Chương 5 VŨ HỘI TỬ THẦN
CÓ ĐIỀU GÌ ĐÓ ĐANG XẢY RA, Bod dám chắc như vậy. Nó có thể cảm nhận được điều đó trong bầu không khí khô lạnh của mùa đông, trong ánh sao, trong làn gió, trong bóng tối. Nó có thể cảm nhận được điều đó trong nhip điệu của những đêm dài ngày ngắn.
Bà Owens đẩy nó ra khỏi ngôi mộ nhỏ của gia đình Owens. "Con ra ngoài chơi đi," bà nói. "Mẹ đang bận."
Bod trố mắt nhìn mẹ. "Nhưng ở ngoài lạnh lắm ạ," nó nói.
"Thì phải lạnh chứ," mẹ nó nói, "đang mùa đông mà. Trời phải lạnh mới dúng. Được rồi," bà nói tiếp, với chính mình hơn là với Bod, "giày này. Còn cái váy - phải lên gấu mới được. Lại còn mạng nhện nữa - sao mà ở đâu cũng thấy mạng nhện thế này. Con ra ngoài đi," bà lại bảo Bod. "Mẹ bận lắm, con ở trong này chỉ tổ vướng thôi."
Rồi bà lẩm nhẩm hát mấy câu thơ mà Bod chưa từng nghe bao giờ.
" Người giàu cùng người nghèo, hãy đến đây
- Đến đây dự Vũ hội Tử thần”
"Cái gì vậy ạ?" Bod hỏi, nhưng hỏi thế thì thật là sai lầm, bởi vì bà Owens sầm mặt lại như một đám mấy dông, và Bod vội vã chạy ra khỏi mộ trước khi bà có thể biểu lộ sự bực dọc của mình một cách mạnh mẽ hơn.
Trong nghĩa địa vừa lạnh vừa tối, và sao đã mọc. Bod đi qua chỗ Má Slaughter trên Đường Ai Cập phủ đầy dây thường xuân. Má đang nheo mắt ngắm bụi cây xanh.
"Mắt của cháu tinh hơn mắt ta, chàng trai ạ," má nói. "Cháu có nhìn thấy bông hoa nào không?"
"Hoa ạ? Hoa vào mùa đông ạ?"
"Đừng có nhìn ta với vẻ mặt như thế chứ, chàng trai," má nói. "Mùa nào cũng có thứ nở hoa. Chúng kết nụ rồi nở hoa, nở rồi lại tàn. Mọi vật đều có thời của mình." Má kéo chiếc áo choàng và mũ che người cho kín hơn, rồi má nói, " Có lúc phải làm việc, có lúc phải chơi. Có lúc phải dự Vũ hội Tử thần . Phải không, chú nhóc?"
"Cháu không biết” Bod nói. "Vũ hội Tử thần là gì ạ?"
Nhưng Má Slaughter đã lại chui vào đám thường xuân và biến mất.
"Lạ thật” Bod nói thành tiếng. Nó đến chỗ lăng của dòng họ Bartleby hòng tìm hơi ấm và bạn bè, nhưng đêm đó, gia đình Bartleby - bảy thế hệ cả thảy - cũng không có thời gian dành cho nó. Họ đang bận bịu lau chùi, dọn dẹp, tất cả bọn họ, từ người già nhất (mất năm 1690) cho đến người trẻ nhất (mất năm 1831). Fortinbras Bartleby, mất năm lên mười (vì bị lao ăn phổi, nó đã bảo với Bod thế, và suốt mấy năm liền Bod cứ tưởng Fortinbras bị một con gấu hay sư tử gì đó ăn thịt, và đã thất vọng vô cùng khi phát hiện ra rằng đó chỉ là một căn bệnh), giờ đang xin lỗi Bod.
"Hôm nay bọn tớ không chơi được, Bod ạ. Bởi vì chẳng mấy chốc nữa, đêm mai sẽ tới. Và người ta có thể nói như vậy bao nhiêu lần trong đời?"
"Đêm nào mà chẳng nói thế được," Bod nói. "Đêm mai luôn luôn đến mà."
"Nhưng không phải là một đêm như thế này," Fortinbras nói. "Một đêm như thế này phải năm thì mười họa mới xuất hiện, nó đã không đến từ lâu lắm rồi!".
"Mai không phải Đêm Guy Fawkes" Bod nói, "cũng không phải Lễ Các Thánh. Cũng không phải Giáng sinh, hay đêm Giao thừa." ( Đêm mồng 5 tháng Mười một, ở London có lễ bắn pháo hoa kỷ niệm ngày Guy Fawkes âm mưu làm nổ tung nhà Quốc Hội (vào năm 1605 ). ( Lễ Các Thánh (Halloween), còn gọi là Lễ Ma Quỷ, tổ chức vào ngày 31 tháng Mười. Vào ngày này trẻ em thường mặc quần áo giả trang, đi đến các nhà xin bánh kẹo ) .
Fortinbras mỉm cười, một nụ cười tươi tắn làm khuôn mặt tròn trịa, lấm tấm tàn nhang của nó bừng lên vui sướng.
"Không phải là đêm nào trong những đêm ấy," nó nói. "Cái đêm này đặc biệt hơn nhiều."
"Nó gọi là gì?" Bod hỏi. "Ngày mai sẽ có chuyện gì xảy ra?"
