← Quay lại trang sách

CÂU CHUYỆN PHƯƠNG BẮC Phần I

Vịnh Bothnia bị cùm chặt trong băng. Những cây thông cao nẻ toác ra vì giá lạnh. Gió không ngừng thổi bay những lớp tuyết khô trên mặt băng. Đêm đêm mặt vịnh ảm đạm, lung linh phản chiếu những ngôi sao trời.

Ngồi sưởi quanh bếp lò củi cháy tí tách, các sĩ quan trung đoàn Kamchatka lại nhớ đến những câu thơ của Baratynsky. Thỉnh thoảng họ kể cho nhau nghe về nhà thơ trầm lặng đã phải gánh chịu cuộc đời quân dịch tại trung đoàn bộ binh trong chiến lũy Kumel, về “người ca ngợi nỗi buồn thảm trước Phần Lan” và thầm ghen với vinh quang yên tĩnh của ông.

Trung đoàn Kamchatka hồi đó đóng trên đảo Aland trong thị trấn Mariehamn.

Từ xa xưa, quần đảo Aland vốn đã được coi là quê hương của các tàu buồm. Chuỗi quần đảo nhỏ bé này nằm giữa chốn hoang vu miền Bắc, cách biệt với những kinh thành nhộn nhịp, đã bao đời là nơi sinh cơ lập nghiệp của các bậc thầy về nghề đóng tàu buồm. Họ giữ gìn nghiêm ngặt những quy luật trong nghệ thuật nghề nghiệp và truyền cho các con trai lớn. Thản nhiên ngậm chặt những tẩu thuốc, họ nhìn khói bay lên từ những chiếc tàu thủy đầu tiên làm hoen bẩn cả chân trời, bình phẩm:

- Dù sao hơi nước cũng không thể vượt được đại dương.

Cứ mỗi lần thu đến, đủ các loại tàu thuyền, tàu buôn hai buồm, ba buồm, xà lan lại trở về vùng đảo để sửa chữa. Chúng về đây từ bốn phương trời, từ biển Caribbean, từ Levant, từ Ireland. Dắt dẫn những con tàu ấy là những hoa tiêu người Thụy Điển, những người ít nói và trung thực.

Mùa đông, những con tàu ngập trong băng tuyết, các sĩ quan trung đoàn Kamchatka mỗi lần chạy ra sân cho hả bớt hơi men và khói thuốc trong những cuộc chè chén lại nhìn thấy sừng sững trước mắt những thân tàu đen xẫm, những ngọn đèn vàng vọt trên những dây chão giá lạnh và lại nghe thấy tiếng gió rít quanh cách trục buồm to xù.

Người ta mau quen với những con tàu như quen với những ngôi nhà, những thân cây trên đường phố, những chòi canh sơn kẻ sọc. Người ta không nhận ra chúng nữa. Chỉ có những ngày sáng sủa khi mặt trời trắng mọc trên mặt vịnh đóng băng, lính tráng và dân chúng Mariehamn mới nheo mắt lại vì những con tàu sáng chói bám đầy các hạt sương và ngạc nhiên vì vẻ đẹp của cảnh tượng ấy.

Tưởng như mùa đông khô lạnh đã sắp đặt cho mình nơi ăn chốn ở trên những con tàu này. Những nắm tuyết từ trên các sợi dây rơi xuống, va vào mặt boong tan ra lạo xạo. Những bông hoa hồng sắc nhọn kết lại bằng nước đá nở ra trên những cửa sổ buồng tàu. Khói lớp lớp tuôn ra từ những căn bếp trên tàu đọng lại trong đám dây chằng suốt từ sáng tới xẩm tối, rồi nó chuyển sang màu đỏ xẫm như khói của một trận đánh và dần dần biến thành bóng đen.

*

* *

Tháng giêng năm 1826 vừa qua là một thời kỳ mờ mịt và rối ren. Mới đây, những tin tức từ Petersburg truyền đến đã báo về cuộc Khởi nghĩa Tháng Chạp[1] và cuộc giao tranh trên quảng trường Senat.

Kiselev là một kẻ dương dương tự đắc và không chịu được cách nghĩ, cách hành động theo ý riêng. Y đã tham gia các cuộc chiến tranh chống Napoleon nhưng chưa một lần bị mũi gươm, hòn đạn làm sây xước. Y vẫn khoác lác nói: “Viên đạn dành cho tôi còn chưa đúc.”

Người ta đồn đại rằng, năm 1814 sau khi chiếm được Paris, y ngồi trong một quán rượu Paris. Có năm người Pháp bước vào. Họ đòi năm cái cốc không và một chai rượu. Tức khắc Kiselev gọi năm chai sâm banh và một cái cốc không, rồi uống một mạch lần lượt năm chai rượu và bước ra khỏi quán trước tiếng vỗ tay vang dậy của các khách hàng đang say sưa.

Các sĩ quan trung đoàn Kamchatka có đặt một bài thơ châm biếm Kiselev:

Chiến trường không nguy hiểm với kẻ nhát gan

Vinh quang chiến trường hắn đổi lấy rượu Rum

Đánh bại kẻ thù trên chiếu bạc

Ở mọi nơi và bất kỳ lúc nào

Sĩ quan tùy tùng của trung đoàn là Merck mắc tật nói lắp, vốn là một người Đức, một kẻ tuân theo những quy tắc sống vững chắc, quen cúc cung tận tụy, một tay mê âm nhạc. Merck thường bắt đội nhạc trung đoàn chơi ở ngoài bãi tập hàng mấy giờ liền giữa giá rét tàn khốc. Máu bật ra trên môi các nhạc công bị nứt nẻ và phồng rộp lên vì ống đồng lạnh ngắt. Nước bọt đóng băng ở miệng kèn trombone rên rỉ.

Khi đội nhạc chơi xong bài hành khúc của trung đoàn đã đờ đẫn cả người, Merck bước ra hiên nhà với chiếc áo khoác sĩ quan choàng trên vai và kêu lên, giọng díu lại:

- Vẫn còn nghe thấy tiếng ủng lẹp xẹp! Chơi bẩn lắm, các anh bạn ạ! Hãy chơi lại bài hành khúc cho đến khi không còn lẫn một thứ tiếng nào khác vào đó mới thôi!

Những người lính cóng đờ vì rét vẫn phải chơi. Họ nhấc chân lên chân xuống thật khẽ để Merck khỏi nghe tiếng ủng dậm dịch, nhưng những tên nói lắp lại rất thính tai nên không sao lừa hắn được. Hầu hết các nhạc công chân đều bị cóng lạnh.

Merck tự coi mình là người thẳng thắn, trọng sự thực. Trong trung đoàn người ta không ưa và sợ hắn. Hắn thường nói với các sĩ quan: “Ngài không biết ăn con cá cho đúng đắn, đó là một điều ô nhục”, “Cuối cùng chuẩn úy nên bỏ cái thói quen rung đùi dưới gầm bàn ấy đi.”

