Chương 7 NHỮNG NGÀY ĐẾN TRƯỜNG CỦA NOBODY OWENS
TRỜI ĐỔ MƯA XUỐNG NGHĨA ĐỊA, và cả thế giới biến thành những hình phản chiếu nhạt nhòa trong các vũng nước đục ngầu. Bod ngồi bên dưới cái cổng vòm phân cách giữa Đường Ai Cập cùng khoảng đất hoang phía Tây Bắc đằng sau đó với phần còn lại của nghĩa địa, trốn khỏi tất cả mọi người, dù còn sống hay đã chết, mà có lẽ lúc này đang đi tìm nó, và nó đọc sách.
"Đồ chết giẫm!" từ dưới lối đi vọng lên tiếng quát tháo. "Đồ chết giẫm, cầu cho mày bị móc mắt ra! Khi nào tao bắt được mày - mà chắc chắn là tao sẽ bắt được mày - thì tao sẽ khiến cho mày phải hối tiếc vì đã được sinh ra đời!"
Bod thở dài, bỏ quyển sách xuống, rồi nghiêng người ra vừa đủ để trông thấy Thackeray Porringer (1720-1734, con của bề trên ) đang giậm chân giậm cẳng bước lên lối đi. Thackeray là một thiếu niên to con - lúc chết cậu ta đã mười bốn tuổi, và vừa mới được nhận vào học nghề với một người thợ sơn nhà: cậu ta được ông chủ đưa cho tám xu và dặn là không được quay về nếu không mua đủ nửa ga lông sơn sọc đỏ trắng để sơn cái cột bên ngoài cửa hiệu cắt tóc. Thackeray đã mất năm tiếng đồng hồ chạy khắp thành phố trong một buổi sáng tháng Giêng bùn lầy, đi đến đâu cũng bị cười nhạo và bị đuổi sang cửa hàng khác; khi nhận ra mình đã bị lỡm, cậu ta nổi điên lên đến độ vỡ mạch máu não, rồi bị quật ngã chỉ trong vòng một tuần, và lúc chết cậu ta vẫn còn phẫn nộ trừng mắt nhìn những cậu học việc khác và thậm chí cả ông Horrobin, người thợ cả mà bản thân vốn đã phải chịu vô số trò tàn tệ hơn thế khi ông còn là một chú học việc, đến nỗi ông chẳng hiểu tại sao cậu ta lại phải nhặng xị lên đến vậy.
Vậy là Thackeray Porringer chết trong cơn giận dữ, tay vẫn còn nắm chặt cuốn Robinson Crusoe, cuốn sách này, cùng với một đồng sáu xu bằng bạc đã mòn hết các cạnh và bộ quần áo mặc trên người, là tất cả gia tài của cậu ta, và thể theo yêu cầu của bà mẹ, cậu ta đã được chôn cùng cuốn sách. Cái chết chẳng làm cho tính khí của Thackeray Porringer khá lên chút nào, và giờ thì cậu ta đang gào thét, "Tao biết mày đang ở quanh đây! Ra nhận hình phạt đi, đồ ăn trộm!"
Bod gập quyển sách lại. "Em không phải ăn trộm, anh Thackeray. Em chỉ mượn tạm thôi. Em hứa khi nào đọc xong sẽ trả lại cho anh."
Thackeray ngẩng lên và trông thấy Bod đang nấp sau bức tượng thần Osiris. "Tao đã bảo mày không được làm thế cơ mà!"
Bod thở dài. "Nhưng ở đây ít sách quá. Em lại đang đọc đến đoạn hay nữa. Ông ấy vừa tìm thấy một dấu chân. Nhưng không phải là dấu chân ông ấy. Tức là trên đảo có người khác!"
"Đấy là sách của tao” Thackeray Porringer khăng khăng. "Trả lại đây."
Bod đã sẵn sàng thuyết phục hoặc thương lượng với Thackeray, nhưng rồi thấy vẻ đau khổ trên mặt cậu ta, và nó đành nhượng bộ. Nó trèo từ trên cổng vòm xuống, và nhảy xuống đất. Nó chìa quyển sách ra. "Đây." Thackeray giật lấy quyển sách chẳng lịch sự chút nào, và trừng mắt nhìn Bod.
"Hay là để em đọc cho anh nghe nhé," Bod đề nghị. "Em có thể làm thế được."
"Đi mà đâm cái đầu bã đậu của mày vào tường ấy," Thackeray nói, rồi vung nắm đấm nhằm vào tai Bod. Nắm đấm của cậu ta đập vào tai Bod đau điếng, nhưng bằng vào cái vẻ mặt của Thackeray Porringer thì Bod nhận ra rằng nắm tay cậu ta cũng đau không kém gì tai nó.
Thackeray bước thình thịch xuống đồi, còn Bod nhìn theo, tai nhức nhối, mắt cay xè. Rồi nó xuyên qua màn mưa, men theo con đường trơn trượt phủ đầy dây trường xuân. Đang đi thì nó bị ngã, xước hết đầu gối và rách cả quần.
Bên cạnh bức tường có một khóm liễu, và Bod suýt nữa thì đâm sầm vào cô Euphemia Horsiall cùng Tom Sands, hai người vốn hò hẹn từ mấy năm nay. Tom được chôn cất cách đây đã lâu đến nỗi tấm bia của anh ta chỉ còn là một tảng đá dầm mưa đãi nắng, anh ta đã sống và chết vào thời Chiến tranh Trăm Năm, trong khi cô Euphemia (1861-1883), Nàng đang ngủ, đúng vậy, nhưng nàng đang ngủ giữa những thiên thần ) thì lại được chôn vào thời Victoria, sau khi khu nghĩa địa đã được mở rộng tới mức tối đa, và trong khoảng năm mươi năm sau đó, đã trở thành một khu vực kinh doanh khá phát đạt nên một mình cô có riêng cả lăng mộ lớn đằng sau một cánh cửa màu đen trên Đường Liễu. Nhưng dường như đôi tình nhân không hề bận tâm đến sự khác biệt giữa hai giai đoạn lịch sử của họ.
"Cậu nên đi chậm lại, cậu Bod ạ," Tom nói. "Cậu sẽ bị thương mất."
"Em đã bị thương rồi đây này” cô Euphemia nói. 'Trời ơi, Bod. Chị dám chắc mẹ em sẽ mắng em một trận cho mà xem. Vá lại chiếc quần ấy không dễ đâu."
"Ờ, xin lỗi anh chị," Bod nói.
"Và người bảo trợ của cậu đang tìm cậu đấy," Tom nói thêm.
Bod ngước nhìn bầu trời xám xịt. "Nhưng trời vẫn còn sáng mà” nó nói.
"Ông ấy đã dậy từ lúc tảo hôm," Tom nói, và Bod nghĩ từ ấy có nghĩa là sớm sủa, "và nhờ tôi bảo cậu là ông ấy cần gặp cậu. Nếu chúng tôi trông thấy cậu."
Bod gật đầu.
"Ở bụi cây đằng sau bia tưởng niệm của Little John đã có hạt dẻ chín rồi đấy," Tom mỉm cười bảo nó, như thể xoa dịu một cú đòn.
"Cảm ơn anh” Bod nói. Nó loạng choạng lao qua màn mưa, men theo con đường uốn lượn đi xuống sườn đồi thấp của nghĩa địa, chạy cho đến khi tới được ngôi nhà thờ cũ.
Cửa nhà thờ đã mở và chú Silas, vốn không ưa gì cả cơn mưa lẫn chút ánh sáng ban ngày còn sót lại, thì đang đứng giữa khoảng bóng tối ở trong.
"Chú cần gặp cháu ạ?" Bod hỏi.
"Ừ," chú Silas đáp. Rồi chú nói, "Cháu làm rách quần rồi kìa”
"Tại cháu chạy ngã đấy ạ," Bod trả lời. "Ờ, cháu đã cãi nhau với Thackeray Porringer. Cháu muốn đọc quyển Robinson Crusoe. Truyện kể về một người đàn ông, trên một con thuyền - nó là thứ dùng để đi trên mặt biển, còn biển thì giống như là một vũng nước khổng lồ ấy - và rồi con thuyền bị đắm và dạt vào một hòn đảo, nó là một thứ trên biển cho ta đứng lên được, và rồi..."
Chú Silas nói, "Đã mười một năm rồi, Bod ạ. Cháu đã ở đây với chúng ta được mười một năm rồi”
"Vâng ạ," Bod nói. "Nếu chú nói thế."
Chú Silas cúi nhìn thằng bé. Nó hơi gầy, và mái tóc màu nâu xỉn giờ đã sẫm màu hơn.