"Đó là ngày tuyệt vời nhất trên đời” Fortinbras nói, và Bod dám chắc thằng bé sẽ kể tiếp cho nó nghe, nhưng bà nội của Fortinbras, Louisa Bartleby (mới có hai mươi tuổi) đã gọi nó lại và thì thầm gì đó khá gay gắt vào tai nó.
"Không có gì ạ," Fortinbras đáp. Rồi nó quay sang phía Bod nói, "Xin lỗi nhé. Giờ tớ phải làm việc rồi." Nó cầm lấy một cái giẻ và đánh bóng cỗ quan tài bụi bặm của mình. "La, la, la, um," nó vừa làm vừa hát. "La la la, um” Và với mỗi tiếng "um," nó lại vung cái giẻ lên, cả người xoay tít một vòng.
"Cậu không hát bài kia à?"
"Bài nào cơ?"
"Bài hát mà mọi người đều hát ấy."
"Giờ thì chưa phải lúc” Fortinbras đáp. "Phải đến ngày mai, phải đợi đến ngày mai kia."
"Không còn thời gian nữa đâu” Louisa nói, cô đã mất khi sinh hạ hai đứa con sinh đôi. "Lo việc của mình đi."
Và bằng chất giọng trong trẻo, êm ái của mình, cô hát,
"Mọi nguời hãy cùng nghe, cùng ở lại đây. Đến đây dự Vũ hội Tử thần."
Bod đi xuống ngôi nhà thờ nhỏ đổ nát. Nó trèo qua những phiến đá để xuống hầm mộ, ngồi đó đợi chú Silas quay về. Đúng là nó thấy lạnh, nhưng cái lạnh không làm Bod bận tâm là bao: khu nghĩa địa bao bọc lấy nó và người chết thì không quan tâm đến cái lạnh.
Người bảo trợ của nó quay về lúc gần sáng, đem theo một cái túi ni lổng to.
"Trong đấy có gì thế ạ?"
"Quần áo. Cho cháu đấy. Cháu mặc thử xem." Chú Silas lấy ra một cái áo nỉ màu xám giống như màu tấm vải liệm của Bod, một chiếc quần bò, đồ lót, và cả giày nữa - một đôi giày vải màu xanh nhạt.
"Chúng để làm gì ạ?"
"Ý cháu là ngoài việc để mặc hả? Ờ, trước tiên, là cháu đã đủ lớn rồi - cháu lên mấy rồi nhỉ, mười à? - và tốt hơn hết là cháu nên mặc quần áo bình thường như người sống. Một ngày kia cháu sẽ phải mặc chúng, vì vậy tại sao không bắt đầu luôn từ bây giờ cho quen đi? Hơn nữa, chúng có thể giúp cháu ngụy trang."
"Ngụy trang nghĩa là gì ạ?"
"Là khi một thứ trông giống thứ khác đến nỗi người nhìn không biết là mình đang nhìn thấy cái gì."
"Ồ. Cháu nghĩ là cháu hiểu rồi." Bod mặc quần áo vào. Nó gặp chút phiền toái với hai sợi dây giày, và chú Silas phải dạy nó cách buộc dây. Bod thấy cách thắt dây giày thật là rắc rối vô cùng, nó phải tháo ra buộc lại mấy lần thì chú Silas mới bằng lòng. Và cũng đến lúc đó thì Bod mới dám thốt lên câu hỏi của mình.
"Chứ Silas ơi. Vũ hội Tử thần là gì ạ?"
Chú Silas nhướn mày lên và nghiêng đầu sang một bên. "Cháu nghe nói về nó ở đâu?"
"Mọi người trong nghĩa địa đều nói về nó. Cháu nghĩ đó là một sự kiện sẽ d.iễn ra vào tối mai. Vũ hội Tử thần là gì ạ?"
"Nó là một buổi lễ nơi người ta khiêu vũ, nhảy múa” chú Silas trả lời.
" Tất cả đều phải nhảy điệu vũ Tử thần ” Bod nhớ lại và nói. "Chú đã tham dự buổi lễ đó bao giờ chưa ạ? Nó là vũ hội kiểu gì ạ?"
Người bảo trợ nhìn nó bằng cặp mắt như hai hồ nước đen thẳm và đáp, "Chú không biết. Chú biết rất nhiều điều, Bod ạ, bởi vì chú đã đi lại trên thế gian này vào ban đêm từ rất lâu rồi, nhưng chú không biết Vũ hội Tử thần như thế nào. Để tham dự nó ta phải là người đã chết hoặc người còn sống - và chú thì không thuộc loại người nào trong số đó."
Bod rùng mình. Nó muốn ôm lấy người bảo trợ của mình, ôm lấy chú và nói nó sẽ không bao giờ bỏ mặc chú, nhưng đó là một điều không thể làm được. Tìm cách ôm lấy chú Silas cũng sẽ giống như tìm cách ôm lấy ánh trăng vậy, không phải vì chú không có hình hài rõ rệt, mà bởi vì đó là một việc làm sai trái. Có những người mà ta có thể ôm ấp, nhưng lại có những người như chú Silas.
Người bảo trợ của Bod trầm ngâm ngắm nhìn thằng bé trong bộ quần áo mới. "Trông được lắm” chú nói. "Giờ thì trông như thể cháu đã sống cả đời ở bên ngoài nghĩa địa vậy."