*

* *

Nước Phần Lan mới bị chinh phục cách đây không lâu. Trong trí nhớ mọi người còn nguyên vẹn cuộc chuyển quân nổi tiếng của quân đội Nga qua mặt băng của vịnh Bothnia giá lạnh sang Thụy Điển. Vinh quang của cuộc hành quân này ngay cả những trận thắng quân Pháp mới đây cũng không át đi đươc.

Phục vụ đồn trú ở Phần Lan rất nặng nhọc, phải sống và làm việc giữa một đám dân cư khắc khổ và ít nói. Đặc biệt khó khăn là đời lính ở trung đoàn Kamchatka, đồn trú trên quần đảo Aland. Mùa hè từ Petersburg, từ Helsingfors còn có tàu thuyền tới đảo. Khi mùa đông đến, con đường duy nhất lên bờ chỉ còn là mặt băng buốt căm căm. Nhưng thường hơn cả, biển chỉ đông lại men bờ và khi đó không thể ra đảo được nữa, dù là bằng tàu biển hay đi ngựa.

Trung đoàn Kamchatka là nơi đày ải các sĩ quan phạm lỗi. Trong số họ có chuẩn úy Bestuzhev mới được thăng từ lính thường lên sĩ quan.

Bestuzhev chạm trán với đại hầu tước Mikhail Pavlovich trên đường phố Petersburg trong lúc đội mũ lông, mà không đội mũ của sĩ quan. Đó là một buổi tối giá rét và gió lộng. Bestuzhev bị bệnh buốt đầu nặng sau vết thương ở thái dương trong trận Borodino và chàng đội mũ lông để tránh cho đầu khỏi bị cảm lạnh. Đại hầu tước giật cái mũ khỏi đầu và toan ném xuống đất, Bestuzhev giằng lại cái mũ từ tay hầu tước và bỏ đi thẳng, không thèm ngoái cổ lại, mặc những mệnh lệnh đầy hăm dọa bắt đứng lại.

Tại cuộc hỏi cung, chàng nói:

- Tôi coi danh dự của tôi cao hơn lời thề!

Điều đó đã được tâu lên hoàng đế Alexander. Ngay lập tức có lệnh ban ra, giáng chuẩn úy Bestuzhev xuống lính thường và chuyển chàng về trung đoàn Kamchatka bị đầy ải.

*

* *

Anh lính Semyon Tikhonov tuần tra gần hải đăng Erasgrund. Cây hải đăng thấp, xây bằng đá trên hòn đảo nhỏ đối diện với Mariehamn. Ra nơi tuần tra phải đi qua một con đường hẹp đóng băng trên biển.

Trên hải đăng chỉ có một người gác sinh sống, đó là một người Thụy Điển già, trước đây là thuyền trưởng. Cả ngày ông ta cấm cảu, lầu bầu điều gì đó, nhay nhay đôi môi vàng vọt và liếc nhìn người lính cóng lạnh trong chiếc áo bashlyk, rẽ vào điếm canh sưởi đôi bàn tay đỏ lựng.

- Ông ơi, ông đừng mắng cháu! - Tikhonov kêu to bằng cái giọng bị cảm lạnh. - Đâu có phải cháu thích loay hoay ở đây để mang cái rét vào. Đi lính cho Nga hoàng đâu có phải là sống, mà là cuộc đầy ải thực sự, ông có hiểu không?”

Ông lão yên lặng, Tikhonov ngồi xổm xuống bên bếp lò. Chiếc áo khoác dài của anh lạnh cứng lại như bằng gỗ, lọc cọc chạm xuống sàn.

- Ôi, bất hạnh, thật là bất hạnh! - Tikhonov sầu não nói, lấy gót ủng di di những vũng nước chảy từ áo xuống sàn gạch sạch sẽ.

Ông già Thụy Điển gật gù.

- Có nghĩa là ông hiểu? - Tikhonov hỏi. - Có gì mà không hiểu được khi cả ông lẫn cháu đều là người bình thường, quen làm việc từ tấm bé. Ông cũng canh, cháu cũng canh. Có điều cháu canh cái gì thì chỉ có ông trời và ngài Kiselev biết thôi.

- Ồ… ồ… ồ! - Người Thụy Điển nói.

- Ông còn ồ… ồ… mãi! - Tikhonov cáu kỉnh nói. - Kiselev, chỉ huy của chúng cháu là tên độc ác. Trong cả trung đoàn chỉ có được một người tử tế là chuẩn úy Bestuzhev, chỉ huy trung đội cháu và là khách trọ thường xuyên ở nhà ông đấy.

Bestuzhev thuê phòng trọ ở nhà người gác đèn biển.

Ngày ngày ông già vẫn ở ngoài hải đăng. Chỉ có chủ nhật ông mới về Mariehamn. Chăm nom chuẩn úy đã có vợ ông, một bà lão tóc bạc và con gái ông là Anna, một cô gái tóc đen, tính tình e thẹn, hay đi trượt tuyết như con trai.

Anna mới tốt nghiệp trường trung học ở Stockholm, giờ sống ở nhà cha mẹ, giúp đỡ mẹ, còn các buổi tối đọc sách suốt.

- Bestuzhev - Ông già bặm môi, mỉm cười vỗ vào thân áo vồng lên trên lưng Tikhonov. - Ồ… ồ… Bestuzhev!

- Đúng thế đó, ông ạ. - Tikhonov nói và hài lòng, đưa bàn tay thô ráp lên xoa mặt. - Khỏi phải nói, chuẩn úy là người có tâm hồn.

Tikhonov hút hết tẩu thuốc lá nặng, lạch cạch mang khẩu súng và thanh rìu đi xa khỏi điếm canh. Anh đóng sập cánh cửa gỗ sồi đen, nheo mắt lại vì tuyết chói lòa đập vào mắt và làm dấu thánh.

Đêm tháng giêng nặng nề áp sát vào cửa sổ tỏa sáng lờ mờ của điếm canh. Đèn biển không thắp sáng: mùa đông không cần đến nó.

Tikhonov vai đeo súng đi dọc bờ biển chốc chốc lại dừng lại và đứng lim dim ngủ.

Xa xa, băng trong vịnh nổ vỡ vì giá rét. Tiếng ì ầm ngao ngán truyền theo bờ biển. Tikhonov lúc lắc cái đầu để xua tan cơn buồn ngủ, chửi tục, rồi khàn khàn kêu lên:

- Nghe đây!

Anh kêu lên theo thói quen. Gần đó không có một người lính gác nào và cũng không có ai đáp lại tiếng gọi của anh. Chỉ có ông già người Thụy Điển, sau mỗi tiếng kêu của anh lại chậm rãi trở dậy, xếp lại các thanh củi trong lò, lại gần bàn và tiếp tục đọc quyển kinh thánh dày cộp đã ngả vàng.

