹ hả? Hay trộm từ viện bảo tàng? Cứ cho ta biết. Ta sẽ không gây rắc rối cho chú mày đâu. Ta chỉ muốn biết mà thôi."
Bod lắc đầu. Nó nhấm nhấm cái bánh quy.
'"Thế thì chú mày tìm được nó ở đâu?"
Bod không nói gì.
Abanazer Bolger không muốn đặt chiếc trâm xuống, nhưng lão miễn cưỡng đẩy nó ngang qua mặt bàn về phía thằng bé. "Nếu chú mày không thể cho ta biết," lão nói, "thì chú mày nên đem nó về đi. Dù sao thì hai bên cũng phải tin tưởng nhau chứ. Rất vui vì đã được giao dịch với chú mày. Thật tiếc là chúng ta không thể tiến xa hơn."
Bod có vẻ lo lắng. Rồi nó nói, "Cháu tìm thấy nó trong một ngôi mộ cổ. Nhưng cháu không thể cho ông biết là ở đâu được." Nó ngưng bặt, vì một vẻ tham lam hăm hở đã hiện ra trần trụi trên mặt Abanazer Bolger, thế chỗ cho vẻ thân thiện lúc trước.
"Và ở đó có còn những cái giống như thế này không?"
Bod nói, "Nếu ông không muốn mua nó thì để cháu đi tìm người khác. Cảm ơn ông đã cho cháu cái bánh quy."
Bolger nói, "Chú mày đang vội hả? Bố mẹ đang đợi chú mày ở nhà chứ gì?"
Thằng bé lắc đầu, rồi lại ước là mình đã gật.
"Không có ai đợi cả. Tốt." Abanazer Bolger nắm chặt chiếc trâm trong lòng bàn tay. "Giờ thì hãy cho ta biết chính xác chú mày đã tìm thấy nó ở đâu. Thế nào? "
"Cháu không nhớ," Bod nói.
"Nói thế bây giờ thì quá muộn rồi” Abanazer Bol-ger nói. "Chú mày hãy nghĩ cho kỹ xem chú mày tìm được nó ở đâu. Rồi, sau khi chú mày đã nghĩ xong, thì chúng ta sẽ nói chuyện, và chú mày sẽ cho ta biết."
Lão đứng lên, ra khỏi phòng, đóng sập cánh cửa lại sau lưng. Lão dùng một chiếc chìa khóa lớn bằng sắt khóa cửa lại.
Lão xòe tay, ngắm chiếc trâm cài nằm trong lòng bàn tay, và mỉm cười một cách đầy thèm thuồng.
Chiếc chuông nhỏ gắn trên cửa ra vào khẽ kêu lên một tiếng, báo hiệu có người vừa bước vào cửa hàng, và lão vội ngước lên, vẻ tội lỗi, nhưng trong cửa hàng chẳng có ai cả. Chỉ có cánh cửa là hơi hé mở, và Bolger liền đẩy nó khép lại, rồi để cho chắc ăn, lão xoay tấm biển hiệu ở cửa sổ cho phía có đề chữ ĐÓNG CỬA quay ra ngoài. Lão cài then cửa cẩn thận. Lúc này lão không muốn có kẻ tọc mạch nào xông vào cửa hàng hết.
Ngày mùa thu ấy đã chuyển từ sáng sủa sang xám xịt, và một màn mưa nhẹ lất phất phả vào ô cửa sổ dơ dáy của cửa hàng.
Abanazer Bolger nhấc chiếc điện thoại trên mặt quầy lên và bấm số bằng những ngón tay gần như không run rẩy chút nào.
"Có món hời, Tom ạ," lão nói. "Ông bạn hãy đến đây càng nhanh càng tốt."
º º º
Bod nhận ra mình đã bị nhốt khi nghe tiếng chìa khóa xoay trong ổ. Nó đẩy cánh cửa, nhưng cửa đã bị khóa rất chắc. Nó cảm thấy mình thật ngu ngốc vì đã để bị dụ dỗ vào đây, thật ngu ngốc vì đã không nghe theo những bản năng đầu tiên mách bảo nó phải tránh khỏi lão già mặt khó đăm đăm kia càng xa càng tốt. Nó đã phá vỡ mọi quy luật của nghĩa địa, và mọi chuyện đã trở nên tồi tệ vô cùng. Chú Silas sẽ nói gì đây? Cả ông bà Owens nữa? Nó cảm thấy mình đang bắt đầu phát hoảng, và nó cố cưỡng lại, cố đẩy cái cảm giác hoảng hốt ấy xuống tận đáy lòng. Rồi sẽ ổn cả thôi. Nó biết vậy. Nhưng tất nhiên, nó phải tìm đường thoát ra đã...