Bod mỉm cười tự hào. Rồi nụ cười biến mất và nó lại tỏ ra nghiêm trang. Nó nói, "Nhưng chú sẽ luôn có mặt ở đây, phải không, chú Silas? Và nếu cháu không muốn thì cháu sẽ không bao giờ phải đi khỏi đây chứ ạ?"
"Mọi việc đều có thời điểm của nó," chú Silas đáp, và đêm đó chú không nói gì thêm nữa.
º º º
Hôm sau Bod dậy sớm, khi mặt trời vẫn còn là một đồng xu bằng bạc cao tít trên bầu trời mùa đông xám xịt. Nó hoàn toàn có thể nằm ngủ suốt ngày và trải qua cả mùa đông trong đêm tối, không bao giờ nhìn thấy mặt trời, vì vậy đêm đêm trước khi đi ngủ nó thường tự hứa là sẽ thức dậy vào lúc mặt trời vẫn còn đang chiếu sáng và rời khỏi ngôi mộ ấm cúng của gia đình Owens.
Trong không khí có một mùi hương kỳ lạ, ngọt ngào như mùi hoa. Bod bám theo mùi hương ấy lên đồi, đến Đường Ai Cập, nơi những dây thường xuân mùa đông rủ xuống thành từng chùm tạo thành một mảng cây xanh rậm rạp che phủ những bức tường có khắc chữ tượng hình và các tượng giả Ai Cập.
Mùi hương ở đây đậm hơn cả, và trong một thoáng, Bod tự hỏi không biết có phải tuyết đã rơi hay không, bởi vì trên tán lá xanh đã xuất hiện những cụm màu trắng. Bod ngắm kỹ một cụm trắng ấy. Hóa ra đó là một chùm gồm những bông hoa nhỏ năm cánh, và Bod vừa cúi xuống để hít đầy lồng ngực mùi thơm của những bông hoa thì nghe có tiếng chân người đi lên đồi.
Bod liền tàng hình vào giữa đám thường xuân để quan sát. Ba người đàn ông cùng một phụ nữ, đều còn sống, bước lên con đường, tiến vào Đường Ai Cập. Người phụ nữ đeo trên cổ một sợi dây chuyền cầu kỳ.
"Chính là nó đây à?" bà hỏi.
"Vâng, thưa bà Caraway” một trong ba người đàn ông đáp - người này có dáng mập mạp, tóc trắng xóa, hơi thở hổn hển. Cũng giống như hai người kia, ông ta mang theo một chiếc giỏ lớn trống không, đan bằng cành liễu.
Người phụ nữ tỏ ra bối rối không hiểu. "Thôi được, nếu các vị nói vậy," bà nói. "Nhưng thú thật là tôi chẳng hiểu gì cả." Bà nhìn những chùm hoa. "Bây giờ thì tôi phải làm gì?"
Người nhỏ thó nhất trong số ba người đàn ông lấy từ trong giỏ của mình ra một chiếc kéo bạc đã xỉn màu. "Kéo đây, thưa bà Thị trưởng," ông ta nói.
Ngưởi phụ nữ đón lấy chiếc kéo cắt những chùm hoa, rồi cùng với ba người đàn ông, bà đặt hoa vào trong giỏ.
"Thât nực cười hết sức," Thị trưởng, bà Caraway lên tiếng sau một hồi lâu.
"Đây là truyền thống," ông béo nói.
"Nực cười hết sức” bà Caraway nói, nhưng vẫn tiếp tục cắt những chùm hoa trắng và bỏ chúng vào trong giỏ. Khi chiếc giỏ đầu tiên đã đầy, bà hỏi, "Thế đã đủ chưa?"
"Chúng ta phải cắt đầy bốn giỏ hoa," người nhỏ con nói, "rồi phân phát hoa cho tất cả mọi người trong khu Phố Cổ."
"Truyền thống gì mà lạ đời thế?" bà Caraway hỏi.
"Tôi đã hỏi ngài Thị trưởng tiền nhiệm của tôi và ông ấy nói ông ấy chưa bao giờ nghe nói đến chuyện này cả." Rồi bà bỗng nói, "Các vị có cảm giác rằng chúng ta đang bị theo dõi không?"
"Gì kia?" người thứ ba hỏi, từ nãy đến giờ ông ta chưa hề lên tiếng. Ông ta có chòm râu rậm, đầu quấn khăn xếp, và xách theo hai chiếc giỏ. "Ý bà là ma ấy à? Tôi không tin là có ma đâu."
"Không phải ma” bà Caraway đáp. "Chỉ là cảm giác như có người đang nhìn chúng ta thôi."
Bod cố cưỡng lại cái mong muốn được chúi sâu hơn vào giữa đám thường xuân.
"Việc ngài Thị trưởng tiền nhiệm không biết về truyền thống này cũng không có gì lạ," người to béo nói, chiếc giỏ của ông ta đã gần đầy. "Đã tám mươi năm rồi, đây là lần đầu tiên những bông hoa mùa đông nở."
Người đàn ông có chòm râu và chiếc khăn xếp, người không tin có ma, lo lắng nhìn xung quanh.
"Mỗi người trong khu Phố cổ được phát cho một chùm hoa," người nhỏ thó nói. "Đàn ông, phụ nữ và trẻ con." Rồi ông ta chậm rãi đọc, như thể đang cố nhớ lại một điều mình đã được học cách đây lâu lắm, " Một người đi, một ng ư ời ở lại, mọi người đều đến dự Vũ hội Tử thần,"
Bà Caraway khịt mũi. "Toàn chuyện vớ vẩn” bà nói, tay vẫn không ngừng cắt hoa.