Trong ngôi nhà thờ cổ chỉ toàn bóng tối.
"Chú nghĩ đã đến lúc chúng ta nói về việc cháu từ đâu đến", chú Silas nói.
Bod hít một hơi thật sâu. Nó đáp, "Không cần phải nói ngay bây giờ đâu ạ. Nếu chú không muốn” Nó cố tỏ ra thật bình thản, nhưng tim đập thình thịch trong lồng ngực.
Im lặng. Chỉ nghe thấy tiếng mưa tí tách và tiếng nước mưa tràn xuống các ống máng. Sự im lặng kéo dài mãi cho đến khi Bod tưởng như mình nổ tung.
Chú Silas nói, "Cháu biết cháu rất khác biệt. Cháu biết rằng cháu là người còn sống. Rằng chúng ta đã đón nhận cháu - rằng họ đã đón nhận cháu vào nghĩa địa này - và chú đã đồng ý làm người bảo trợ cho cháu."
Bod không nói gì.
Chú Silas tiếp tục bằng cái giọng êm như nhung của mình, "Cháu đã từng có bố mẹ. Và cả một người chị gái nữa. Họ đã bị sát hại. Chú tin rằng kẻ sát hại gia đình cháu đã định giết cả cháu nữa, và cháu được cứu thoát chỉ là do tình cờ và nhờ sự can thiệp của ông bà Owens."
"Và cả chú nữa," Bod nói, từ bao nhiêu năm nay nó đã được nghe rất nhiều người kể về cái đêm ấy, thậm chí có những người đã từng có mặt khi mọi chuyện xảy ra. Đó là một đêm trọng đại trong cuộc sống của nghĩa địa.
Chú Silas nói tiếp, "Chú tin rằng ở ngoài kia, kẻ đã sát hại gia đình cháu vẫn đang tìm kiếm, vẫn đang muốn giết cháu”
Bod nhún vai. "Thì sao ạ?" nó nói. "Thì cháu sẽ chết thôi. Ý cháu là, tất cả các bạn thân nhất của cháu đều đã chết cả rồi mà."
"Đúng thế." Chú Silas ngần ngừ, "Họ đã chết. Và phần lớn bọn họ đều đã sống hết quãng đời của mình. Còn cháu thì chưa. Cháu còn sống, Bod ạ. Điều đó có nghĩa là cháu có những tiềm năng vô tận. Cháu có thể làm bất kỳ việc gì, tạo nên bất kỳ thứ gì, mơ ước bất kỳ điều gì. Nếu cháu muốn thay đổi thế giới thì thế giới sẽ thay đổi. Đó chính là tiềm năng. Một khi cháu đã chết thì tiềm năng đó cũng biến mất. Vĩnh viễn. Cháu đã làm hết những gì cháu có thể làm được, mơ hết những giấc mơ, để lại tên tuổi của mình. Cháu có thể sẽ được chôn ở đây, cháu có thể vẫn đi lại ở đây. Nhưng cái tiềm năng đó thì không còn nữa”
Bod ngẫm nghĩ hồi lâu. Điều đó có lẽ đúng, tuy nó vẫn nghĩ ra được những trường hợp ngoại lệ - chẳng hạn như bố mẹ nó vẫn nhận nuôi nó đấy thôi. Nhưng nó biết người sống và người chết rất khác nhau, mặc dù nó thấy đồng cảm với người chết hơn.
"Thế còn chú thì sao ạ?" nó hỏi chú Silas.
"Chú ấy à?"
"Chú không phải người sống. Nhưng chú vẫn đi lại, làm mọi việc được."
"Chú chỉ là bản thân chú, không hơn không kém” chú Silas nói. "Chú không phải là người sống, như cháu đã nói đấy. Nhưng nếu cuộc đời của chú kết thúc, chú sẽ không tồn tại nữa, chỉ đơn giản vậy thôi. Những người như chú chỉ hoặc là tồn tại, hoặc là không tồn tại. Nếu cháu hiểu chú định nói gì."
"Không hẳn ạ."
Chú Silas thở dài. Mưa đã tạnh, và bầu trời chạng vạng mây mù đã biến thành buổi chiều tà thực sự. "Bod này” chú nói, "có rất nhiều lý do khiến chúng ta nhất thiết phải bảo vệ cháu”
Bod nói, "Cái người đã làm hại gia đình cháu. Cái người muốn giết cháu ấy. Chú chắc chắn hắn ta vẫn đang tìm kiếm cháu chứ?" Nó đã nghĩ về điều này được một lúc rồi, và giờ nó biết rõ mình muốn gì.
"Phải. Hắn vẫn đang ở đâu đó ngoài kia."
"Thế thì," Bod nói, rồi nó thốt ra cái điều không thể thốt ra nổi, "Cháu muốn được đến trường”
Chú Silas vốn không tỏ ra bối rối bao giờ. Thế giới có thể sụp đổ ngay trước mắt nhưng chú sẽ vẫn không hề nao núng. Vậy mà lúc này miệng chú hé mở, trán nhăn lại, và chú chỉ hỏi:
"Cái gì?"
"Cháu đã học được rất nhiều điều trong nghĩa địa này” Bod nói. "Cháu biết cách Tàng hình và Ám ảnh. Cháu biết cách mở cánh cổng của quỷ nhập tràng và biết tên các chòm sao. Nhưng ở ngoài kia có cả một thế giới khác, có biển, đảo, thuyền bị đắm, và lợn. Ý cháu là, ở đó có vô số điều cháu không biết. Và các thầy cô giáo ở đây đã dạy cháu rất nhiều, nhưng cháu cần biết nhiều hơn thế. Nếu có ngày cháu muốn sống sót được ở thế giới ngoài kia."
Chú Silas chẳng hề bị ấn tượng. "Điều đó là không thể. Ở đây chúng ta có thể bảo vệ cho cháu. Làm sao chúng ta có thể bảo vệ cháu ở ngoài kia được? Ở đó
chuyện gì cũng có thể xảy ra."
"Đúng thế ạ," Bod gật đầu. "Đó chính là cái tiềm năng mà chú đã nói đến đấy” Nó im lặng hồi lâu. Rồi nó nói, "Một kẻ nào đó đã giết bố mẹ và chị cháu."
"Đúng thế."
"Một người đàn ông ạ?"
"Một người đàn ông."
"Như thế có nghĩa là chú đã đưa ra một câu hỏi sai rồi."
Chú Silas nhướn một bên lông mày lên. "Sao lại thế?"
"Là thế này ạ," Bod đáp. "Nếu cháu đi ra thế giới ngoài kia, thì câu hỏi không phải là "ai sẽ bảo vệ cháu khỏi hắn?"
"Không ư?"
"Không ạ. Mà phải là "ai sẽ bảo vệ hắn khỏi cháu?'"
Những cành cọ lạo xạo vào các ô cửa sổ cao như đang đòi được cho vào trong. Chú Silas phủi một hạt bụi vô hình trên tay áo bằng cái móng tay sắc nhọn như lưỡi dao. Chú nói, "Chúng ta phải tìm cho cháu một ngôi trường thôi."
º º º
Mới đầu chẳng ai để ý đến thằng bé. Thậm chí còn chẳng ai nhận ra là họ đã không để ý đến nó. Nó ngồi gần cuối lớp. Nó không hay phát biểu, trừ phi có câu hỏi nhằm thẳng vào nó, và ngay cả khi ấy thì câu trả lời của nó cũng rất ngắn gọn, vô vị, chẳng có gì đặc biệt: thằng bé luôn biến đi trong tâm trí và ký ức của ta.
"Chị có nghĩ gia đình nó là người cuồng tín
không?" thầy Kirby hỏi lúc ngồi chấm bài trong phòng giáo viên.
"Gia đình ai cơ?" cô McKinnon hỏi.
"Trò Owens ở lớp 8B ấy” thầy Kirby đáp.
"Thằng bé cao lớn, mặt đầy mụn ấy à?"
"Tôi nghĩ không phải. Nó chỉ cao vừa vừa thôi”
Cô McKinnon nhún vai. "Nó thì sao cơ?"
"Tất cả bài vở đều được viết tay” thầy Kirby nói. "Chữ rất dẹp. Kiểu chữ mà hồi xưa người ta thường gọi là chữ khắc đồng ấy."
"Và như thế có nghĩa gia đình trò ấy là những người cuồng tín vì...?"
"Nó bảo nhà nó không có máy vi tính”
"Còn gì nữa?"