Nó xem xét kỹ căn phòng nơi mình bị nhốt. Nơi này không rộng hơn phòng chứa đồ là mấy, trong có một cái bàn. Lối ra duy nhất chính là cánh cửa kia.
Nó mở ngăn kéo bàn, nhưng không tìm thấy gì ngoài mấy hộp sơn con con (dùng để đánh bóng đồ cổ) và một cái bút lông. Nó băn khoăn không biết mình có thể hắt sơn vào mặt lão già, làm lão mờ mắt trong phút chốc, đủ lâu để nó thoát ra không. Nó mở nắp một hộp sơn và thọc ngón tay vào trong.
"Cậu đang làm gì thế?" một giọng nói vang lên ngay sát tai nó.
"Không làm gì cả," Bod nói, đóng nắp hộp sơn lại và bỏ vào cái túi áo rộng ngoác.
Liza Hempstock nhìn nó không chút xúc động. "Cậu đến đây làm gì?" cô hỏi. "Và lão già béo phị ở ngoài kia là ai?"
"Đây là cửa hàng của lão. Em muốn bán cho lão một thứ."
"Tại sao?"
"Đấy không phải việc của chị."
Cô khịt mũi. "Hừ," cô nói, "cậu nên quay về nghĩa địa mới phải!".
"Em không ra được. Lão ta nhốt em trong này rồi."
"Tất nhiên là cậu ra được chứ. Chỉ việc xuyên qua tường..."
Bod lắc đầu. "Em không làm được. Em chỉ làm được thế ở nhà vì từ lúc còn bé tí em đã được trao cho Quyền Tự do Đi lại Trong Nghĩa địa." Dưới ánh điện, nó ngước lên nhìn cô gái. Cô không hiện hình rõ ràng lắm, nhưng cả đời mình Bod đã quen nói chuyện với người chết rồi. "Với lại, chị đến đây làm gì? Tại sao chị lại ra khỏi nghĩa địa? Trời đang còn sáng mà. Chị không giống chú Silas. Chị phải ở lại trong nghĩa địa chứ."
Cô đáp, "Có những quy luật mà người được chôn trong nghĩa địa phải tuân theo, nhưng chúng chẳng có tác dụng gì với những người chôn trên khoảng đất không được ban phước. Không ai có thể ra lệnh cho tôi về chuyện tôi nên làm gì hay đi đâu” Cô đưa mắt gườm gườm về phía cánh cửa. 'Tôi không thích lão già đó," cô nói. "Để tôi đi xem lão đang âm mưu chuyện gì."
Một chớp sáng lóe lên, rồi Bod lại chỉ còn một mình trong phòng. Nó nghe thấy tiếng sấm ì ầm từ xa vẳng lại.
º º º
Giữa bóng tối chồng chất đồ đạc trong Cửa hàng Đồ cổ của Bolger, Abanazer Bolger ngước nhìn lên vẻ nghi ngờ, dám chắc có ai đó đang theo dõi mình, rồi chợt nhận ra lão đang cư xử thật ngốc nghếch. "Thằng bé đã bị nhốt trong phòng," lão tự nhủ. "Cửa trước thì đã khóa." Lão đang đánh bóng cái móc kim loại bao quanh viên xà thạch, nhẹ nhàng và cẩn thận như nhà khảo cổ học đang tiến hành một cuộc khai quật, tẩy sạch màu đen, để lộ lớp kim loại ánh bạc bên dưới.
Lão bắt đầu thấy hối hận vì đã gọi Tom Hustings đến, mặc dù Tom Hustings rất to con và hiệu quả cho việc dọa dẫm người khác. Lão cũng bắt đầu thấy tiếc là mình sẽ phải bán chiếc trâm đi sau khi mọi việc đã xong xuôi. Chiếc trâm quả là rất đặc biệt. Càng đánh bóng cho nó sáng ngời lên dưới ngọn đèn bé xíu trên quầy hàng bao nhiêu thì lão càng muốn có nó cho riêng mình bấy nhiêu, chỉ giữ nó cho bản thân lão mà thôi.