Chiều hôm đó bóng tối buông xuống sớm, và đến bốn giờ rưỡi thì trời đã tối hẳn. Bod lang thang trong nghĩa địa tìm người trò chuyện, nhưng xung quanh chẳng có ai. Nó đi xuống khu Nghĩa địa Bần cùng tìm Liza Hempstock, nhưng ở đó cũng chẳng có ai hết. Nó quay về mộ của gia đình Owens và thấy ngôi mộ cũng trống rỗng, chẳng thấy bố mẹ nó ở đâu cả.
Nó bắt đầu hốt hoảng, một nỗi hốt hoảng ở cấp độ thấp. Đó là lần đầu tiên trong mười năm của đời mình Bod cảm thấy bị bỏ mặc ở cái nơi nó luôn coi là nhà mình: nó liền chạy xuống ngôi nhà thờ nhỏ ở chân đồi đợi chú Silas.
Chú Silas không xuất hiện.
"Có lẽ chú ấy đã đi trước khi mình đến", Bod tự nhủ, nhưng nó không tin như vậy. Nó lên đỉnh nhà thờ nhìn xuống. Những ngôi sao tỏa sáng trên bầu trời. Se lạnh, còn trải dài dưới chân nó là những dải ánh đèn của thành phố, đèn đường, đèn pha xe cộ và tất cả những thứ đang chuyển động. Nó chậm rãi xuống đồi đến tận cổng chính của nghĩa địa, và đứng lại đó.
Nó nghe thấy tiếng nhạc.
Bod đã được nghe đủ loại nhạc: tiếng nhạc leng keng vui tai của xe bán kem, bài hát trên đài của công nhân, cả các khúc nhạc mà Claretty Jake chơi cho người dân nghĩa địa nghe bằng cây vĩ cầm bụi bặm của anh ta, nhưng nó chưa bao giờ được nghe tiếng nhạc nào giống như thế này: một loạt những khúc nhạc trầm trầm mạnh dần lên, như đoạn nhạc mở đầu một cái gì đó, một đoạn dạo đầu, một khúc nhạc mở màn.
Nó chui qua cánh cổng khóa chặt, đi xuống chân đồi, tiến vào khu Phố cổ.
Nó đi ngang qua bà Thị trưởng đang đứng ở góc phố, nhìn bà ghim một bông hoa trắng nhỏ lên ve áo một thương gia vừa đi qua.
"Tôi không đích thân tặng tiền cho các hội từ thiện đâu” người ấy nói. "Tôi để việc đó cho văn phòng của tôi."
"Đây không phải từ thiện” bà Caraway trả lời. "Đây là truyền thống của vùng này."
"Ra thế” ông ta nói, ưỡn ngực ra để khoe với toàn thế giới bông hoa nhỏ trắng muốt rồi kiêu hãnh bước đi.
Người tiếp theo tiến đến là một phụ nữ đang đẩy xe nôi.
"Cái này để làm gì?" chị ta nghi ngờ hỏi khi bà Thị trưởng lại gần.
"Một bông cho chị, một bông cho em bé," bà Thị trưởng nói.
Bà ghim bông hoa lên áo khoác của người phụ nữ. Bà dùng băng dính đính bông hoa lên áo đứa bé.
"Nhưng là để cho cái gì?" người phụ nữ hỏi.
"Đây là một nghi thức của khu Phố cổ," bà Thị trưởng giải thích đại khái. "Một truyền thống”
Bod đi tiếp. Đâu đâu nó cũng thấy trên áo mọi người có ghim hoa trắng. Ở các góc phố khác, nó đi qua mấy người đàn ông đã đi cùng bà Thị trưởng, mỗi người đều xách một chiếc giỏ và đang phân phát hoa cho người qua đường. Không phải ai cũng nhận, nhưng phần lớn bọn họ đều cầm lấy một bông.
Tiếng nhạc vẫn đang vang lên: ở đâu đó, bên rìa nhận thức, trang nghiêm và kỳ lạ. Bod nghiêng đầu sang một bên, cố đoán xem tiếng nhạc từ đâu đến, nhưng không đoán nổi. Tiếng nhạc tràn ngập không gian, tràn ngập khắp nơi nơi. Tiếng nhạc phát ra từ những lá cờ và vải bạt trên mái hiên đang lật phật trong gió, phát ra từ tiếng xe cộ ầm ì ở phía xa, phát ra từ tiếng chân người bước đi trên đá lát đường khô hanh...
Và khi ngắm mọi người đang vội vã quay về nhà, Bod nhận thấy một điều kỳ lạ. Họ đang bước theo nhịp nhạc.
Người đàn ông có râu, đầu đội khăp xếp đã gần hết hoa trong giỏ. Bod bước đến chỗ ông ta.
"Xin lỗi ông," Bod nói.
Ông ta giật nảy người. "Ta không trông thấy cháu," ông nói, vẻ trách cứ.
"Cháu xin lỗi” Bod nói. "Cháu xin một bông được không ạ?"
Người đàn ông đội khăn xếp liếc nhìn Bod vẻ nghi ngờ. "Cháu sống gần đây à?" ông ta hỏi.
"Ồ, vâng ạ," Bod đáp.