"Nó cũng không có điện thoại”
"Tôi chẳng hiểu vì sao như thế lại có nghĩa rằng gia đình trò ấy là những người cuồng tín” cô McKinnon nói, kể từ khi nhà trường cấm hút thuốc trong phòng giáo viên cô đã đổi sang đan móc, và giờ cô đang ngồi đan một chiếc chăn trẻ con chẳng để cho ai dùng cả.
Thầy Kirby nhún vai. "Nó rất thông minh," thầy nói. "Nhưng có những thứ nó lại không biết. Và trong môn lịch sử thì nó lại thêm vào những chi tiết bịa đặt, những chuyện không có trong sách giáo khoa..."
"Ví dụ như chuyện gì?"
Thầy Kirby đã chấm xong bài của Bod và đặt nó xuống cùng những bài khác. Khi không có ví dụ cụ thể nào trước mặt, thầy bỗng thấy toàn bộ sự việc trở nên thật mờ mịt và chẳng quan trọng gì. "Chỉ là những chuyện linh tinh thôi” thầy nói, rồi quên bẵng luôn chuyện ấy. Cũng như thầy đã quên không ghi tên Bod vào danh sách học sinh. Cũng như tên của Bod không có trong dữ liệu của nhà trường.
Thằng bé là một học trò gương mẫu, dễ quên và luôn bị mọi người quên mất, phần lớn thời gian rỗi nó thường ngồi cuối lớp tiếng Anh, nơi đặt những cái giá chất sách bìa mềm cũ, hoặc vào thư viện của trường, một căn phòng rộng đầy sách cùng ghế bành cũ, và nó ngồi đọc truyện một cách say sưa giống như một số đứa trẻ khác say sưa ăn vậy.
Ngay cả bọn học sinh khác cũng không để ý đến nó.
Không phải là khi nó đang ngồi ngay trước mặt chúng: khi ấy thì chúng vẫn nhớ được nó. Nhưng một khi thằng nhóc Owens đó đã biến khỏi tầm mắt thì nó cũng biến luôn khỏi tâm trí của chúng. Chúng chẳng nghĩ gì đến nó cả. Chúng không cần phải nghĩ đến nó. Nếu có ai đó bảo tất cả các học sinh trong lớp 8B hãy nhắm mắt lại và mường tượng ra toàn bộ hai mươi lăm đứa con trai và con gái trong lớp, thì thằng nhóc Owens đó sẽ không có trong danh sách ấy. Nó tựa như một con ma vậy.
Tất nhiên, khi nó có mặt ở đó thì mọi chuyện lại khác hẳn.
º º º
Nick Farthing mười hai tuổi, nhưng người ta có thể nhầm và thường nhầm nó với một đứa mười sáu tuổi: một thằng nhóc to con với nụ cười méo xệch và đầu óc thì chẳng lấy gì làm giàu trí tưởng tượng. Nó khá thực tế - thực tế một cách sơ đẳng, là một tên trộm vặt có tay nghề, một thằng du côn, không quan tâm đến chuyện những đứa trẻ khác, chủ yếu là bé hơn, có ưa nó hay không, miễn là bọn chúng làm theo lời nó. Nó cũng có một đứa bạn. Tên con bé là Maureen Quilling, nhưng tất cả mọi người đều gọi nó là Mo. Đó là một con bé gầy gò, da tai tái, tóc vàng vàng, mắt xanh nhạt, với một cái mũi nhọn hay tọc mạch. Nick thích trộm vặt, nhưng chính Mo là đứa bảo nó phải trộm cái gì. Nick có thể đánh đập, dọa dẫm và làm những đứa khác bị thương, nhưng chính Mo là đứa chỉ ra những kẻ cần được dọa dẫm. Như Mo thỉnh thoảng vẫn nói với Nick, chúng là một bộ đôi hoàn hảo.
Chúng đang ngồi ở một góc thư viên chia nhau tiền tiêu vặt xin đểu được của bọn lớp bảy. Chúng có một bầy khoảng tám hay chín đứa bé mười một tuổi đã được huấn luyện để hàng tuần giao nộp tiền tiêu vặt cho chúng.
"Thằng nhóc Singh ấy vẫn chưa chịu nôn tiền ra," Mo nói. "Mày sẽ phải đi tìm nó thôi."
"Ừ," Nick đáp, "rồi nó sẽ phải xìa tiền ra."
"Nó đã đánh xoáy cái gì? Một cái đĩa CD à?"
Nick gật đầu.
"Mày chỉ việc cho nó biết nó đã hành động sai trái như thế nào," Mo nói, nó muốn bắt chước những bộ phim hình sự trên ti vi.
"Dễ ợt," Nick nói. "Bọn mình là một đội hoàn hảo mà."
"Như Người Dơi và Robin ấy," Mo nói.
"Giống như bác sĩ Jekyll và ông Hyde hơn” một đứa nào đó lên tiếng, không ai để ý thấy nó đang ngồi đọc sách ở chiếc ghế bên cửa sổ; nói đoạn nó đứng lên và đi ra khỏi thư viện. ( Nhân vật trong tiểu thuyết ngắn “Vụ án về bác sĩ Jekyll và ông Hyde của nhà văn Robert Louis Stevenson, kể về một bác sĩ bình thường sau khi uống thứ thuốc do chính mình chế ra đã biến thành kẻ xấu, vốn là hiện thân của phần "ác" trong con người ông ta).
º º º
Paul Singh đang ngồi trên bục cửa sổ trong phòng thay quần áo, hai tay đút sâu vào túi quần, đầu óc đầy những ý nghĩ bi quan. Nó rút một tay ra khỏi túi, mở tay ra, nhìn nắm tiền xu một bảng trong lòng bàn tay, rồi lắc đầu và nắm tay lại.
"Có phải Nick và Mo đang đòi chỗ tiền ấy không?" một giọng nói vang lên, làm Paul giật nảy mình, đánh rơi tiền ra khắp sàn.
Thằng bé kia giúp Paul nhặt tiền lên, đưa những đồng xu cho nó. Thằng bé đó lớn hơn Paul một chút, và.....
Thằng bé kia lắc đầu. "Không. Tớ thấy chúng nó thật tởm." Nó ngần ngừ. Rồi nói, "Thật ra tớ đến đây để cho cậu một lời khuyên."
"Thế à?"
Paul nhớ mang máng hình như mình đã trông thấy nó ở quanh đây, nhưng nó không dám chắc. Paul hỏi, "Cậu là đồng bọn của chúng nó à? Đồng bọn của Nick và Mo ấy?"
"Đừng đưa tiền cho chúng nó."
"Cậu nói thế thì dễ lắm”
"Tại vì tớ không phải người bị chúng nó tống tiền à?"
Thằng bé ấy nhìn thẳng vào Paul, và Paul đưa mắt nhìn đi chỗ khác, đầy hổ thẹn.
"Chúng nó đã đánh hoặc dọa dẫm cậu cho đến khi cậu ăn cắp một chiếc đĩa CD cho chúng nó. Rồi chúng nó bảo cậu phải nộp tiền tiêu vặt của cậu cho chúng nó, nếu không thì chúng nó sẽ mách. Chúng nó đã làm gì, quay phim cảnh cậu ăn cắp à?"
Paul gật đầu.
"Cứ bảo chúng là cậu sẽ không đưa tiền cho chúng nó” thằng bé nói. "Đừng chịu thua chúng”
"Chúng sẽ giết tớ mất. Và chúng bảo là..."
"Cậu hãy bảo với chúng là cảnh sát và các thầy cô giáo ở trường sẽ quan tâm đến hai đứa du côn chỉ biết bắt những đứa lớp dưới ăn cắp cho chúng, rồi lại nặn tiền tiêu vặt của bọn này, hơn là một đứa bé bị ép phải đánh xoáy một chiếc dĩa CD. Hãy bảo là nếu chúng còn đụng đến cậu thì cậu sẽ gọi cảnh sát. Rằng cậu đã ghi chép lại mọi chuyện, và nếu có chuyện gì xảy ra với cậu, bất kỳ chuyện gì, nếu cậu bị bầm tím mắt hay là gì đó đại loại thế, thì các bạn của cậu sẽ gứi lá đơn ấy đến cho cảnh sát và nhà trường ngay”
Paul nói, "Nhưng mà. Tớ không thế làm thế được."
''Nếu không thì trong suốt những năm còn lại ở trường này, cậu sẽ phải nộp tiền tiêu vặt của mình cho chúng. Và cậu sẽ luôn phải sợ chúng nó”
Paul ngẫm nghĩ một lát. "Sao tớ không báo cảnh sát luôn?"