- Nghe đây! - Tikhonov kêu, giọng kéo dài.

Gió lặng đi như nghe ngóng. Băng vỡ, tuyết lạo xạo trút vào bức tường đá của trạm gác và rin rít dưới gót ủng anh lính. Anh lính ho và khạc nhổ. Những âm thanh này đã làm gió chán ngán từ lâu, chờ đợi chốc lát, nó lại thổi tuyết từ mặt băng lên bờ biển, chất lại thành đống dài.

Tikhonov kêu mãi đã phát chán. Anh nín lặng. Gió cũng lặng đi. Đột nhiên ở đâu đó xa xôi trên mặt băng, anh lính nghe thấy tiếng lộc cộc chậm rãi và lặng lẽ. Anh sửa lại khẩu súng và chiếc rìu rồi lắng nghe.

Tiếng lộc cộc lại gần. Anh lính thận trọng nằm nép sau những tảng đá. Tiếng động nghe đã rõ ràng, dường như có người đang đi trên băng trong đôi ủng sắt nặng nề.

Anh lính vội vã làm dấu thánh, đặt khẩu súng lên hòn đá và ngắm vào bóng tối, nơi tiếng chân người vọng lại. Trên mặt băng hiện ra một bóng đen. Nó từ từ chuyển động về phía bờ.

- Đứng lại! Ai đang đi đó? - Tikhonov khẽ gọi.

Nhưng không có ai trả lời. Tikhonov nhìn kỹ và nhận ra hai người, người đi trước vấp phải một viên đá và ngã xuống.

Người bạn đường của anh ta toan nâng vai để anh ta ngồi lên, nhưng người kia lại ngã gục xuống mặt băng như một người chết.

Tikhonov cầm lấy khẩu súng, lại gần người bị ngã.

- Các ông là ai? - Anh hỏi nghiêm khắc. - Phải trả lời, không được giấu diếm.

- Hãy khoan đã, anh lính ơi, - Từ bóng tối vọng lại một giọng nói mệt mỏi. - Hãy giúp đưa ông ấy vào nhà đã, ông ấy bất tỉnh rồi.

Tikhonov nắm lấy vai người đang nằm và rụt tay lại, dưới tấm vải mưa, anh cảm thấy chiếc lon cứng của sĩ quan.

- Sĩ quan à? - Anh hỏi giọng thì thầm.

- Sĩ quan.

- Thế còn ông là ai?

- Tôi là lính thủy.

- Có lệnh phải bắt giữ bất kỳ ai không kể cấp bậc thế nào và đem trình ngay ngài đại tá Kiselev. Các ông từ đâu tới và có việc gì vậy?

- Người ta đang chết cóng kia kìa! - Người lính thủy nói giọng tuyệt vọng. - Vì Chúa, anh hãy đưa giúp vào nhà đã rồi hãy hỏi.

Tikhonov lặng thinh. Cùng người lính thủy, anh vực viên sĩ quan dậy và dìu vào trạm gác.

Ông già Thụy Điển đứng dậy, gấp quyển kinh thánh lại, lặng lẽ nhìn người ta đặt viên sĩ quan nằm lên sàn bên cạnh lò sưởi. Sau đó ông thư thả lấy từ trong tủ ra chai rượu Vodka, rót vào chiếc cốc màu lam, và như thường lệ, lầu bầu cáu kỉnh điều gì đó, nâng đầu viên sĩ quan dậy, đổ rượu vào mồm ông ta. Rượu rớt cả ra bộ quân phục nhem nhuốc.

Viên sĩ quan mở mắt ra, nhìn thấy Tikhonov liền ngồi phắt dậy.

- Anh là lính ư? - Ông ta hỏi, tay ôm lấy ngực. - Chúng ta đang ở đâu đây, anh lính?

- Thưa ngài, đây là quần đảo Aland. - Tikhonov trả lời. - Cho tôi hỏi: Ngài từ đâu tới đây và vì việc gì?

Viên sĩ quan cười khẩy.

- Chúng tôi từ Petersburg tới. - Ông ta chậm rãi trả lời. - Tìm đường sang Thụy Điển, còn sự việc thì đơn giản thôi, người anh em ạ, phải đi trốn giá treo cổ, hiểu chưa?

- Tôi hiểu, thưa ngài sĩ quan.

- Thế anh bảo nên làm gì?

Tikhonov im lặng. Anh lấy tay áo ẩm ướt chùi mũi và hấp háy mãi đôi mắt sưng tấy lên vì gió.

- Thế nào? - Viên sĩ quan hỏi.

- Thưa ngài. - Tikhonov năn nỉ nói. - Ở đây đã biết hết mọi chuyện, lính tuần tra được cắt đặt khắp các đảo. Đằng nào thì ngài cũng không thể đi thoát được đâu.

- Ở đây đã biết chuyện gì?

- Về cuộc nổi loạn. Chuẩn úy Bestuzhev đã nói rõ với chúng tôi.

Tikhonov nín lặng, lưỡng lự rồi hỏi:

- Thưa ngài, xin cho tôi được rõ, trung đoàn cận vệ ngự lâm Moskva có tham gia vào vụ này không?

- Có, đứng về phía những người khởi nghĩa. Họ bị hàng loạt đại bác nã lên người.

Tikhonov ngồi xổm bên lò sưởi, tư lự:

- Ôi, thật bất hạnh, bất hạnh! - Anh nói và loay hoay xếp lại củi trong lò. - Em tôi phục vụ ở trong đoàn ấy. Chẳng nhẽ người ta đã giết nó rồi ư?

- Thoải mái, - Người lính thủy đáp. - Biết bao nhiêu anh em trung đoàn Moskva bị đem trôi sông, không đếm xuể được!”

- Nghe đây anh lính… - Viên sĩ quan nói.

Tikhonov vẫn ngồi nguyên như vậy, trân trân nhìn ngọn lửa.

- Chúng tôi đã vùng lên vì một sự nghiệp chính nghĩa. Vì tự do của nhân dân, vì cuộc sống hạnh phúc của anh em binh lính. Vua Nikolai là một tên bạo chúa. Y đang dìm nước Nga trong máu và nước mắt, dày xéo nó đến chết. Sự nghiệp của chúng tôi đã thất bại nhưng hạt giống đã được đem gieo và mầm sẽ mọc lên. Không anh thì con cháu anh sẽ được nhìn thấy cuộc sống không có nước mắt và sẽ cảm ơn chúng tôi về điều đó, hiểu chưa?

- Tôi hiểu rồi, thưa quý ông. - Tikhonov khẽ đáp. - Muốn sao thì muốn, sự thật không thể cùm xích được.