Ông ta liền đưa cho Bod một bông hoa. Bod cầm lấy bông hoa, kêu lên "Ui da," khi bị cái gì đó đâm vào ngón tay cái.
"Cháu phải ghim nó lên áo," người đàn ông nói.
"Cẩn thận với cái ghim đấy”
Một giọt máu đỏ thấm rỉ ra trên ngón tay cái của Bod. Nó mút vết thương trong lúc người đàn ông ghim bông hoa lên chiếc áo nỉ của nó. "Tôi chưa bao giờ trông thấy cháu ở quanh đây” ông ta bảo Bod.
"Cháu sống ở đây mà” Bod nói. "Những bông hoa này để làm gì ạ?"
"Đó là truyền thống của khu Phố cổ," người đàn ông đáp, "trước khi thành phố được dựng lên xung quanh nó. Khi những bông hoa mùa đông nở trong khu nghĩa địa trên đồi thì chúng sẽ được hái và phân phát cho tất cả mọi người, đàn ông cũng như đàn bà, trẻ cũng như già, giàu cũng như nghèo."
Tiếng nhạc vang lên to hơn. Bod không biết có phải nó nghe thấy tiếng nhạc rõ hơn là vì nó đang mang bông hoa trên áo hay không - nó có thể nghe thấy một nhịp điệu tựa như một tiếng trống xa xăm, và một giai điệu ngập ngừng, vang vọng khiến nó chỉ muốn nhấc chân lên giậm theo nhịp nhạc.
Bod chưa bao giờ đi đến một nơi chỉ để ngắm nghía cảnh vật. Nó quên bẵng mất cái luật cấm nó rời khỏi nghĩa địa, quên bẵng rằng đêm nay, trong khu nghĩa địa ở trên đồi cũng chẳng còn cư dân nào nữa; nó chỉ nghĩ đến khu Phố cổ; và nó dạo bước qua đó, tiến về phía công viên thành phố nằm trước tòa thị chính Phố cổ (bây giờ được dùng làm viện bảo tàng và trung tâm thông tin dành cho khách du lịch còn tòa thị chính thì đã được chuyến đến một tòa nhà lớn hơn, mới hơn, nhưng cũng nhàm chán hơn, ở đầu bên kia thành phố).
Cũng có khá nhiều người đang đi dạo trong công viên - giờ đang là giữa mùa đông nên trong công viên chẳng có gì ngoài một bãi cỏ rộng, đây đó rải rác mấy bậc thang, một bụi cây hoặc bức tượng.
Bod say mê lắng nghe tiếng nhạc. Mọi người đang lục tục đổ vào quảng trường từng đợt một. Nó chưa bao giờ cùng lúc thấy nhiều người sống đến thế. Hẳn phải có đến hàng trăm người, tất cả đều đang hít thở, người nào cũng còn sống y như nó, người nào cũng gài trên áo một bông hoa trắng.
Đây có phải những việc người sống thường làm không? Bod tự hỏi, nhưng nó biết rằng không phải: nó biết rằng việc này, cho dù là việc gì đi chăng nữa, cũng hết sức đặc biệt.
Người phụ nữ đẩy xe nôi mà nó trông thấy lúc trước giờ đến đứng bên cạnh nó, bế đứa con trên tay, đầu lắc lư theo tiếng nhạc.
"Nhạc chơi được bao lâu rồi ạ?" Bod hỏi, nhưng chị ta không đáp lại mà chỉ tiếp tục lắc lư người và mỉm cười. Bod nghĩ rằng bình thường chị ta không hay mỉm cười cho lắm. Và khi nó dám chắc rằng chị ta đã không nghe thấy câu hỏi của nó, rằng nó đã tàng hình, hoặc chỉ đơn giản là chị ta không chú ý nên chẳng nghe được lời nó, thì chị ta bỗng thốt lên, "Trời đất ơi. Cứ như Giáng sinh ấy." Chị ta nói như trong mơ, như đang ngắm nhìn bản thân mình từ bên ngoài. Rồi cũng bằng cái giọng mơ màng ấy, chị ta tiếp "Nó làm tôi nhớ đến bà dì Clara, em gái bà ngoại tôi. Sau khi bà tôi mất vào đêm trước lễ Giáng sinh chúng tôi thường dến chơi nhà dì, và dì chơi đàn trên cây piano cũ, có khi còn hát nữa, và chúng tôi ăn sô cô la với hạt dẻ, nhưng tôi không nhớ nổi một bài nào dì đã hát. Nhưng tiếng nhạc này, nghe như tất cả những bài hát ấy đang vang lên cùng một lúc vậy."
Đứa bé ngả đầu lên vai chị ta như đang ngủ, nhưng ngay cả bàn tay của bé cũng khẽ đu đưa theo tiếng nhạc.
Rồi tiếng nhạc dừng lại và sự im lặng bao trùm khắp quảng trường, một sự im lặng bóp nghẹt mọi tiếng động, như cái im lặng lúc trời đổ tuyết, tất cả các âm thanh khác đều chìm vào bóng tối, như bị nuốt chửng bởi những thân hình trên quảng trường, không một ai giậm chân hay nhúc nhích, thậm chí gần như không dám thở.
Đâu đó gần bên có tiếng đồng hồ đổ chuông: mười hai tiếng chuông báo hiệu nửa đêm, và rồi họ xuất hiện.