Nhưng chắc chắn sẽ còn nhiều thứ giống như thế này nữa. Thằng bé sẽ cho lão biết. Thằng bé sẽ dẫn lão đến đó..
Thằng bé ấy...
Một ý tưởng bỗng nảy ra trong đầu lão. Lão miễn cưỡng đặt chiếc trâm xuống, mở một cái ngăn kéo phía sau quầy, lấy ra một cái hộp bích quy bằng thiếc đầy phong bì, danh thiếp và những mảnh giấy nhỏ.
Lão thò tay nhặt một tấm thiếp chỉ to hơn tấm danh thiếp một chút. Tấm thiếp có viền đen. Trên đó không in tên hay địa chỉ gì. Chỉ có một cái tên được viết tay ở giữa tấm thiếp, bằng thứ mực đã ngả sang màu nâu: Jack.
Trên mặt sau tấm thiếp, Abanazer Bolger đã dùng bút chì viết lại mấy lời chỉ dẫn cho chính mình, bằng thứ chữ nhỏ li ti nhưng rõ ràng, để nhắc cho mình nhớ, mặc dù lão khó mà quên được, cách dùng tấm thiếp đó để gọi người đàn ông tên Jack đến. Không, không phải là gọi. Mời đến . Ta không thể gọi một người như ông ta đến được.
Có một tiếng gõ vang lên trên cánh cửa bên ngoài.
Bolger ném tấm thiếp xuống mặt quầy, rồi bước đến cửa, ngó ra ngoài nhìn màn mưa buổi chiều.
"Nhanh lên nào” Tom Hustings nói, "ngoài này trời tệ lắm. Không thể chịu được. Tôi ướt như chuột lột rồi dây."
Bolger mở cửa và Tom Hustings lách người vào, tóc cùng áo mưa nhỏ nước tong tong. "Có chuyện gì quan trọng đến nỗi ông không nói qua điện thoại được hả?"
Bóng bọn của Abanazer dặt lỊặằngiìmmi lì sao?"
"Vận may của chúng ta," Abanazer Bolger nói, mặt vẫn cau có. "Chính thế đấy."
Hustings cởi áo mưa ra treo lên cửa. “Cái gì thế? Có thứ gì hay ho rơi ra khỏi một cái xe tải à?"
"Báu vật” Abanazer Bolger đáp. "Hai thứ." Lão kéo tên đồng bọn đến cạnh quầy, cho xem cái trâm cài dưới ngọn đèn nhỏ xíu.
"Cổ lắm phải không?"
"Từ thời dị giáo," Abanazer nói. "Có khi trước nữa kia. Từ thời Đa Thần. Trước khi người La Mã đến đây. Nó tên là xà thạch. Tôi đã trông thấy mấy thứ giống như thế ở trong viện bảo tàng. Tôi chưa bao giờ được thấy món đồ kim hoàn nào tinh xảo đến vậy. Chắc phải là của một ông vua. Thằng bé tìm thấy cái này bảo nó tìm được ở một ngôi mộ - thử tưởng tượng xem, một cái gò chôn cất đầy những thứ như thế này."
"Nếu đem ra làm ăn hợp pháp thì có khi cũng đáng đấy," Hustings trầm ngâm nói. "Tuyên bố nó là một kho báu. Bọn họ sẽ phải trả tiền cho chúng ta theo đúng giá thị trường, và chúng ta sẽ bắt họ phải đặt tên nó theo tên chúng ta. Kho báu Hustings-Bolger."
"Bolger-Hustings," Abanazer sửa lại ngay. Rồi lão nói, "Tôi biết một số người, những người giàu có thực sự, sẽ sẵn sàng trả cao hơn giá thị trường chỉ để được cầm nó trong tay giống như ông bạn đây" - vì Tom Hus-tings đang mần mò chiếc trâm cài, dịu dàng như vuốt ve một chú mèo con "và họ sẽ chẳng thắc mắc gì hết”. Lão chìa tay ra, và Tom Husting bất đắc dĩ phải đưa trả chiếc trâm cho Lão.
"Ông bảo có hai báu vật” Hustings nói. "Thế cái kia là gì?"
Abanazer Bolger cầm tấm thiếp viền đen lên giơ ra cho tên đồng bọn xem, “Ông bạn có biết đây là cái gì không?" Đồng bọn của lão lắc đầu.
Abanazer đặt tấm thiếp xuống quầy. "Có một người, đang tìm một người khác."
"Thì sao?"