"Nếu cậu muốn thì làm thế cũng được."
"Tớ sẽ thử cách của cậu trước," Paul nói. Nó mỉm cười. Đó không phải nụ cười tươi tắn cho lắm, nhưng dù sao thì vẫn là một nụ cười, nụ cười đầu tiên của nó từ ba tuần nay.
Vậy là Paul Singh đã giải thích với Nick Farthing rằng vì sao và bằng cách nào, nó sẽ không bao giờ nộp tiền cho Nick nữa, rồi bỏ đi trong khi Nick Farthing đứng trơ ra đó, không nói nổi một lời, chỉ biết hết siết chặt rồi lại buông hai nắm tay ra. Ngày hôm sau, năm đứa lớp bảy khác đi đến chỗ Nick Farthing ở dưới sân chơi và bảo nó là chúng muốn được trả lại tiền, tất cả chỗ tiền tiêu vặt mà chúng đã nộp cho nó từ tháng trước, nếu không thì chúng sẽ đi báo cảnh sát, và giờ thì Nick Far- thing đã trở thành một thằng nhóc vô cùng tức tối.
Mo bảoy "Chính là nó. Nó đã khởi đầu chuyện này. Nếu không nhờ có nó thì... bọn kia sẽ chẳng bao giờ tự mình nghĩ ra được. Bọn mình sẽ phải dạy cho nó một bài học. Rồi bọn kia sẽ phải răm rắp nghe theo thôi."
"Ai cơ?" Nick hỏi.
"Cái thằng lúc nào cũng cắm mắt vào quyển sách ấy. Tao sẽ chỉ nó cho mày” Mo đáp.
Nick chậm rãi gật đầu. Rồi nó hỏi, "Nó là đứa nào?"
Cái thằng trong thư viện ấy. Bob Owens. Chính là nó."
Bod đã quen với việc bị mọi người lờ đi và luôn chìm vào bóng tối. Khi cái nhìn của người khác thường lướt qua bạn mà không dừng lại, bạn sẽ dễ dàng nhận ra một khi có những ánh mắt hướng về phía mình, nhận ra khi có người để ý đến mình. Và nếu bạn hầu như không tồn tại trong tâm trí của người khác với tư cách một con người bằng xương bằng thịt, thì khi bị chỉ ra, khi bị bám theo... những việc này tự bản thân chúng cũng lôi kéo sự chú ý của bạn.
Chúng đã bám theo nó từ khi ra khỏi trường, bám theo nó ngược lên con phố, đi qua cửa hàng bán báo ở góc phố, và qua cây cầu có đường ray. Nó đi thật chậm để biết chắc là hai đứa đang bám theo mình, thằng nhóc to con và con bé tóc vàng mặt mũi ranh ma nọ, không bị mất dấu, rồi nó tiến vào cái sân nhà thờ nhỏ xíu ở cuối con đường, một khu nghĩa địa tí hon nằm phía sau nhà thờ của thành phố, và đứng đợi bên cạnh mộ của Roderick Persson cùng với vợ ông ta là Amabella, và vợ thứ hai của ông ta, Portunia. (Họ ngủ giấc ngàn thu để thức dậy trên thiên đàng).
"Mày chính là thằng nhóc đó," một giọng con gái vang lên. "Bob Owens. Mày sắp gặp rắc rối to rồi đấy, Bob Owens ạ."
'Tên tao là Bod," Bod nói, nhìn thẳng vào chúng. "Kết thúc bằng chữ D. Còn bọn mày là Jekyll và Hyde."
"Chính là mày” con bé nói. "Mày đã lôi kéo bọn lớp bảy."
"Và bọn tao sẽ dạy cho mày một bài học” Nick Farthing nói, nhe răng cười hung dữ.
"Tao thích các bài học," Bod nói. "Và nếu chú ý đến bài học của bọn mày hơn, thì bọn mày sẽ không phải bắt nạt đám lớp bảy để ăn chặn tiền tiêu vặt của chúng."
Trán Nick nhăn lại. Rồi nó nói, "Mày xong đời rồi Owens."
Bod lắc đầu, rồi nó đưa tay chỉ quanh mình. "Chưa đâu” nó nói. "Họ mới là những người đã xong đời."
"Ai cơ?" Mo hỏi.
"Những người ở đây” Bod nói. "Nghe này. Tao dẫn bọn mày đến đây là để cho bọn mày một cơ hội..."
"Mày đâu có dẫn bọn tao đến đây," Nick nói.
"Bọn mày đã đến đây” Bod nói. "Tao muốn bọn mày đến đây. Tao đến đây. Bọn mày đi theo tao. Cũng thế cả thôi".
Mo lo lắng nhìn quanh. "Mày có đồng bọn ở đây à?" nó hỏi.
Bod nói, "Tao e là mày đã hiểu sai rồi. Bọn mày phải ngừng chuyện này lại. Đừng đối xử với người khác như thể họ chẳng quan trọng gì. Đừng làm hại người khác nữa”
Mo cười xảo quyệt. "Trời đất ơi," nó bảo Nick. "Nện cho nó một trận đi."
"Tao đã cho bọn mày một cơ hội," Bod nói. Nick hung hãn vung nắm đấm về phía Bod, nhưng Bod không còn ở đó nữa, và nắm tay của Nick đập vào tấm bia mộ.
"Nó biến đi đâu rồi?" Mo hỏi. Nick đang chửi thề và lắc lắc bàn tay. Con bé bối rối nhìn quanh khu nghĩa địa mờ tối. "Nó vừa mới ở đây xong. Mày nhìn thấy nó mà."
Nick không phải đứa giàu trí tưởng tượng, và lúc này nó cũng không muốn nghĩ ngợi gì thêm. "Có lẽ nó đã chạy mất” nó nói.
"Nó không chạy” Mo bảo. "Nó chỉ biến mất thôi." Mo là đứa có trí tưởng tượng. Nó là đứa nghĩ ra những ý tưởng kia. Trong khu nghĩa địa rợn người ấy, bóng chiều đã phủ xuống làm tóc gáy nó dựng đứng lên. "Có chuyện gì đó không ổn, không ổn tí nào". Mo nói. Rồi nó giục Nick, bằng một giọng the thé đầy hoảng hốt, "Chạy khỏi đây thôi”
"Tao sẽ tìm ra thằng nhóc ấy," Nick Farthing nói. "Tao sẽ đập bể ruột nó ra." Mo thì cảm thấy trong bụng có cái gì đó cồn cào. Bóng tối nom như đang chuyển động xung quanh chúng.
"Nick," Mo nói, "tao sợ lắm”
Nỗi sợ rất hay lây. Ta có thể bị lây nỗi sợ từ một người khác. Đôi khi chỉ cần một người lên tiếng thú nhận rằng họ thấy sợ là nỗi sợ sẽ trở thành sự thật. Mo đã chết khiếp, và giờ thì Nick cũng thế.
Nick không nói gì. Nó chỉ chạy thẳng, và Mo bám theo sát gót. Những ngọn đèn đường đã bắt đầu sáng lên khi chúng quay trở về với thế giới bình thường, biến bóng chiều thành màn đêm thực sự, biến những góc nhập nhoạng thành những nơi tăm tối, ở đó bất kỳ điều gì cũng có thể xảy ra.
Chúng chạy một mạch về đến nhà của Nick, và lao vào trong, bật tất cả đèn đóm lên, rồi Mo phải gọi điện cho mẹ nó, gần như phát khóc lên khi đòi mẹ nó phải đem ô tô đến chở nó một quãng đường ngắn về nhà, bởi vì tối hôm ấy nó nhất định không chịu đi hộ về, Bod hài lòng nhìn chúng chạy đi "Cháu làm giỏi đấy!" một người phụ nữ cao lớn mặc đỏ trắng đứng sau lưng nó lên tiếng. "Đầu tiên là phép Tàng hình rất tài tình, Rồi tiếp theo là phép Sự hãi. "Cảm ơn bà ạ” Bod nói. "Cháu thậm chí còn chưa thử truyền nỗi Sợ hãi cho người sống cơ, ý cháu là, cháu biết rõ thuyết, nhưng mà, dù sao thì cháu cũng đã thử”
"Cháu đã rất thành công” người phụ nữ vui vẻ nói. "Ta là Amebella Misson."
"Cháu là Bod Nobody Owens."
"Cậu bé còn sống ấy à? Đến từ khu nghĩa địa lớn ở trên đồi ư? Thật sao?"
"Ừm." Bod không nhận ra là có người ở ngoài nghĩa địa của nó lại biết đến nó. Amebella đang gõ gõ lên thành ngôi mộ. "Roddy? Portunia ? Ra mà xem ai đang ở đây này!"