Họ đi xuống từ trên đồi thành một đoàn điễu hành chậm rãi, tất cả đều bước nghiêm trang, mỗi hàng có năm người, chen kín con đường. Bod biết họ, hay ít ra cũng là phần lớn bọn họ. Ở hàng đầu tiên, nó nhận ra Má Slaughter, Nam tước Josiah Worthington, ông bá tước già đã bị thương trong cuộc Thập Tự Chinh rồi qua đời ngay khi quay về nhà, cùng với bác sĩ Trefu- sis, tất cả bọn họ trông đều vô cùng nghiêm nghị và trang trọng.
Trong đám người đứng trên quảng trường có những tiếng kêu hoảng hốt. Một người òa khóc và nói, "Cầu Chúa phù hộ cho chúng ta, ngày phán quyết đến rồi!" Nhưng phần lớn bọn họ chỉ đứng trố mắt nhìn, không hề ngạc nhiên, như thể đây chỉ là một giấc mơ.
Đoàn người chết vẫn tiến bước theo từng hàng một, cho tới khi xuống đến quảng trường.
Nam Tước Josiah Worthington bước lên bậc thang, đến trước mặt bà Thị trưởng Caraway. Ngài chìa tay ra và nói thật to cho toàn thể quảng trường nghe thấy, "Thưa quý bà, xin mời bà hãy cùng tôi tham dự Vũ hội Tử thần."
Bà Caraway ngần ngừ. Bà ngước nhìn người đàn ông đứng cạnh mình như để hỏi ý kiến: ông ta mặc đồ ngủ, chân đi dép lê, khoác chiếc áo choàng trong nhà với bông hoa trắng ghim trên ve áo. Ông ta mỉm cười gật đầu với bà Caraway. "Tất nhiên rồi," bà Caraway đáp.
Bà chìa tay ra. Khi ngón tay bà chạm vào tay ngài Josiah Worthington, tiếng nhạc lại vang lên. Nếu như khúc nhạc Bod nghe thấy lúc trước là đoạn dạo đầu, thì giờ không còn đoạn dạo đầu nữa. Đây là bản nhạc mà tất cả bọn họ đã đến đây để nghe, một giai điệu làm chân tay họ ngứa ngáy muốn nhảy theo.
Họ nắm tay nhau, người sống cùng với người chết, và họ bắt đầu nhảy. Bod trông thấy Má Slaughter nhảy với người đàn ông đội khăn xếp, còn ông thương gia nọ thì nhảy với Louisa Bartleby. Bà Owens mỉm cười với Bod rồi nắm tay ông cụ bán báo, còn ông Owens thì đưa tay về phía một cô bé con, không có vẻ hạ cố chút nào, và cô bé cầm lấy tay ông tựa hồ đã chờ đợi cả đời để được khiêu vũ cùng ông. Rồi Bod không nhìn ngó gì nữa, vì có một người vừa nắm lấy tay nó, và buổi khiêu vũ bắt đầu.
Liza Hempstock toét miệng cười với nó. "Thích thật” cô nói, trong khi họ dạo những bước nhảy đầu tiên.
Rồi cô cất tiếng hát theo bản nhạc khiêu vũ.
"Bước lên, xoay nguời, đi tới, dừng lại Hãy cùng nhau nhảy điệu vũ Tử thần”
Tiếng nhạc khiến tâm trí và trong lồng ngực Bod tràn ngập một niềm vui sướng vô ngần, chân nó bước đi như thể nó đã biết rõ điệu nhảy này, biết tự thuở xa xưa vậy.
Nó khiêu vũ cùng Liza Hempstock, và rồi, khi bản nhạc đó kết thúc, nó thấy Protinbras Bartleby nắm lấy tay mình, vậy là nó lại nhảy với Protinbras, lướt qua những hàng người cũng đang say sư khiêu vũ, họ rẽ ra hai bên cho chúng đi qua.
Bod trông thấy Abanazer Bolger khiêu vũ cùng cô Borrows, cô giáo cũ của nó. Nó trông thấy người sống khiêu vũ cùng người chết. Và những điệu nhảy hai người một dần dần chuyến thành những hàng người dài cùng nhau đều bước, cứ sau vài bước lại đá chân lên một cái (La-la-la-u m ! La-la-la-u m! ) một điệu nhảy hàng một tập thể, một điệu nhảy cổ xưa từ hàng ngàn năm trước.
Giờ thì Bod lại đứng cạnh Liza Hempstock. Nó hỏi:
"Tiếng nhạc phát ra từ đâu thế?"
Cô chỉ nhún vai.
"Ai đã tổ chức buổi khiêu vũ này?"
"Buổi khiêu vũ luôn luôn diễn ra," cô bảo nó. "Người sống có thể không nhớ, nhưng chúng tôi thì luôn nhớ..” Rồi cô tự ngắt lời, đầy phấn khích. "Nhìn kìa!" Trước kia Bod chưa bao giờ được trông thấy một con ngựa bằng xương bằng thịt mà mới chỉ thấy qua tranh ảnh, nhưng con bạch mã đang gõ móng lộp cộp trên phố tiến về phía họ trông không giống những con ngựa trong trí tưởng tượng của nó chút nào. Con ngựa này to lớn hơn nhiều, với bộ mặt dài, nghiêm trang. Trên cái lưng trần của con ngựa là một người phụ nữ mặc chiếc váy dài màu xám trải dài lấp lánh dưới ánh trăng tháng Mười hai, tựa như mạng nhện long lanh trong sương sớm.