Viên sĩ quan đứng dậy, đóng lại vạt chiếc áo mưa, đội lên đầu chiếc mũ lông giản dị của nông dân. Dù trong trạm gác nóng ấm, trên mặt ông ta không còn hột máu. Ông bíu chặt vào mặt bàn bằng bàn tay run rẩy và bảo người lính thủy:

- Ta đi thôi Pakhomovich. Đêm còn dài, ta còn kịp đi xa đảo chừng năm tầm bắn. Nơi này rất nguy hiểm.

- Ta phải ăn chút gì đã Nikolai Ivanovich. Trông ngài không còn thần sắc gì nữa.

Viên sĩ quan phẩy tay, lẩy bẩy đi ra cửa. Người lính thủy theo sau.

Tikhonov vùng dậy:

- Đứng lại đã, thưa quý ông! - Tikhonov kêu lên bằng giọng tuyệt vọng, lao theo viên sĩ quan.

Người kia nhanh nhẹn quay lại.

Người lính thủy chộp tay Tikhonov.

- Buông ra! - Tikhonov kêu lên, giật tay ra, nước mắt chảy trên khuôn mặt dạn dày sương gió đầy vẻ hoang mang của anh.

Bằng bàn tay run rẩy, Tikhonov mở chiếc túi dét linh của mình, giật dây cài lấy ra miếng bánh mì đen nhỏ và miếng mỡ muối gói trong mảnh vải sạch.

- Xin ngài cầm lấy. - Anh nói như nghẹn thở và dúi miếng bánh, miếng mỡ cho viên sĩ quan. - Xin ngài nhận cho tấm lòng thành của một người lính và đừng từ chối.

Tikhonov ngã quỳ xuống, mặt gục vào chân người sĩ quan.

- Chết, chết, sao anh làm thế! - Viên sĩ quan bối rối đỡ Tikhonov dậy. - Có thể nào làm như vậy được? Đứng lên nào!

Tikhonov nặng nề đứng dậy. Viên sĩ quan kéo anh lại gần mình và họ hôn nhau. Người lính thủy vỗ lên vai Tikhonov.

- Thôi vĩnh biệt, làm việc đi! Hãy nhớ lấy!

Họ đi ra, Tikhonov đứng lại bên cửa. Khẩu súng của anh nằm lăn lóc cạnh bếp lò. Ông già người Thụy Điển run rẩy xoa xoa bộ mặt lởm chởm của mình.

Tikhonov quay lại phía ông, đặt một ngón tay lên môi rồi giơ nắm tay to ra hăm dọa. Người Thụy Điển vui vẻ gật đầu. Có nghĩa là ông già hiểu cả.

Một tiếng súng gần đấy vang lên, nổ trong bóng tối. Sau đó phát thứ hai và phát thứ ba, rồi một giọng khàn khàn quát lên gần ngay bên:

- Lính canh đâu!

Tikhonov nhận ra tiếng viên trung đoàn trưởng. Mỗi tuần lễ một lần, Kiselev đi kiểm tra các phiên gác. Tikhonov không rời chỗ, chỉ nhanh nhẹn sửa lại chiếc áo khoác.

Cánh cửa bật mở, bước qua ngưỡng cửa, Kiselev cúi đầu xuống và theo sát y là Merck. Hai người lính giữ chặt tay viên sĩ quan và người lính thủy ở phòng ngoài.

- Đưa chúng vào đây! - Kiselev quát những người lính.

Những người lính vụng về dẫn hai người bị bắt vào.

- Các ông là ai? - Kiselev hỏi viên sĩ quan.

Người sĩ quan im lặng.

Kiselev phanh ngực tấm áo mưa của ông ta ra. Viên sĩ quan ngửng mặt, vươn thẳng người, dùng tay trái đẩy Kiselev ra. Tay phải của ông buộc băng, trên băng còn thấm những vết máu đen.

- Các ông là ai? - Kiselev nhắc lại câu hỏi.

- Tôi là con của Tổ quốc bất hạnh của tôi. - Viên sĩ quan nói. - Đừng hỏi tôi điều gì thêm nữa.

- Ông là tên phiến loạn. - Merck nói ngọt lịm. - Các ông đã phản lại lời thề và chống lại đức vua thiêng liêng.”

- Như vậy cũng được. - Viên sĩ quan nói và cười khẩy.

Lúc đó Kiselev tiến lại gần Tikhonov và nhìn vào mắt anh.

- Đồ súc vật! - Hắn chửi và giáng nắm đấm vào bộ mặt ướt át của anh lính.

Tikhonov hấp háy đôi mắt.

- Cứ hấp háy mắt mãi, để lọt một tên tội phạm quốc gia. Phạt nó ba trăm roi, phải đánh nó như đánh một con chó.

Khi những người bị bắt và Tikhonov bị giải đi rồi, ông già Thụy Điển tắt ngọn nến, ra khỏi điếm canh và thận trọng đi theo một đường vòng lớn về Mariehamn. Suốt dọc đường, ông vừa đi vừa rên rỉ vừa chửi rủa.

*

* *

Mùa hè, Bestuzhev được thăng lên chuẩn úy. Ngay khi đó chàng đã viết đơn xin từ chức. Đầu tiên, chàng sốt ruột chờ lệnh từ Petersburg tới cho chàng giải ngũ, nhưng sau đó chàng bắt đầu nghĩ tới lệnh đó có phần khiếp hãi và run sợ trong tim. Chàng đã quen với Mariehamn, với những hòn đảo hoang vắng, nơi hoàng hôn còn lưu lại mãi mãi giữa khí trời trong trẻo, quen với nhân dân lầm lì hiền hậu, với những cuốn sách của chàng, với căn phòng sạch sẽ trải thảm bằng bọt biển, với bà cụ chủ nhà và cô gái Anna mảnh mai e thẹn. Giờ đây nghĩ đến cuộc trở về nước Nga, chàng lại nhớ đến mấy vần thơ vẫn vấn vương:

Tôi âm thầm sung sướng nhớ đến đất nước hoang vu,

Nơi tôi đã sống cả tuổi xuân cách xa hạnh phúc.

Anna thường hay trượt tuyết sang đảo bên, đến nhà bạn gái. Sáng sáng thức dậy, Bestuzhev lại nghe thấy dưới cửa sổ giá lạnh, tiếng rin rít của thanh trượt tuyết và giọng nói trẻ trung của Anna, đang nói to lên với bà mẹ lời từ biệt âu yếm.

Bestuzhev trở dậy kéo rèm cửa và lại nhìn thấy quang cảnh quen thuộc đáng yêu. Tuyết phủ từng lớp xốp dầy trên các mái nhà và trên các cành tùng. Cả gian phòng sáng lên bởi ánh hào quang màu da cam của mặt trời, của ánh lửa cháy bập bùng trong lò sưởi. Anna toàn thân phủ đầy tuyết từ trên các cành cây trút xuống, nhún người trượt qua cánh đồng tới rừng thông.