Thế là bọn họ cùng hiện ra, rồi Amabella giới thiệu Bod, nó bắt tay họ và nói, “Cháu rất hân hạnh”, bởi vì nó biết cách chào hỏi mọi người vơi những phép tắc khác nhau của chín trăm năm lịch sử.
"Cậu Owens đây vừa dọa cho mấy đứa trẻ một mẻ hết hồn, mà chắc chắn là chúng đáng bị như thế", Amabella giải thích.
"Giỏi lắm” Roderiek Misson nói. "Hẳn là chúng đã cự xử một cách đáng trách?
"Chúng là những đứa hay bắt nạt ạ. Bod đáp "Chúng bắt bọn lớp dưới nộp tiền tiêu vặt cho chúng. Đại loại thế."
"Một mẻ Dọa dẫm bao giờ cũng là khởi đầu tốt” Portunia Persson nói, bà là một người phụ nữ phốp pháp, già hơn Amabella nhiều. "Và cháu định sẽ làm gì nếu nó không có tác dụng?"
"Cháu chưa nghĩ đến..." Bod mở miệng, nhưng Amabella ngắt lời nó.
"Ta xin gợi ý phép Mộng du, đó là cách thức hiệu quả nhất. Cháu biết làm phép Mộng du chứ, phải không?"
"Cháu không chắc lắm ạ," Bod nói. "Thầy Penny-worth đã dạy cho cháu, nhưng cháu chưa thử - ờ, có những phép cháu chỉ biết lý thuyết thôi, và..."
Portunia Persson xen vào, "Mộng du cũng được, nhưng ta xin gợi ý phép Ám ảnh. Đó là thứ ngôn ngữ duy nhất mà cái loại như bọn chúng có thể hiểu được."
"Ồ," Amabella nói. "Phép Ám ảnh ấy à? Chị Portunia thân mến, tôi không nghĩ vậy đâu.."
"Cô thì chẳng nghĩ gì bao giờ. Nhưng may mắn là một người trong số chúng ta còn biết sử dụng đầu óc của mình."
"Cháu phải về nhà đây ạ," Bod vội nói. "Hẳn mọi người ở nhà đang lo không biết cháu ở đâu."
"Tất nhiên rồi," gia đình Persson đáp, cùng với những câu như, "Rất vui được gặp cháu" và, "Chúc cháu một buổi tối tốt lành, chàng trai trẻ." Amabella và Por- tunia vẫn đang lườm nguýt nhau. Roderick Persson nói.
"Cho phép ta hỏi thăm người bảo trợ của cháu. Ông ấy vẫn khỏe chứ?"
"Chú Silas ấy ạ? Vâng, chú ấy vẫn bình thường."
"Nhờ cháu chuyển lời hỏi thăm của chúng ta đến cho ông ấy. Ta e rằng ở một nghĩa địa nhỏ như thế này thì chúng ta sẽ chẳng bao giờ được gặp một thành viên thực sự của đội Hộ vệ Danh dự. Nhưng dù sao thì cũng thật tốt khi biết rằng họ đang ở đó."
"Chào ông ạ," Bod nói, chẳng biết ông ta đang nói về chuyện gì, nhưng tự nhủ sẽ để việc đó lại ngẫm nghĩ sau. "Cháu sẽ nói với chú ấy."
Nó xách cặp lên, rồi đi về nhà, tìm kiếm nguồn an ủi trong bóng tối quen thuộc.
º º º
Đi học với người sống không có nghĩa là Bod được bỏ những bài học của nó với người chết. Những buổi học ban đêm ấy thường rất dài, và đôi khi Bod phải xin lỗi rồi mệt nhoài bò về giường trước lúc nửa đêm. Nhưng phần lớn thời gian nó vẫn chịu khó ngồi cho hết buổi.
Gần đây thầy Pennyworth không còn gì phải kêu ca nữa. Bod học hành rất chăm chỉ, và liên tục đặt câu hỏi. Tối hôm ấy nó hỏi về phép Ám ảnh, những câu hỏi mỗi lúc một tỉ mỉ hơn khiến cho thầy Pennyworth bực cả mình, vì bản thân thầy cũng không chuyên sâu về việc ấy.
"Cụ thể là em phải làm thế nào để tạo ra một điểm lạnh trong không khí ạ?" nó hỏi, rồi, "Em nghĩ em đã nắm vững được cách gây Sợ hãi rồi, nhưng làm sao để em tăng nó lên thành nỗi Kinh hoàng ạ?" và thầy Pen-nyworth chỉ biết thở dài, ậm ừ, rồi cố hết sức để giảng giải cho nó. Đến khi hai thầy trò xong bài học thì đã hơn bốn giờ sáng rồi.
Ngày hôm sau ở trường Bod mệt lử cả người. Tiết học đầu tiên là tiết lịch sử - một môn Bod rất thích, mặc dù nó thường phải cố ngăn mình phát biểu rằng mọi chuyện không xảy ra như vậy, ít ra là theo lời những người có mặt trong thời điểm lịch sử ấy kể lại - nhưng sáng nay thì Bod phải vất vả lắm mới khỏi ngủ gật.
Nó đang dồn hết tâm trí vào bài học nên không để ý đến những gì xảy ra quanh mình. Nó đang nghĩ về vua Charles Đệ Nhất, rồi nghĩ về bố mẹ nó, ông bà Owens, và nghĩ về cả gia đình kia, cái gia đình mà nó không thể nhớ nổi, thì bỗng có tiếng gõ cửa. Cả lớp cùng thầy Kirby quay ra nhìn xem đó là ai (hóa ra là một đứa lớp bảy đến mượn một quyển sách giáo khoa). Và khi tất cả cùng quay đầu đi, Bod cảm thấy có vật gì sắc nhọn đâm vào mu bàn tay. Nó không kêu lên một tiếng nào. Nó chỉ ngước nhìn lên.
Nick Farthing cúi xuống nhìn nó, nhe răng cười, trong tay là một cây bút chì nhọn hoắt. "Tao không sợ mày đâu” Nick Farthing thì thầm. Bod nhìn mu bàn tay mình. Một giọt máu đã ứa ra ở chỗ bị mũi bút chì đâm vào.
Chiều hôm đó, ở trong hành lang, Mo Quilling đi ngang qua Bod, mắt con bé mở to đến nỗi Bod có thể trông thấy lòng trắng ở khắp xung quanh con ngươi của nó.
"Mày là thằng quái dị," con bé nói. "Mày chẳng có bạn bè gì hết."
"Tao không đến đây để đánh bạn” Bod thật thà nói. "Tao đến đây để học”
Cái mũi của Mo giật giật. "Mày có biết như thế là quái dị đến mức nào không?" con bé hỏi. "Chẳng ai đến trường để học cả. Ý tao là, mày đến trường vì mày bị bắt buộc, thế thôi."
Bod nhún vai.
"Tao không sợ mày đâu” con bé nói. "Cho dù hôm qua mày đã giở trò gì đi chăng nữa thì mày cũng không dọa được tao đâu."
"Được thôi” Bod nói, và nó đi tiếp xuôi hành lang.
Nó tự hỏi không biết có phải mình đã sai lầm khi vướng vào chuyện này hay không. Có một điều chắc chắn, đó là nó đã suy xét không kỹ lưỡng. Mo và Nick đã bắt đầu bàn tán về nó, và cả đám lớp bảy nữa.
Những đứa khác trong trường đã nhìn nó, chỉ trỏ về phía nó. Sự hiện diện của nó đã trở nên nổi bật hơn, không còn mờ nhạt như trước, và điều đó khiến nó thấy không yên tâm. Chú Silas đã dặn nó không được làm cho mình nổi quá, dặn nó khi ở trường thì hãy tàng hình một phần, nhưng giờ thì mọi chuyện đã thay đổi.
Tối hôm ấy nó nói chuyện với người bảo trợ của mình, kể cho chú nghe toàn bộ sự việc. Phản ứng của chú Silas khiến nó hoàn toàn bất ngờ.
"Chú không thể tin được là cháu lại có thể... có thể ngu ngốc đến vậy” chú Silas nói. "Sau khi chú đã dặn cháu phải giữ cho mình gần như tàng hình. Và giờ thì cháu đã biến thành đề tài bàn tán của toàn trường rồi hả?"
"Thế ý chú muốn cháu phải làm gì?"