Bà tiến vào quảng trường, rồi con ngựa dừng lại và người phụ nữ mặc váy xám xuống khỏi lưng ngựa, đứng trên mặt đất, nhìn thẳng vào tất cả bọn họ, cả người sống lẫn người chết
Bà khẽ nhún đầu gối cúi chào.
Và bọn họ đồng loạt cúi đầu hoặc nhún gối đáp lại, rồi buổi khiêu vũ lại tiếp tục.
"Giờ Phu nhân Xám trên lưng Bạch mã
Dẫn chúng ta vào Vũ hội Tử thần ”
Liza cất tiếng hát trước khi vòng xoáy của buổi khiêu vũ kéo cô đi, rời xa khỏi Bod. Bọn họ cùng giậm chân theo nhịp nhạc, bước tới, xoay người, đá chân, và bà phu nhân cũng nhảy cùng họ, cũng bước tới, xoay người và đá chân một cách vô cùng hào hứng. Thậm chí cả con ngựa trắng cũng lắc lư đầu và giậm chân theo tiếng nhạc.
Điệu nhảy trở nên sôi nổi hơn, kéo theo những người tham gia buổi khiêu vũ. Bod đã hết cả hơi, nhưng nó không hề nghĩ đến chuyện dừng lại: đây là Vũ hội Tử thần, buổi khiêu vũ của người sống và người chết, buổi khiêu vũ với Thần Chết. Bod mỉm cười, tất cả mọi người đều mỉm cười.
Chốc chốc, giữa những cú xoay người và giậm chân ngang qua công viên, nó lại trông thấy bà phu nhân trong chiếc áo dài màu xám.
Tất cả mọi người đều đang khiêu vũ , Bod thầm nghĩ, tất cả mọi người! Nhưng ngay khi vừa nghĩ như vậy thì nó chợt nhận ra mình đã nhầm. Một người đàn ông mặc toàn đồ đen đang đứng trong bóng tối bên cạnh tòa thị chính Phố cổ. Người ấy không khiêu vũ. Người ấy chỉ ngắm nhìn họ.
Bod băn khoăn không biết cái biểu hiện nó trông thấy trên mặt chú Silas là sự khao khát, hay đau buồn, hay cái gì khác, nhưng nét mặt người bảo trợ của nó không sao dò thấu.
Nó gọi to, "Chú Silas!" mong rằng có thể kéo chú vào buổi khiêu vũ, để chú cũng được tận hưởng niềm vui như tất cả mọi người, nhưng khi nghe thấy tiếng nó, chú Silas liền lùi vào bóng tối và biến khỏi tầm mắt.
"Điệu nhảy cuối cùng đây!" người nào đó kêu lên, và tiếng nhạc chuyển sang chậm rãi, nghiêm trang, báo hiệu sự kết thúc.
Mỗi người trong buổi khiêu vũ lại chọn lấy một bạn nhảy, người sống cặp với người chết. Bod chìa tay ra, và thấy mình chạm vào tay bà phu nhân mặc chiếc áo như mạng nhện, nhận ra mình đang nhìn vào cặp mắt xám của bà.
Bà mỉm cười với nó.
"Chào cháu, Bod," bà nói.
"Chào bà ạ," nó đáp lại, và nhảy cùng bà. "Cháu không biết tên bà."
"Tên tuổi không quan trọng” bà nói.
"Cháu thích con ngựa của bà lắm. Nó to thật! Cháu không biết là lại có con ngựa to đến thế."
"Nó đủ hiền hòa để chở người hùng mạnh nhất trên dời, và cũng đủ mạnh mẽ để chở người nhỏ bé nhất”
"Cháu cưỡi nó được không ạ?" Bod hỏi.
"Một ngày nào đó," bà đáp, chiếc váy mạng nhện của bà sáng lên óng ánh. "Một ngày nào đó. Ai cũng sẽ được cưỡi nó."
"Bà hứa chứ ạ?"
"Ta hứa”
Thế rồi buổi khiêu vũ kết thúc. Bod cúi đầu thật thấp chào người bạn nhảy của mình, và chỉ đến lúc đó nó mới thấy mệt nhoài, như thể nó đã khiêu vũ hết giờ này sang giờ khác. Nó cảm thấy mọi cơ bắp trên người đều đang lên tiếng kêu ca vì đau nhức. Nó đã hết cả hơi.
Một chiếc đồng hồ đâu đó lại đổ chuông, và Bod đếm từng hồi chuông. Mười hai tiếng. Nó băn khoăn không biết buối khiêu vũ đã kéo dài suốt mười hai tiếng, hay hai mươi tư tiếng, hay không một giây phút nào đã trôi qua kể từ khi buổi khiêu vũ bắt đầu.
Nó vươn người đứng thẳng lên, rồi nhìn quanh mình. Những người chết đã biến mất cùng Phu nhân Xám. Chỉ còn lại những người sống đang lục tục kéo về nhà - rời khỏi quảng trường, vẻ cứng đờ, ngái ngủ, như những người vừa thức dậy sau giấc ngủ sâu, bước đi mà không tỉnh táo thật sự.
Quảng trường phủ kín những bông hoa nhỏ trắng muốt. Tựa như một đám cưới vừa diễn ra ở đó vậy.
º º º
Chiều hôm sau, Bod thức dậy trong ngôi mộ của gia đình Owens với cảm giác rằng nó đang nắm giữ một bí mật vô cùng trọng đại, rằng nó vừa làm một điều gì đó rất quan trọng, và nóng lòng muốn được nói về chuyện đó.