Một hôm Bestuzhev tỏ ý muốn trượt tuyết cùng Anna sang đảo bên, Anna cười và đồng ý.

Họ ra đi từ buổi sáng. Trong rừng còn mờ tối. Những lá thông khô lả tả rơi xuống chân họ. Sâu trong rừng rậm, Anna cắm chiếc gậy trượt vào tuyết và dừng lại.

- Anh nhìn kìa. - Nàng nói. - Có lẽ ở quê anh không bao giờ được thấy cảnh này đâu nhỉ?

Cảnh tượng mở ra trước mắt họ tràn đầy một vẻ đẹp lạ lùng. Trong rừng im lặng như tờ, không một làn gió thổi. Nhưng ở trên cao, trên ngọn rừng, gió yếu ớt đung đưa gạt tuyết từ trên các cành cao xuống. Hàng trăm bông tuyết rơi từ trên xuống, ánh lên bàng bạc trong những tia nắng xiên nghiêng tỏa xuống khu rừng mùa đông, một ánh sáng huyền ảo! Tuyết rơi mắc vào cành cây kẽ lá, rắc những luồng bụi trắng từ từ xuống đất, làm lao xao khắp vùng như một trận mưa khô.

Bestuzhev ngước nhìn Anna. Toàn thân nàng phủ bụi tuyết trắng. Qua lớp bụi ấy, ánh lên làn môi nàng, hàng mi ướt át và đôi mắt xanh không lúc nào thôi cười.

- Anna. - Bestuzhev nói. - Em có thể thật lòng yêu một người Nga không?

Anna quay nhanh lại phía anh, ngoặc chiếc gậy vào thân cây tùng, một thác tuyết mềm mại đổ lên người nàng và Bestuzhev.

- Có chứ. - Nàng nói và nhắm mắt lại. - Nhưng bố không cho em lấy chồng người Nga đâu.

- Vì sao?

- Bố không ưa người Nga các anh.

Bestuzhev tháo chiếc găng đan bằng len xanh và hôn những ngón tay giá lạnh của nàng. Nàng lặng lẽ nâng cằm Bestuzhev và buồn bã nhìn mãi vào gương mặt chàng. Sau đó thúc chiếc gậy, phóng vút qua lùm cây, để lại đằng sau một cơn lốc bụi. Bestuzhev chật vật lắm mới theo kịp nàng.

Ở đảo bên, họ rẽ vào một ngôi nhà mà Bestuzhev có cảm tưởng được xây bằng hổ phách lâu năm, vì những bức tường gỗ đều ngả màu vàng sẫm. Một cô gái tóc trắng vui nhộn, bạn của Anna cho hai người uống sữa nóng.

Anna nói chuyện phiếm nhiều. Tiếng cười của nàng quá ròn rã, nhưng có cái gì đó bối rối. Cô bạn gái mỉm cười hóm hỉnh nhìn Bestuzhev và Anna, người ta thường mỉm cười như thế khi nhìn thấy hạnh phúc của người khác.

Họ trở về chậm rãi và lặng lẽ. Những ngôi sao đầu tiên bắt đầu sáng lên trên mặt vịnh. Ngôi sao rực sáng nhất, ánh lên màu xanh biếc, mọc tít trên cao ở phần trời phía nam xanh nhạt, thẳng ngay trên trục buồm của một chiếc tàu biển lớn.

Anna đã khóc cả đêm sau cuộc đi chơi đó. Đến sáng thì người cha trở về. Ông cụ nói cái gì đó với nàng một cách cáu gắt và đứt quãng. Buổi trưa, Bestuzhev thấy Anna ra hiên đứng hồi lâu không nhúc nhích, nhíu mày lại nhìn ra vịnh. Chàng muốn gọi Anna, nhưng lại không dám.

Chàng quyết định rời quân ngũ xong sẽ không đi đâu hết, mà ở lại đây, trên đảo này, bất chấp sự chế giễu của các bạn cùng trung đoàn và sự cấm đoán của cha nàng, sẽ cưới Anna làm vợ.

*

* *

Cuộc rượu chè của sĩ quan kéo dài quá nửa đêm.

Lò sưởi cháy đều. Trong ánh lửa hắt ra đỏ sẫm, ngoài cửa sổ đêm càng xanh hơn. Thỉnh thoảng một bông tuyết nhỏ bám vào mặt kính bên ngoài, nếu nhìn cho kỹ có thể thấy rõ cấu trúc hết sức tinh vi từng tinh thể tuyết.

Họ uống rượu một cách không hào hứng mặc dù cả Kiselev và Merck đều vắng mặt. Hai người đó đang đi kiểm tra các trạm gác. Họ uống không vui đã từ lâu, từ ngày có những tin tức đầu tiên về vụ binh biến ở Petersburg.

Từ mặt bàn chơi bài, bụi phấn bốc lên, làm khé cổ. Những tay chơi vừa lặng lẽ vứt những con bài xuống, vừa rít những tẩu thuốc đã tàn. Các ngọn nến cháy bừng bừng giữa đêm khuya khoắt, người liên lạc bước vào. Cố để cho đôi ủng không khua thành tiếng, anh ta lại gần Bestuzhev và báo cáo ở phòng ngoài có một cô gái không rõ là ai đang đợi chàng. Vẻ mặt của người liên lạc ngây như đá. Các sĩ quan nhìn nhau và ai đó đã cười nhoẻn sau hàng ria mép. Trước đây, mỗi dịp như vậy sẽ làm nổ ra cả một chuỗi những câu đùa nghịch, những giả thiết tinh quái, nhưng lúc này không ai nghĩ đến chuyện bông đùa.

Bestuzhev nhanh nhẹn đứng dậy, bước ra. Anna đang đợi chàng ở phòng ngoài. Chàng nhìn bộ mặt tái nhợt của nàng với mái tóc ướt dính vào trán, hỏi nhanh bằng giọng thì thầm:

- Có chuyện gì vậy Anna?

Cô gái nghẹn thở.

- Anh Pavel[2], - Lần đầu tiên nàng gọi chàng bằng tên khi nói chuyện. - Bố em vừa ở nhà đèn về. Ở đấy người ta đã bắt giữ một sĩ quan người Nga. Ông ta định vượt qua vịnh sang Thụy Điển. Đó là một người tham gia cuộc nổi loạn. Phải làm gì đây, anh Pavel?

- Bình tĩnh đã nào, Anna. - Bestuzhev nói và cảm thấy tim mình lạnh toát, điều báo trước những quyết định mau chóng và không cần suy nghĩ. Chàng đã từng cảm thấy lạnh ngắt như thế trong trận Borodino và ở Petersburg khi chàng giật lại chiếc mũ ra khỏi tay đại hầu tước. - Vào đây em, ta phải cùng bàn bạc xem nên làm gì.