"Chú không muốn cháu làm điều gì tương tự như thế này” chú Silas đáp. "Giờ không giống như thời xưa nữa. Chúng có thể theo dõi cháu, Bod ạ. Chúng có thể tìm ra cháu” vẻ bề ngoài vô cảm của chú Silas tựa như một lớp đá bao bọc lấy dòng dung nham nóng bỏng bên dưới. Nếu không hiểu rõ chú Silas thì hẳn Bod đã không biết chú đang giận dữ đến mức nào. Dường như chú đang cố kiềm chế, chặn đứng cơn giận của mình lại.
Bod nuốt nước bọt đánh ực một cái.
"Cháu nên làm gì bây giờ ạ?" nó chỉ hỏi có vậy.
"Đừng quay lại đó nữa” chú Silas nói. "Chuyện đi học này chỉ là thử nghiệm thôi. Chúng ta sẽ coi như nó là một thử nghiệm không thành công vậy."
Bod không nói gì. Rồi nó lên tiếng, "Nó không chỉ là chuyện được học các thứ đâu ạ. Còn những điều khác nữa. Chú có biết là được ngồi trong một căn phòng đầy người, và tất cả bọn họ đều còn sống, thì thích đến thế nào không?"
"Chú chưa bao giờ thấy đó là một điều thích thú," chú Silas trả lời. "Đã quyết định rồi. Ngày mai cháu sẽ không quay lại trường nữa."
"Cháu sẽ không chạy trốn đâu. Cháu sẽ không chạy khỏi Mo hay Nick hay trường học. Cháu sẽ rời khỏi đây trước."
"Cháu phải làm theo lời ta bảo” chú Silas nói, nỗi giận dữ bao trùm cả người chú như một nút thắt đầy thịnh nộ trong bóng tối.
"Nếu không thì sao ạ?" Bod hỏi, má nóng bừng, "Chú định làm gì để giữ cháu lại đây? Giết cháu chắc?" Đoạn nó quay ngoắt người đi xuống lối mòn dẫn đến cổng chính và ra khỏi nghĩa địa.
Silas toan gọi thằng bé lại, nhưng rồi lại thôi, và đứng đó một mình trong bóng tối.
Vào những lúc vui vẻ nhất nét mặt của Silas vẫn không thể dò thấu nổi. Giờ đây khuôn mặt ấy tựa như một cuốn sách viết bằng một thứ ngôn ngữ đã bị quên lãng từ lâu, với một bảng chữ cái không ai biết được. Silas vung tay quấn màn đêm quanh mình như một tấm khăn choàng, và nhìn về hướng thằng bé đã đi, nhưng không đi theo nó.
º º º
Nick Farthing đang nằm ngủ trên giường mơ về những tên cướp biển trên đại dương xanh thẳm dưới ánh nắng mặt trời, thì giấc mơ bỗng biến thành một cơn ác mộng. Nó đang làm thuyền trưởng con tàu cướp biển của riêng mình - một con tàu tuyệt vời, với thủy thủ đoàn gồm toàn những đứa nhóc mười một tuổi ngoan ngoãn, trừ bọn con gái, đám này thì lại hơn Nick khoảng một hai tuổi gì đó và trông rất xinh đẹp trong những bộ đồ cướp biển - thế rồi chỉ trong chớp mắt, nó thấy còn trơ lại mỗi một mình trên khoang, và một con tàu khổng lồ tối sầm to như tàu chở dầu, với những tấm buồm đen rách nát cùng một cái đầu lâu gắn ở mũi tàu, đang xuyên qua giông bão, tiến thẳng đến chỗ nó.
Và rồi, như thường xảy ra trong các giấc mơ, nó thấy mình đã đứng trên cái khoang màu đen của con tàu mới xuất hiện ấy, và có một người nào đó đang cúi xuống nhìn nó.
"Mày không sợ tao ư," người đàn ông đang đứng bên trên nó lên tiếng.
Nick ngẩng lên. Trong giấc mơ, nó thấy rất sợ, sợ người đàn ông có bộ mặt đờ đẫn như người chết, trong bộ đồ cướp biển, tay đặt lên chuôi một thanh đoản kiếm.
"Mày nghĩ mày là một tên cướp biển ư, Nick?" người bắt giữ nó hỏi, và đột nhiên Nick thấy ở người đó có vẻ gì quen quen.
"Mày chính là thằng nhóc ấy !" nó nói. "Thằng Bob Owens."
"Ta là Không Ai Cả," người bắt giữ nó đáp lại.. "Và mày thì cần phải thay đổi. Hãy cải tà quy chính. Sửa mọi thói xấu. Làm tất cả những điều đó. Nếu không thì mọi việc sẽ trở nên rất tồi tệ đấy."
"Tồi tệ như thế nào?"
"Tồi tệ trong đầu mày ấy” vị Vua Cướp Biển đáp, nhưng giờ đó chỉ là một thằng nhóc học cùng lớp với nó, và hai đứa đang đứng trong hành lang trường chứ không phải trên khoang một con tàu cướp biển nữa, mặc dù cơn bão vẫn không hề suy giảm, và sàn hành lang cuồn cuộn dâng lên hạ xuống chẳng khác nào con thuyền trên biển.
"Đây chỉ là mơ thôi," Nick nói.
"Tất nhiên chỉ là mơ rồi” thằng bé kia đáp. "Nếu tao làm thế này thật thì tao sẽ chẳng khác gì một ác....
'Trong mơ thì mày làm gì được tao?" Nick hỏi.
Nó nhăn nhở cười. "Tao không sợ mày đâu. Mày vẫn còn vết bút chì của tao đâm vào tay kia kìa." Nó chỉ vào mu bàn tay của Bod, chỉ vào cái vết đen do đầu chì....
"Tao đã mong là mọi chuyện sẽ không đến nước này” thằng bé kia nói. Nó nghiêng đầu sang một bên như thể đang lắng nghe cái gì đó. "Chúng nó đang đói đấy” nó bảo.
"Cái gì cơ?" Nick hỏi.
"Những thứ ở dưới hầm ấy. Hoặc là dưới boong tàu. Nhưng chuyện đó còn phụ thuộc vào việc đây là trường hay là con tàu, phải không?"
Nick thấy mình bắt đầu phát hoảng. "Đấy không phải là... không phải là nhện... đấy chứ?" nó hỏi.
"Có thể là thế," thằng bé kia đáp. "Mày sẽ biết
được thôi mà, phải không?"
Nick lắc đầu.
"Đừng” nó van vỉ. "Xin mày, đừng."
"Ờ, tất cả đều phụ thuộc vào mày thôi” thằng bé kia nói. "Hoặc là sửa chữa mọi lỗi lầm của mày, hoặc là xuống chơi dưới tầng hầm."
Tiếng động vang lên to hơn - một tiếng lột xột loạt xoạt như có nhiều đôi chân đang chạy gấp gáp, và mặc dù Nick Farthing không biết đó là cái gì, nó biết chắc chắn, hoàn toàn chắc chắn rằng cho dù đó là cái gì đi chăng nữa, thì đó cũng là một thứ đáng sợ, khủng khiếp nhất mà nó đã từng - sẽ từng - gặp phải...
Nó bật dậy với một tiếng hét.
º º º
Bod nghe thấy tiếng hét, một tiếng kêu đầy kinh hoàng, và cảm thấy hài lòng vì đã hoàn thành tốt công việc.
Nó đang dứng trên vỉa hè bên ngoài nhà của Nick Farthing, trong màn sương đêm dày ẩm ướt Nó vừa vui sướng vừa mệt mỏi: nó đã gần như không kiểm soát nổi phép Mộng du của mình, và nó biết rõ rằng trong giấc mơ ấy chẳng có gì khác ngoài Nick và bản thân nó, rằng cái đã khiến Nick khiếp sợ đến thế chỉ là một tiếng động.
Nhưng Bod vẫn lấy thế làm thỏa mãn. Thằng nhóc kia sẽ phải nghĩ lại trước khi ra tay hành hạ những đứa lớp dưới.
Giờ thì sao đây?
Bod đút tay vào túi quần và bước đi mà không biết chắc sẽ về đâu. Nó thầm nghĩ, mình sẽ bỏ học, cũng như mình vừa bỏ nhà đi khỏi nghĩa địa vậy. Nó sẽ đi đến một nơi không ai biết nó và sẽ ngồi cả ngày trong một cái thư viện, đọc sách, lắng nghe hơi thở của mọi người. Nó tự hỏi không biết trên thế giới có còn những hòn đảo hoang không, như hòn đảo nơi con tàu của Robinson Crusoe đã giạt vào ấy. Nếu có thì nó có thể đến sống ở một hòn đảo như vậy.