"Theo như tôi biết," Abanazer Bolger nói - "thì cái người đang được tìm kia là một thằng nhóc."
"Ở đâu mà chả có lũ nhóc," Tom Hustings nói. "Chạy lang thang khắp nơi. Gây đủ chuyện rắc rối. Tôi không chịu nổi chúng nó. Tức là có một người đang đi tìm một thằng bé cụ thể ấy à?"
"Thằng bé này vừa đúng tuổi. Quần áo của nó thì - ờ, rồi ông sẽ thấy nó ăn mặc như thế nào. Và nó lại tìm ra cái này. Có thể chính là nó."
"Nếu đúng là nó thì sao?"
Abanazer Bolger lại nhặt tấm thiếp lên, ngón tay giữ lấy hai cạnh tấm thiếp, vo vấy một cách chậm rãi, như đang hơ nó trên ngọn lửa tưởng tượng. "Này đây là một ngọn nến soi đường cho mi về giường..” lão ngâm nga.
“…. và này đây là Lão đao phủ đến lấy mạng mi,"
Tom Hustings đọc nốt câu đồng dao với vẻ suy tính. "Nhưng ông nghĩ mà xem. Nếu chúng ta gọi người tên Jack ấy đến, thì chúng ta sẽ để mất thằng bé. Và nếu chúng ta để mất thằng bé, thì chúng ta cũng mất luôn cả kho báu."
Vậy là hai lão bàn đi tính lại, suy xét được mất, xem nên báo tin về thằng bé hay đi tìm kho báu, cái kho báu mà trong đầu hai lão thì đã biến thành một cái hang khổng lồ đầy những món đồ quý giá, và trong lúc bàn bạc, Abanazer lôi từ dưới quầy hàng ra một chai mận gai ngâm rượu rồi rót ra hai cốc đầy, gọi là "để phụ thêm vào khoản ăn mừng".
Chẳng mấy chốc Liza đã thấy chán ngấy những lời bàn tán của hai lão già, chẳng có gì ngoài những câu qua lại, vòng vo như chiếc đu quay mà không đi đến đâu hết, vì vậy cô quay lại buồng kho, ở đó cô thấy Bod đang đứng giữa phòng, mắt nhắm nghiền, hai nắm tay siết chặt, mặt co rúm lại như thể đang bị đau răng, và gần như đã tím ngắt cả đi vì nhịn thở.
"Cậu đang làm gì thế?" cô tưng tửng hỏi.
Nó mở mắt ra, thở phào một cái. "Em đang cố Tàng hình," nó đáp.
Liza khịt mũi. "Thử lại xem nào," cô nói.
Nó thử lại, lần này thậm chí còn nín thở lâu hơn nữa.
"Thôi đi," cô bảo. "Không thì cậu sẽ nổ tung mất."
Bod hít một hơi thật sâu rồi thở dài. "Chẳng có tác dụng gì cả," nó nói. "Có lẽ em nên dùng một hòn đá đập vào đầu lão rồi bỏ chạy vậy!". Trong buồng không có hòn đá nào cả, vì vậy nó nhặt một cái chặn giấy bằng thủy tinh nhiều màu, nâng trong tay để ước lượng sức nặng, tự hỏi không biết nó có thể ném cục chặn giấy này đủ mạnh để ngăn Abanazer Bolger lại hay không.
"Bây giờ ở ngoài ấy có hai người rồi," Liza nói "Nếu lão này không bắt được cậu thì lão kia sẽ làm được thôi. Hai lão ấy nói là muốn cậu chỉ chỗ cậu tìm thấy cái trâm cài, và hai lão sẽ đào ngôi mộ lên để đoạt lấy kho báu” Cô không nói cho nó biết về những lời bàn cãi khác của hai lão già cũng như về tấm thiếp viền đen. Cô chỉ lắc lắc đầu. "Mà sao cậu lại làm một việc ngốc nghếch như thế này chứ? Cậu biết quy tắc về chuyện rời khỏi nghĩa địa rồi mà. Đúng là cậu chỉ muốn đâm đầu vào chỗ rắc rối thôi”
Bod cảm thấy mình thật tầm thường và đần độn, "Em muốn kiếm cho chị một tấm bia mộ," nó lí nhí thú nhận. "Và em nghĩ như thế sẽ tốn tiền. Vì vậy em muốn bán chiếc trâm cài cho lão ta, để mua cho chị một tấm bia”
Cô gái không nói gì.
"Chị có giận em không?"