Chàng nắm tay nàng dắt qua gian phòng. Các sĩ quan nhìn thấy cô gái thì đứng cả dậy. Chỉ có những tay đang chơi bài, không nhận ra Anna vừa đến, vẫn tiếp tục hí hoáy ghi điểm bằng phấn và ném bài xuống bàn.

- Thưa các ngài. - Bestuzhev nói. - Một giờ trước đây trên đảo chúng ta đã xảy ra một sự cố phi thường, đòi hỏi chúng ta phải cùng bàn bạc.

Chuẩn úy Lobov trẻ tuổi và nóng nẩy nhảy bổ đến bên Bestuzhev.

- Có chuyện gì thì nói mau đi, khỏi phải mào đầu.

Tiếng giầy ủng và đinh thúc ngựa lạch cạch đã không cho Bestuzhev nói tiếp. Cánh cửa mở ra, Kiselev mình phủ đầy tuyết bước vào. Y quẳng chiếc áo mưa ướt át xuống ghế, đưa mắt nhìn các sĩ quan bằng một cái nhìn vui vẻ và láu lỉnh. Cái nhìn đó dường như nói rằng: “Đây, các ngài xem tôi đã mang về cho các ngài một món quà bất ngờ như thế nào!”

Merck xuất hiện kế sau Kiselev. Y còn nán lại ở phòng ngoài để chải hết tuyết bám vào giầy. Thoáng nhìn thấy Anna đứng bên cạnh Bestuzhev, y nói với một vẻ lịch sự khinh mạn:

- Chuẩn úy Bestuzhev, ông phải biết rằng tại các cuộc họp mặt của sĩ quan, chỉ có vợ, người nhà, vợ chưa cưới của các ngài sĩ quan mới được có mặt.

Bestuzhev bừng mặt.

- Đây là vợ chưa cưới của tôi. - Anh nói.

Anna nín lặng đứng ngây như chết.

Merck cúi đầu, chạm đinh thúc ngựa lạch cạch, không ai để ý đến trò hề của y. Mọi người nhìn viên trung đoàn trưởng đầy phấn khích.

- Các ngài sĩ quan. - Kiselev giơ tay lên như một diễn viên. - Mới vừa qua đi kiểm tra các trạm gác ở gần hải đăng Erasgrund, tôi và đại úy Merck đã bắt được một tên phiến loạn chạy trốn khỏi Petersburg theo mặt băng vịnh Bothnia định vượt qua Thụy Điển.

Một sự im lặng như tờ bao trùm tất cả, đến nỗi nghe rõ tiếng sàn gỗ cọt kẹt dưới chân ai đó.

- Xét theo quân phục, y là sĩ quan trung đoàn ngự lâm cận vệ, cùng bị bắt với y có một tên lính thủy thuộc hải đội cận vệ chống lại nhà vua. - Kiselev nhìn khắp lượt các sĩ quan, y muốn biết những lời lẽ của y đã gây ra ấn tượng như thế nào đối với mọi người.

Các sĩ quan lầm lì im lặng.

- Tên giết vua đã không chịu nói rõ tên họ của mình. Trong các ngài, có thể có người biết y vì chỗ quen biết hay vì đã cùng làm việc trước đây, nên tôi cho là cần phải đưa hắn ra đây cho các ngài nhận mặt.

Kiselev gõ kiếm xuống sàn. Cửa mở, mấy người lính giải người sĩ quan trẻ tuổi để đầu trần vào phòng. Trên trán ông tím bầm một vệt máu đông. Ông lấy tay vuốt mái tóc rối bù, dính bết trên đầu và chăm chú nhìn quanh các sĩ quan. Cái nhìn buồn bã và điềm tĩnh, cái nhìn của một người sẵn sàng đón nhận cái chết đó làm mọi người ghi nhớ mãi suốt bao nhiêu năm về sau. Viên sĩ quan dừng lại ở bên bàn và vịn bàn tay nhỏ bé gầy guộc lên bàn.

- Tôi hỏi một lần nữa. - Kiselev hách dịch nói. - Ông phải khai rõ ông là ai, tên là gì?

- Tôi chỉ có thể nói lại điều tôi đã nói một lần nữa. - Người sĩ quan đáp. - Tôi là con của Tổ quốc bất hạnh của tôi. Vì hạnh phúc của Người, tôi nguyện hiến dâng đến giọt máu cuối cùng.

Ông lảo đảo, tay run rẩy cố bám vào mặt bàn. Bàn tay gầy guộc của ông tuột khỏi mặt bàn. Bestuzhev lao về phía người bị bắt, đẩy cho ông chiếc ghế.

Viên sĩ quan ngồi xuống, chống khuỷu tay lên bàn, bàn tay ôm lấy đầu. Ông đã kiệt sức đến mụ đi. Chiếc áo mưa của ông tuột khuy và các sĩ quan nhìn thấy cánh tay phải quấn lớp băng thô xù đã khô cứng. Mẩu bánh mì đen rơi khỏi vạt áo và lăn trên sàn nhà. Lobov vội nhặt lên và để cạnh người bị bắt.

Kiselev lại nhìn các sĩ quan của mình và chau mày lại. Y nhìn thấy những khuôn mặt tái đi, chăm chú nhìn vào những đôi mắt đầy lo âu và đồng cảm, bèn quyết định chấm dứt mau vở kịch của mình.

- Người ta bị thương. - Lobov nói to. - Thật là nhẫn tâm.

- Ai trong các ngài nhận ra tên bạo loạn này? - Kiselev hỏi, tuồng như không nghe thấy Lobov nói.

Các sĩ quan không trả lời.

Merck thốt lên một cách cay độc:

- Các ngài sĩ quan chắc là dùng rượu quá nhiều nên trí nhớ bị mụ đi rồi.

- Người ấy bị thương. - Lobov kêu lên. - Các ông không thấy sao?

Bestuzhev tiến lên một bước, nhìn thẳng vào đôi mắt nhợt nhạt đi vì tức giận của Kiselev, điềm đạm nói:

- Có những đạo luật tách biệt ta ra so với loài vật. Một trong những đạo luật đó là lòng nhân đạo đối với tù binh. Người sĩ quan này bị thương và đang đói. Những ngón tay của ông ta đã bị rộp vì lạnh. Sao ông lại có quyền bầy ra trước mặt chúng tôi một trò hề đê tiện và ngược đãi con người như vậy? Ông tìm sự đồng tình của chúng tôi vô ích, không có đâu.

Các sĩ quan nhích lại gần Bestuzhev và im lặng. Lưng người bị bắt rung lên và đầu ông đổ gục xuống bàn. Anna chạy lại gần ông ta, ôm lấy hai vai, vỗ về bằng tiếng Nga và tiếng Thụy Điển lẫn lộn.

- Lại còn ai thế này? - Kiselev hỏi và đẩy Anna ra khỏi người bị bắt. - Tống cổ ngay con đĩ này đi!