Bod không ngẩng đầu lên. Nếu ngước lên thì nó đã trông thấy một cặp mắt màu xanh nhạt đang chăm chú nhìn theo nó từ một ô cửa sổ phòng ngủ trên cao.
Nỏ bước vào một con hẻm, rời khỏi khoảng ánh và cảm thấy dễ chịu hơn.
"Cậu đang bỏ nhà đi đấy à?" một giọng con gái hỏi.
Bod không đáp lại.
"Đấy là sự khác biệt giữa người sống và người chết, phải không nào?" giọng nói đó tiếp tục. Bod biết đó chính là Liza Hempstock, nhưng nó không trông thấy cô phù thủy ấy ở đâu cả. "Người chết không làm ta thất vọng bao giờ. Họ đã sống hết quãng đời của mình, đã làm hết những gì họ có thể làm được. Chúng tôi không thay đổi nữa. Còn người sống, họ luôn làm ta thất vọng, phải không nào? Ta đã gặp được một cậu bé dũng cảm và cao thượng, thế rồi khi lớn lên cậu ta lại bỏ chạy”
"Như thế là không công bằng!" Bod kêu lên.
"Cậu Nobody Owens mà tôi biết sẽ không bao giờ bỏ đi khỏi nghĩa địa mà không thèm nói lấy một lời tạm biệt với những người yêu thương cậu ta. Cậu sẽ làm bà Owens vỡ tim vì đau khổ mất."
Bod chưa nghĩ đến chuyện ấy. Nó nói, "Em đã cãi nhau với chú Silas."
"Thế thì sao?"
"Chú ấy muốn em quay lại nghĩa địa. Không đi học nữa. Chú ấy nghĩ chuyện đó là quá nguy hiểm”
"Tại sao chứ? Khả năng của cậu, kèm với bùa phép của tôi, như thế thừa sức để chúng không nhận thấy cậu."
"Em đã dính vào một chuyện. Có mấy đứa trong lớp em bắt nạt những đứa lớp dưới, Em muốn chúng nó dừng lại. Em đã làm chúng nó chú ý đến mình."
Giờ thì Liza đã hiện ra thành một hình mờ ảo trong con hẻm, bước đi bên cạnh Bod.
"Hắn đang ở đâu đó trong thế giới bên ngoài này, và hắn muốn giết cậu” cô nói. "Cái kẻ đã giết gia đình cậu ấy. Chúng tôi, những người trong nghĩa địa, muốn cậu được sống. Chúng tôi muốn cậu đem đến cho chúng tôi những điều bất ngờ, những điều thất vọng, chúng tôi muốn cậu gây ấn tượng với chúng tôi, làm chung tôi kinh ngạc. Hãy quay về nhà đi, Bod."
"Em nghĩ là... em đã nói với chú Sìlas những câu không hay. Chú ấy sẽ giận lắm."
"Nếu ông ấy không quan tâm đến cậu thì cậu không thể làm ông ấy giận được," cô chỉ đáp lại như vậy.
Lớp lá rụng mùa thu trơn trượt dưới chân Bod và màn sương làm mọi góc cạnh của khung cảnh xung quanh nó mờ đi. Giờ đây chẳng còn thứ gì rõ ràng như nó tưởng mấy phút trước nữa.
"Em đã làm phép Mộng du," nó nói.
"Có ổn không?''
"Được ạ," nó nói. "Cũng bình thường."
"Cậu nên kể cho thầy Pennyworth biết. Thầy ấy vui lắm."
"Chị nói đúng” nó đáp, "Em nên làm thế!".
Nó đã đi đến cuối con hẻm, nhưng thay vì rẽ sang bên phải và bước vào thế giới bên ngoài như đã định, nó lại rẽ trái quay về Phố Chính, con phố sẽ đưa nó về đường Dunstan, về khu nghĩa địa trên đồi.
"Cái gì thế?" Liza Hempstock hỏi. "Cậu đang làm gì thế?"
"Em về nhà đây” Bod đáp. "Như chị đã bảo."
Những ngọn đèn ở các cửa hiệu hiện ra. Bod ngửi thấy mùi mỡ rán nóng hổi phả ra từ cửa hàng bán khoai tây chiên ở góc phố. Những phiến đá lát đường sáng lên lấp lánh.
"Tốt lắm," Liza Hempstock bảo, bây giờ cô lại chỉ còn là một giọng nói như trước. Và rồi giọng nói bỗng kêu lên, "Chạy đi! Hay Tàng hình đi! Có chuyện không ổn rồi!"
Bod đang định bảo cô là chẳng có chuyện gì không ổn hết, rằng cô đã tỏ ra thật là ngốc nghếch, thì một chiếc xe ô tô to, với ngọn đèn hiệu nhấp nháy trên nóc, quay ngoắt ngang qua đường và đỗ lại trước mặt nó.
Hai người đàn ông ra khỏi xe. "Xin chào, chàng trai trẻ” một người nói. "Cảnh sát đây. Cháu đang làm gì ở ngoài đường lúc đêm hôm thế này hả?".
"Cháu không biết là lại có luật cấm ra đường vào buổi đêm đấy," Bod nói.
Ông cảnh sát to con hơn mở cửa sau của chiếc xe. "Đây có phải thằng nhóc mà cháu đã trông thấy không, cô bé?" ông ta hỏi.
Mo Quilling bước ra khỏi xe, nhìn Bod và mỉm cười. "Đúng là nó đấy ạ," con bé đáp. "Chính nó đã đập phá các thứ ở vườn sau nhà cháu. Rồi nó bỏ chạy." Nó nhìn thẳng vào mắt Bod. "Tao đã trông thấy mày từ cửa sổ phòng tao” nó nói. "Cháu nghĩ chính nó là đứa đã đập các ô cửa sổ đấy ạ."
"Tên mày là gì?" ông cảnh sát nhỏ thó hỏi. Ông ta có một bộ ria màu đỏ hoe.
"Không Ai Cả ạ," Bod đáp. Rồi nó kêu lên, "Ui da," bởi vì ông cảnh sát ria hoe đã nắm lấy tai nó bằng ngón trỏ và ngón cái rồi véo mạnh. "Đừng có dối trá với ta," ông ta nói. "Trả lời câu hỏi cho lễ phép. Hiểu không?"
Bod không đáp lại.
"Nhà mày ở đâu?" ông cảnh sát hỏi.
Bod vẫn không đáp. Nó cố Tàng hình, nhưng phép Tàng hình - ngay cả khi có sự trợ giúp của một phù thủy - thì vẫn phải dựa vào việc mọi người không chú ý đến mình, mà lúc này thì tất cả mọi người đều đang dồn sự chú ý của họ vào nó - đó là chưa kể đến hai bàn tay to tướng của ông cảnh sát.
Bod nói, "Các ông không thể bắt cháu chỉ vì cháu không chịu cho các ông biết tên hay địa chỉ của cháu được."
"Không," ông cảnh sát nói. "Bọn ta không thể làm thế. Nhưng bọn ta có thể dẫn chú mày về đồn cho đến khi mày cho chúng ta biết tên của bố, mẹ, hoặc người bảo trợ, hoặc một người lớn có trách nhiệm để chúng ta có thể giao chú mày cho họ."
Ông ta đẩy Bod vào sau xe, Mo Quilling đang ngồi đó với một nụ cười của con mèo vừa chén hết bầy chim hoàng yến. "Tao đã nhìn thấy mày từ cửa sổ trước nhà tao” con bé khẽ nói. "Thế là tao gọi cảnh sát."
"Tao có làm gì đâu” Bod nói. "Tao còn không đặt chân vào vườn nhà mày nữa. Tại sao họ lại phải dẫn mày ra đây để tìm tao?"
"Im lặng!", ông cảnh sát to con quát. Tất cả đều nín thinh, cho đến cho chiếc xe dừng lại trước cửa một ngôi nhà chắc hẳn là nhà của Mo. Ông cảnh sát to con mở cửa xe cho nó, và nó bước ra.
"Ngày mai chúng ta sè gọi điện cho cháu, để cho bố mẹ cháu biết chúng ta đã khám phá ra những gì," ông ta nói.
"Cảm ơn bác, bác Tam” Mo mỉm cười nói. "Cháu chỉ làm tròn bổn phận của mình thôi mà."