Cô lắc đầu. "Đã năm trăm năm nay rồi mới có người làm một điều tử tế như thế cho tôi đấy!", cô nói, khóe miệng thấp thoáng nụ cười tinh quái quen thuộc. "Tại sao tôi lại phải giận kia chứ?" Rồi cô hỏi, "Khi muốn Tàng hình thì cậu làm thế nào?"
"Giống như thầy Pennyworth đã dạy. 'Tôi là một ô cửa trống rỗng. Tôi là một con hẻm không người, tôi không là ai cả. Mắt người thường không thể trông thấy tôi, cái nhìn của họ sẽ không dừng lại ở tôi . Nhưng chẳng có tác dụng gì cả."
"Đó là vì cậu vẫn còn sống” Liza khịt mũi nói, "Có những thứ chỉ có tác dụng với người chết như chúng tôi, chúng tôi lúc nào cũng phải cố sức để được nhìn thấy, để được chú ý, nhưng với người sống thì lại chẳng ích gì."
Cô vòng tay ôm lấy người, lắc lư tới lui như đang cân nhắc gì đó. Rồi cô nói, "Cậu đã gặp phải chuyện này vì tôi... Lại dây nào, Nobody Owens."
Nó tiến một bước về phía cô, trong căn phòng bé tẹo ấy, và cô đặt bàn tay lạnh giá trên trán nó. Nó cảm giác như có một tấm khăn lụa ướt áp lên da.
"Nào” cô nói. "Có lẽ tôi có thể giúp lại cậu”
Nói đoạn, cô khẽ lầm rầm đọc mấy câu gì đó mà Bod không nghe ra được. Rồi cô lên tiếng, thật to và rõ ràng,
"Hãy biến thành lỗ hổng, thành cát bụi, thành giấc mộng, thành làn gió.
Hãy biến thành bóng tối, thành màn đêm, thành điều ướ c , thành ý nghĩ.
Hãy biến đi, biến mất, chẳng ai trông thấy.
Bên trên, phía dưới, ở giữa, ở bên.. ”
Có một vật khổng lồ gì đó chạm vào Bod, bao phủ từ đầu đến chân làm nó rùng mình. Tóc nó dựng đứng lên, người nó nổi da gà. Có điều gì đó vừa thay đổi. "Chị đã làm gì thế?" nó hỏi.
"Chỉ giúp cậu một chút thôi” cô nói. 'Tôi đã chết rồi, nhưng hãy nhớ, tôi là một phù thủy. Và phù thủy chúng tôi thì không bao giờ quên”
"Nhưng mà..”
"Suỵt," cô nói. "Hai lão già đang quay lại đấy."
Chiếc chìa khóa kêu lách cách trong ổ. "Được rồi, chú nhóc” một giọng nói mà lúc trước Bod chưa nghe rõ vang lên, "ta dám chắc chúng ta có thể trở thành bạn tốt," rồi Tom Hustings đẩy cánh cửa mở ra. Lão đứng ở ngưỡng cửa nhìn quanh một cách bối rối. Lão là người to cao, to cao vô cùng, với mái tóc đỏ như lông cáo và cái mũi đỏ của người nghiện rượu. "Này. Abanazer? Tôi tưởng ông bảo thằng bé ở trong này?"
"Thì đúng thế," Bolger lên tiếng từ phía sau.
"Tôi chẳng thấy dấu vết gì của nó sất”
Bộ mặt của Bolger xuất hiện đằng sau khuôn mặt đỏ phừng phừng của Hustings, và nhòm vào trong buồng. "Đang trốn à," lão nói, nhìn thẳng vào chỗ Bod đang đứng. "Có trốn cũng chẳng ích gì đâu” lão nói to. "Ta trông thấy chú mày rồi. Ra đi thôi."
Hai lão già tiến vào căn phòng nhỏ, và Bod đứng im phăng phắc ở giữa, trong bụng nhớ kỹ bài học của thầy Pennyworth. Nó không hề phản ứng hay cử động. Nó để cho cái nhìn của hai lão già lướt qua mà không thấy nó.
"Rồi chú mày sẽ phải ước là chú mày đã chui ra khi ta gọi," Bolger nói, rồi lão đóng cửa lại. "Được rồi” lão bảo với Tom Hustings. "Ra đứng chắn ở cửa kia, không cho nó chạy thoát". Và lão đi quanh phòng, tìm kiếm đằng sau các đống đồ, khó nhọc cúi người xuống để nhòm vào gầm bàn. Lão đi ngay qua chỗ Bod để mở tủ. "Giờ thì ta trông thấy chú mày rồi!" lão hét lên "Chui ra đi!"