- Cô hãy đi đi. - Người bị bắt khẽ bảo Anna. - Kẻo rồi vì tôi mà cô phải chịu sự sự lăng mạ.

Anna chậm rãi đứng dậy và đi ra. Mặt cô bừng lên sắc đỏ nặng nề.

Bestuzhev lại gần Kiselev và thẳng tay tát vào mặt y.

Kiselev rút kiếm. Các sĩ quan bổ nhào lại giữ chặt tay y.

- Tôi yêu cầu. - Kiselev gào lên nhưng trong tiếng ồn ào chung quanh không ai nghe rõ lời y.

- Tôi sẵn sàng đấu súng bất cứ lúc nào ngài muốn. - Bestuzhev nói và đi ra.

Kiselev quên mất rằng là trung đoàn trưởng, y không có quyền đấu súng với cấp dưới.

Anna đang khóc đợi Bestuzhev ở ngoài hiên.

Merck gọi lính gác và ra lệnh giải người bị bắt đi. Các sĩ quan giải tán quên cả tắt nến, chúng cháy mãi đến tận sáng, làm căn phòng mù mịt muội khói.

Khi Anna và Bestuzhev bước xuống khỏi hiên nhà, gió nam ầm ĩ gầm thét nổi lên mỗi lúc một dữ dội. Tuyết đọng trên các trục buồm lạo xạo rơi xuống boong tàu. Những ngọn đèn nhấp nháy rồi tắt dần. Băng rạn vỡ trong vịnh như những loạt trọng pháo nổ từ xa, gió đang phá vỡ chúng.

Gió ấm và nặng nề, làm bật cả hơi thở, mang đến mùi tuyết tan.

Bestuzhev không nói với Anna một lời nào về điều xảy ra sau đó. Nàng chìa tay cho chàng, chàng nắm chặt chỗ gần khuỷu tay nàng. Qua tiếng gió rít và tiếng gầm của bão táp, chàng vẫn nghe thấy tiếng trái tim nàng đập liên hồi trong bàn tay ấm áp.

– Anna, - Bestuzhev nói, - em đã an ủi con người bất hạnh, không còn hy vọng được sống sót. Tình yêu của anh đối với em thật vô hạn, đến nỗi anh không có lời nào để diễn tả nổi.

Anna cúi thấp đầu và không trả lời.

Gió ào ào thối trên thành phố, như muốn xóa sạch và cuốn lên miền Bắc cái đêm tối nặng nề mù mịt không thể chịu đựng được này với cả nước mắt, muội nến, sự tàn bạo và tình yêu con người. Gió cuốn bay những giọt lệ hiếm hoi trên mi mắt Anna. Gió đôi lúc trở nên dữ dội đến nỗi tưởng rằng nó sẽ thổi bay cả đêm tối ngay bây giờ và thay vào đó sẽ là bầu trời rạng đông hửng sáng với những đám mây nhẹ nhàng trôi.

Trong nhà Anna, cửa sổ thắp sáng, đám tuyết trước hiên có nhiều vết chân người dẫm. Ở phòng ngoài bốc mùi thuốc lá.

- Khách đến nhà em muộn quá vậy? - Bestuzhev bảo Anna.

- Đó là các cụ già đến tụ họp với bố em.

Bestuzhev đi vào phòng mình, nhưng chàng vừa kịp bỏ áo khoác ngoài và cởi thanh gươm ra, thì Anna đã gọi chàng phía ngoài cửa; chàng bước ra.

- Bố em mời anh ra có chuyện hệ trọng, – nàng nói. - Cụ có thể vào chỗ anh. Nhưng ở ngoài này ít nguy hiểm hơn. Các cửa sổ mở ngay ra vườn.

Bestuzhev hồi hộp đi theo Anna. Cụ già đợi chàng ở dưới bếp. Ông nặng nề đứng dậy đón chàng. Cùng với ông, có mấy người Thụy Điển râu bạc, dáng người vụng về cùng đứng dậy sau bàn. Bestuzhev nhận ra họ - đó là những thuyền trưởng của những chiếc tàu trú đông ở Mariehamn. Chỉ có một người khác hẳn những người kia. Ông ta đen, người thấp và mắt cười láu lỉnh. Đó là thuyền trưởng của chiếc tàu buồm Pháp, Jacques Piner cùng với con tàu bị mắc kẹt vì mùa đông ở Mariehamn và đang sốt ruột chờ xuân đến.

- Thưa các ngài, tôi có thể giúp ích gì cho các ngài, - Bestuzhev bối rối hỏi.

- Thú thực là chúng tôi định hỏi ngài câu đó đấy, - Piner đáp lại bằng tiếng Pháp. Chúng tôi có thể có ích gì cho ngài chăng?

Bestuzhev lơ mơ đoán được các viên thuyền trưởng gọi chàng ra để làm gì.

- Chúng tôi tin ngài, - bố Anna nói, - và chúng tôi sẽ vui sướng nếu mình không nhầm. Gió đang phá vỡ băng đấy.

Ông già nín lặng nhay nhay đôi môi khô.

- Cứ hai ngày gió như thế này nữa, - ông nói thêm, - thì biển sẽ thông đến tận Xtốc-khôm.

- Các ông tướng của ngài đã phạm phải một sai lầm lớn, - người thuyền trưởng đi đôi ủng vàng, cổ đen bóng gập lên, nói với Bestuzhev. – Họ không để ở Mariehamn một chiếc tàu chiến Nga nào.

- Chiếc tàu chiến đã khởi hành rời Abo từ lâu, nhưng nó bị mắc kẹt vì băng, người thuyền trưởng có chòm râu đen trả lời bằng tiếng Thụy Điền, Bestuzhev hiểu họ một cách khó khăn. Bestuzhev dò hỏi nhìn Anna và nàng khẽ dịch lại cuộc nói chuyện chậm rãi của họ.

- Chiếc tàu "Valkyrie" của tôi, - người thuyền trưởng đi ủng vàng nói, - loại tàu chiến nhẹ nhất cũng không thể theo kịp. Nhưng may mắn là nó không có đây.

- Thưa các bạn, - Bestuzhev nói. - Chúng ta sẽ không chần chừ nữa. Ai là người sẵn sàng ra biển đầu tiên?

- Ai cũng sẵn sàng, - Piner vừa rút chiếc tẩu ra khỏi miệng vừa nói. - Nhưng tôi làm điều đó dễ dàng hơn tất cả. Tàu tôi chạy dưới ngọn cờ của quốc vương Pháp không bị theo dõi.