Họ lái xe quay về trung tâm thành phố trong im lặng, Bod cố hết sức mình để Tàng hình nhưng không thành công. Nó cảm thấy lo sợ và khổ sở vô cùng. Chỉ trong vòng một buổi tối, nó đã cãi nhau lần đầu tiên với chú Silas, đã định bỏ nhà ra đi, rồi lại không bỏ nhà đi được, và giờ thì lại không thể quay về nhà. Nó không thể cho cảnh sát biết tên hay nơi nó ở. Nó sẽ phải sống nốt quãng đời còn lại trong một xà lim ở đồn cảnh sát, hoặc là trong một nhà tù dành cho trẻ con.
Họ có nhà tù dành riêng cho trẻ con không nhỉ? Nó cũng chẳng biết nữa.
"Xia lỗi các ông? Có nhà tù dành riêng cho trẻ con không ạ?" nó hỏi hai ông cảnh sát ngồi ở ghế trước.
"Sợ rồi phải không?" ông bác Tam của Mo hỏi. "Ta không trách chú mày đâu. Lũ trẻ con như chú mày. Chỉ biết lêu lổng thôi. Ta nói cho mà biết, có những đứa trẻ con rất đáng bị nhốt vào tù đấy”
Bod không đám chắc đó là câu trả lời có hay là không. Nó nhìn ra bên ngoài cửa xe ô tô. Một vật gì đó hết sức to lớn đang bay qua không trung, phía trên chiếc xe, bám theo bên cạnh nó, một vật màu tối sẫm, khổng lồ hơn cả con chim khổng lồ nhất. Một vật gì đó có hình người, chập chờn rung rinh trong lúc chuyển động, tựa như điệu bay của con dơi.
Ông cảnh sát ria hoe nói, "Khi chúng ta về đến đồn, tốt hơn hết cháu hãy cho chúng ta biết tên của cháu, cho chúng ta số điện thoại để gọi người đến đón cháu, chúng ta sẽ bảo là chúng ta đã mắng cho cháu một trận nên thân rồi, và cháu sẽ được thả về. Hiểu không? Chỉ cần cháu hợp tác với chúng ta thì mọi chuyện sẽ được giải quyết ổn thỏa, không phải giấy má lôi thôi. Chúng ta là bạn của cháu mà."
"Cậu dễ dãi với nó quá đấy. Một đêm trong tù cũng chẳng vất vả đến thế đâu” ông cảnh sát to con nói với cộng sự của mình. Rồi ông ta ngoái lại nhìn Bod và nói, "Trừ phi đêm nay bận rộn hơn bình thường, và chúng ta phải nhốt chú mày vào với bọn say xỉn. Bọn chúng nhiều khi cũng khá là khó chơi đây”
Bod thầm nghĩ, Ông ta nói dối! và bọn họ đang cố tình làm ra vẻ như thế, kẻ đấm người xoa...
Rồi chiếc xe cảnh sát ngoặt vào một ngả rẽ, và bỗng vang lên một tiếng thịch. Một vật to lớn chồm lên mui chiếc xe rồi ngã vật vào trong bóng tối. Chiếc xe phanh lại đánh "kít," và ông cảnh sát ria hoe lầm bầm chửi thề trong miệng.
"Hắn ta chạy ngay ra giữa đường!" ông ta nói "Chính anh cũng trông thấy mà!"
"Tôi không biết mình đã trông thấy cái gì nữa," ông cảnh sát to con đáp lại. "Nhưng cậu đã đâm phải cái gì đó rồi đấy”
Họ ra khỏi xe và chiếu đèn khắp xung quanh. Ông cảnh sát ria hoe nói, "Hắn mặc đồ đen! Thế thì làm sao mà ta nhìn thấy được."
"Hắn đang ở kia kìa," ông cảnh sát to con kêu lớn. Họ liền cầm đèn pin chạy về chỗ thân người đang nằm trên mặt đất.
Bod cố giật tay nắm cửa ở chỗ ghế sau. Cửa không mở. Và ở giữa ghế trước với ghế sau xe lại có một tấm lưới sắt. Cho dù có Tàng hình được thì nó vẫn bị kẹt ở ghế sau của chiếc xe cảnh sát.
Nó cố sức nhoài người ra, vươn dài cổ để nhìn xem chuyện gì đang xảy ra, xem người nằm trên đường là ai.
Ông cảnh sát ria hoe đang quỳ lom khom bên một thân người, nhìn kỹ người đó. Ông cảnh sát kia, người to con hơn, thì đang đứng bên cạnh, chiếu đèn pin vào mặt người đó.
Bod nhìn vào khuôn mặt của người bị ngã - rồi nó bắt đầu đấm lên cửa ô tô một cách hốt hoảng, tuyệt vọng.
Ông cảnh sát to con đến bên chiếc xe.
"Cái gì?" ông ta cáu kỉnh hỏi.
"Các ông đã đâm phải... bố cháu," Bod nói.
"Chú mày đùa đấy à."
"Nhìn giống bố cháu mà," Bod nói. "Cho cháu nhìn kỹ lại được không?"
Hai vai ông cảnh sát to con rũ xuống. "Ê! Simon, thằng bé bảo đấy là bố nó."
"Chó chết, anh định đùa tôi chắc."
"Tôi nghĩ nó nói thật đấy." Ông cảnh sát to con mở cửa xe, và Bod chạy ra.
Chú Silas đang nằm sõng soài trên nền đất chỗ chiếc xe đã đâm phải chú, mặt ngửa lên. Chú nằm im như chết.
Mắt Bod cay xè.
Nó gọi, "Bố ơi?" Rồi nó nói, "Các ông đã giết bố tôi rồi." Nó tự nhủ, không phải là mình đang nói dối... không hẳn.
"Tôi đã gọi xe cứu thương rồi," Simon, ông cảnh sát ria hoe, nói.
"Đây là tai nạn mà," ông cảnh sát kia lên tiếng.
Bod quỳ xuống bên cạnh chú Silas, siết chặt bàn tay lạnh giá của chú trong tay mình. Nếu họ đã gọi xe cứu thương thì không còn nhiều thời gian nữa. Nó nói, "Thế là sự nghiệp cảnh sát của các ông coi như xong rồi."
"Đó là một tai nạn... chú mày cũng nhìn thấy mà!"
"Hắn ta đã chạy ra trước..."
"Những gì tôi nhìn thấy” Bod nói, "đó là ông đã đồng ý giúp cháu gái mình dọa một thằng nhóc ở trường đang có chuyện cãi cọ với con bé. Vậy là các ông đã bắt tôi vì tội ra đường vào đêm khuya, bắt mà không có lệnh, và rồi, khi bố tôi chạy ra đường để xin các ông dừng xe lại hoặc là để xem chuyện gì đang xảy ra, thì các ông đã cố tình đâm vào bố tôi."
"Đó là một tai nạn!" ông Simon nhắc lại.
"Chú mày đã cãi nhau với Mo ở trường à?" ông bác Tam của Mo hỏi, nhưng ông ta không tỏ vẻ tự tin cho lắm.
"Tôi học lớp 8B ở trường Phố cổ với nó” Bod nói. "Và các ông đã giết chết bố tôi."
Nó có thể nghe thấy tiếng còi xe cứu thương từ xa vẳng lại.
"Simon," ông cảnh sát to con nói "chúng ta phải bàn về chuyện này."
Họ đi sang phía bên kia chiếc xe, để lại Bod một mình trong bóng tối với chú Silas. Bod nghe thấy hai ông cảnh sát giận dữ cãi cọ - nó nghe được những câu "Đứa cháu gái chết tiệt của anh!" và "Cậu phải để ý đến đường xá chứ!" Simon chĩa ngón tay vào ngực ông Tam...
Bod thì thào, "Họ đang không để ý đấy, Đi thôi." Rồi nó Tàng hình.
Một khoảng bóng tối dày đặc hơn cuộn xoáy quanh nó, và thân người nằm dưới đất bỗng hiện lên đứng thẳng bên cạnh nó.
Chú Silas nói, "Chú sẽ đưa cháu về nhà. Vòng tay quanh cổ chú đi."
Bod làm theo, ôm chặt người bảo trợ của mình, và hai chú cháu xuyên qua màn đêm, trở về khu nghĩn địa.
"Cháu xin lỗi, " Bod nói.
"Chú cũng xin lỗi” chú Silas đáp.
"Có đau không ạ?" Bod hỏi. "Khi chú để cho cái xe đâm vào ấy?"
"Có," chú Silas trả lời. "Cháu nên cảm ơn cô bạn phù thủy của cháu đi. Cô ấy đã đến tìm chú, nói cháu đang gặp rắc rối, và cho chú biết đó là rắc rối như thế nào".
Họ dừng lại ở nghĩa địa. Bod ngắm nhìn mái nhà của mình như thể lần đầu tiên trông thấy nơi này. Nó nói, "Chu