Liza cười khúc khích.
"Cái gì thế?" Tom Hustings quay ngoắt lại hỏi.
"Tôi chẳng nghe thấy gì hết” Abanazer Bolger nói.
Liza lại bật cười. Rồi cô chụm môi thổi một cái, phát ra một âm thanh mới nghe thì như tiếng huýt sáo, rồi chuyển thành một tiếng gió hú xa xăm. Những bóng đèn điện trong căn buồng nhỏ chập chờn, kêu lên xì xì rồi tắt ngóm.
"Cái cầu chì chết tiệt," Abanazer Bolger nói. "Đi thôi. Thật là mất thời gian."
Chiếc chìa khóa lại kêu đánh tách trong ổ, và Liza cùng Bod chỉ còn lại một mình trong phòng.
º º º
"Nó chạy trốn mất rồi," Abanazer Bolger nói. Giờ thì Bod có thể nghe thấy tiếng lão vọng qua cánh cửa. "Cán phòng kín như thế. Nó không thể trốn vào đâu được. Nếu nó đang trốn trong đó thì chúng ta đã trông thấy rồi."
"Cái người tên Jack ấy sẽ không hài lòng đâu."
"Ai sẽ nói cho ông ta biết chứ?"
Im lặng một thoáng.
"Này. Tom Hustings. Cái trâm biến đi đâu rồi?"
"Hử? Cái trâm ấy à? Ở đây. Tôi để nó vào đây cho an toàn."
"Cho an toàn ư? Trong túi ông bạn sao? Chỗ an toàn gớm nhỉ, Ông bạn đang định đem nó chuồn khỏi đây thì có - ông định giành cái trâm của tôi cho riêng mình thì có. " ''Cái trâm của ông ấy à, Abanazer? Cái trâm của ông ấy à? Ý ông định nói là cái trâm của chúng ta chứ gì." "Của chúng ta, còn khướt ấy. Ông có ở đây lúc thằng bé đem nó đến cho tôi đâu”
"Cái thằng bé mà ông thậm chí còn chẳng giữ nổi cho người tên Jack kia chứ gì? Ông có tưởng tượng nổi là ông ta sẽ làm gì khi phái hiện ra ông đã nắm được thằng bé mà ông ta đang tìm, rồi chính ông lại để cho nó chạy thoát không?"
"Chắc gì nó đã là thằng bé đó. Trên đời còn khối thằng bé khác, ai biết được đây có phải thằng bé ông ta đang tìm hay không? Chắc hẳn nó đã chạy ra cửa sau khi tôi không để ý." Rồi Abanazer Bolger cao giọng dỗ dành, "Ông bạn đừng lo về người tên Jack ấy, Tom Hus-tings ạ. Tôi dám chắc đó là thằng bé khác. Cái đầu lẫn cẫn của tôi đã nhầm lẫn cả. Mà chúng ta đã gần hết rượu mạnh rồi ông có thích làm một chầu rượu Scot không? Tôi có một chai whisky ở phòng trong đấy. Ông bạn cứ ngồi đây đợi một lát."
Cửa buồng kho lại mở ra, và Abanazer bước vào, tay cầm cây gậy cùng chiếc đèn pin, mặt mũi trông càng nhăn nhúm hơn bao hết.
"Nếu mày vẫn còn ở trong này, lão thì thào giọng ghê gớm "thì đừng có mơ tưởng đến chuyện chạy trốn, ta đã gọi cảnh sát đến bắt mày rồi đấy”. Lão lục trong ngăn kéo lấy ra chai whisky chỉ còn một nửa, cùng với một cái lọ con màu đen. Abanazer đổ mấy giọt nước từ trong cái lọ nhỏ vào chai, rồi để lọ vào túi. "Đó là cái trâm của ta, chỉ là của ta thôi", lão lầm bầm, rồi nói to, "Tôi ra đây, Tom!"
Lão trừng mắt nhìn quanh căn phòng tối mò, nhìn thẳng qua chỗ Bod, rồi lão đi ra, mang theo chai whlnky. Lão khóa cửa lại sau lưng.
"Đây, xin mời," giọng nói của Abanazer Bolger vang lên qua cánh cửa. "Đưa cốc đây nào,