Khi bà Owens dậy, Bod liền nói, "Tối qua vui tuyệt mẹ ạ!"
Bà Owens bảo, "Thế à?"
"Mọi người đều khiêu vũ” Bod nói. "Tất cả mọi người. Dưới Phố cổ."
''Thật thế sao?" bà Owens khịt mũi hỏi lại. "Nhảy cơ à? Con biết là con không được phép đi xuống phố cơ mà."
Bod biết rõ khi mẹ nó đang trong tâm trạng như thế này thì tốt hơn hết là không nên tìm cách nói chuyện với bà. Nó liền chạy ra khỏi mộ, bước vào bóng tối đang đổ xuống.
Nó đi lên đồi, đến chỗ cái tháp kỷ niệm đen sạm và tấm bia mộ của ngài Josiah Worthington, nơi có một giảng đường thiên tạo và nó có thể nhìn xuống Phố cổ cùng mọi ánh sáng của thành phố xung quanh nó.
Josiah Worthington đến đứng cạnh nó.
Bod nói, "Ngài đã bắt đầu buổi khiêu vũ. Cùng với bà Thị trưởng. Ngài đã khiêu vũ với bà ấy."
Josiah Worthington trố mắt nhìn nó không đáp.
"Chính là ngài mà," Bod nói.
Josiah Worthington nói, "Người sống và người chết không giao du với nhau, chú bé ạ. Chúng ta không thuộc về thế giới của họ nữa; họ cũng không thuộc về thế giới của chúng ta. Nếu đã tham dự Vũ hội Tử thần cùng họ thì chúng ta cũng không nói về nó, và chắc chắn chúng ta sẽ không nói về nó với người sống."
"Nhưng cháu là một người ở đây mà."
"Chưa đâu, cậu bé ạ. Cậu còn cả đời”
Và Bod chợt hiểu ra mình đã tham gia buổi khiêu vũ với tư cách một người sống, chứ không phải một thành viên trong đoàn người từ trên đồi xuống, và nó chỉ biết đáp lại, "Cháu hiểu rồi... cháu nghĩ cháu đã hiểu rồi ạ."
Nó lao vụt xuống đồi, một chú bé lên mười đang vội vã, chạy nhanh đến nỗi suýt nữa vấp phải bia mộ của Digby Poole (1785-1860, Giờ tôi như thế nào thì bạn cũng sẽ như vậy ), nhưng kịp đứng thẳng lên, và xông thẳng vào ngôi nhà thờ cũ, chỉ sợ sẽ không gặp được chú Silas, chỉ sợ người bảo trợ đã đi trước khi nó đến nơi.
Bod ngồi xuống chiếc ghế dài.
Có cái gì đó chuyển động bên cạnh nó mặc dù nó không nghe thấy gì cả, và người bảo trợ của nó lên tiếng, "Chào cháu, Bod."
"Tối qua chú cũng có ở đó," Bod nói. "Chú đừng có tìm cách chối là chú không có đó, vì cháu biết là chú có đến đó mà."
"Đúng thế," chú Silas đáp.
"Cháu đã nhảy với bà ấy. Với bà phu nhân cưỡi con bạch mã."
"Thật thế à?"
"Chú đã nhìn thấy mà! Chú đã đứng xem mọi người khiêu vũ! Người sống và người chết! Tất cả đã nhảy với nhau. Tại sao không ai chịu nói về chuyện ấy cả?"
"Bởi vì trên đời có những điều huyền bí. Bởi vì có những điều mà chúng ta không được phép nhắc đến. Bởi vì có những điều mà họ không nhớ được”
"Nhưng chú đang nói về nó đấy thôi. Chú cháu mình đang nói về Vũ hội Tử thần đấy thôi."
"Chú không tham dự buổi khiêu vũ ấy” chú Silas
nói.
"Nhưng chú đã trông thấy."
Chú Silas chỉ đáp lại, "Chú không biết mình đã nhìn thấy gì."
"Cháu đã khiêu vũ với bà phu nhân ấy, chú Silas ạ!" Bod reo lên. Người bảo trợ nhìn nó vẻ gần như đau đớn, và Bod bỗng thấy sợ hãi, như một đứa bé vừa đánh thức một con báo đang ngủ.
Nhưng chú Siias chỉ nói, "Chúng ta sẽ không nói về chuyện này nữa."
Bod suýt thốt lên một điều gì đó - có hàng trăm điều nó muốn nói, mặc dù có thể sẽ không khôn ngoan chút nào khi nói lên những điều ấy - nhưng nó bị sao nhãng bởi một thứ khác: một âm thanh xào xạc, êm ái, nhẹ nhàng, và một cái gì đó chạm vào mặt nó, dịu dàng như một chiếc lông mát lạnh.
Lập tức nó quên hết mọi ý nghĩ về buổi khiêu vũ, và nỗi sợ của nó được thay thế bởi một niềm vui sướng kinh ngạc.
Đó là lần thứ ba trong đời nó được trông thấy cảnh này.
"Chú Silas, nhìn này, tuyết rơi rồi!" nó reo lên, niềm vui tràn ngập trong lòng, trong tâm trí nó, không chừa lại chỗ cho bất kỳ ý nghĩ nào khác nữa. 'Tuyết rơi thật rồi!"