- Để cho ông ấy đi, chúng ta nhường cho ông bạn người Pháp, - người thuyền trưởng già nhất nói và mọi người đều im lặng. - Nhưng hãy để ngài sĩ quân Nga đừng hiểu nhầm rằng chúng tôi nhường nhau một cách thích thú đâu. Không. Mỗi người chúng tôi đều muốn giải thoát cho người đồng bào của ông khỏi giá treo cổ. Mỗi chúng tôi đều hiểu rằng, một khi có người nào chiến đấu cho tự do, người đó chiến đấu cho cả chúng tôi nữa. Chúng tôi là người Thụy Điển, Phần Lan, Pháp. Chúng tôi kính trọng ông ấy. Mỗi chúng tôi đều biết im lặng. Còn nói đến cái sợ... - Ông già cười khẩy... - nói đến cái sợ thì tốt hơn chúng ta để đến lần khác, sau những vại bia. Đã bao lần cái chết bám vào thành tầu của chúng tôi nhe răng ra hăm dọa, thậm chí chúng tôi không đếm hết được.

- Nhiệm vụ khó khăn nhất đặt lên vai ngài. - Piner quay về phía Bestuzhev nói. - Ngài phải giải thoát viên sĩ quan và người lính thủy khỏi bọn lính canh và kín đáo đưa họ lên con tàu của tôi. Nếu gió không ngừng thổi thì cùng nhất là ngày kia, tôi sẽ nhổ neo vào ban đêm.

- Được, - Bestuzhev trả lời. - Tôi xin cảm ơn sự tin cậy của các ngài.

Các ông già đứng dậy, rít tẩu thuốc. Bestuzhev xiết chặt tay họ và khoác áo mưa lên người. Cố để ủng bước không thành tiếng, ho rẽ đi theo lối cửa mở ra vườn.

Bestuzhev trao đổi thêm mấy phút với Piner. Phải xem trước những trở ngại trong việc chạy trốn để tìm cách khắc phục. Ra về, Piner nháy mắt với Bestuzhev và vỗ vào tay áo anh.

- Con tàu của tôi lớn đấy. Có đủ chỗ cho mọi người. Tôi vui sướng nhận thêm một sĩ quán nữa và nếu đôi mắt thuyền trưởng của tôi không nhầm, cả cô gái tuyệt vời, vợ chưa cưới của ông ta nữa. Có phải thể không? Tôi tin những người đang yêu: họ rất độ lượng. Đừng cho là tôi nói đùa. Tôi đã sống qua cuộc đời đầy những sự bất ngờ và phản trắc. Vì vậy tôi dám khuyên ngài: Hãy trốn khỏi nơi đây thôi.

- Ta chưa nên nói đến chuyện ấy bây giờ. Tôi còn phải suy nghĩ đã.

Người Pháp chia tay và ra về.

Bestuzhev quay về phòng riêng, châm nến và ngồi vào bàn. Hai tay chàng ôm lấy đầu suy nghĩ: còn cuộc đầu súng sẽ thế nào?

Nếu ngày mai chàng chết trong cuộc quyết đấu, cuộc chạy trốn sẽ không thực hiện được, viên sĩ quan bị bắt và người thủy thủ sẽ bị giải ngay về Petersburg khi có cơ hội đầu tiên và sẽ bị treo cổ ở đó. Điều đó không được để xảy ra.

Nếu từ chối đấu súng, chàng sẽ bị mọi người coi là một kẻ hèn nhát. - Kiselev sẽ đưa chàng ra tòa án binh vì tội xúc phạm nặng nề trung đoàn trưởng, cuộc chạy trốn cũng bị lỡ dở, nỗi ô phục sẽ trút lên đầu Bestuzhev và dầu độc cả quãng đời còn lại của chàng.

Chỉ còn lại một cách: hoãn cuộc đấu tới sau khi cuộc chạy trốn đã được hoàn thành. Nhưng điều đó có nghĩa là mọi ý nghĩ bí mật về cuộc ra đi cùng với Anna và cuộc sống tràn đầy niềm vui và phiêu bạt cũng sẽ tan vỡ.

Sau cuộc nói chuyện với Piner, chàng đã thấy mình cùng Anna đứng trên boong của chiếc tàu buồm lướt đi trước những dải bờ biển phương nam mọc đầy những vườn quả. Trong những đồng bằng ven bờ và những vùng cao rải rác các rừng bưởi, các xóm làng và các lâu đài.

Nước sôi sục sau đuôi đầu. Các thủy thủ mỉm cười nhìn người thiếu nữ trẻ tuổi, nhường đường cho nàng đi. Nàng thận trọng dìu trên mặt boong người sĩ quan cánh tay phải quấn băng, ông đã trả lại cho cuộc sống bởi sự cố gắng chung của họ. Những thành phố cổ xưa nhô trên mặt nước, làm xao xuyến lòng người. Những mái nhà của thành phố lấp lánh dưới ánh mặt trời. Tiếng hát của những người chài lưới vẳng lại từ sau làn sương sớm.

Bestuzhev quyết định hoãn cuộc quyết đấu đến khi viên sĩ quan và người thủy thủ được cứu thoát. Ý nghĩ về hai con người được cứu sống sẽ sống trong trái tim của Anna và làm cho họ hạnh phúc.

Bestuzhev tư lự. Chàng không nghe thấy tiếng nói của cụ già và Anna sau bức tường và tiếng chân của Anna đang lại gần cửa.

- Pavel, - nàng nói. - Bố vừa gọi em và nói là muốn cho em và anh được hạnh phúc. Bố nói anh sẽ là người chồng xứng đáng.

Bestuzhev đứng dậy.

- Chúng ta chịu ơn người tù binh hạnh phúc này. - Anna nói tiếp. - Chúng ta sẽ cứu họ bằng bất cứ giá nào, phải không anh Pavel?

- Anh xin thề! – Bestuzhev đáp lại.

Ánh dương xanh nhạt bí ẩn rọi vào căn phòng và Anna nom nhợt nhạt hẳn đi trong ánh sáng ấy. Nàng mỉm cười. Bestuzhev bước lại phía nàng một bước, giữa lúc đó, tiếng trống bất ngờ khua vang ngoài cửa sổ. Tiếng trống khua vội vã, liên tiếp, nhưng không át được tiếng người kêu vọng lại từ xa. Bestuzhev dừng lại.

- Chuyện gì thế? – Anna kêu lên, chạy bổ lại với Bestuzhev.

Nàng khiếp hãi nhìn ra ngoài cửa sổ. Ngoài đó gió đang thổi, những lớp khối đen từ ống khói tỏa ra và trong không khi biếc xanh, tiếng trống càng nổi lên thôi thúc hơn.

- Đây là bọn phạt đòn - Bestuzhev tại mặt đi trả lời. Anna từ từ quỵ xuống sàn: nàng bất tỉnh.

Semyon Tikhonov bị đánh thức dậy lúc sáng sớm. Viên hạ sĩ để ngỏ gian phòng của lính gác. Gió ẩm ướt quét trên mặt sàn làm những mớ rơm kêu xào xạc. Những người lính thiếu ngủ đứng chen chúc ngoài hiên, súng lịch kịch và ngáp dài.

Tikhonov nhổm dậy, vội vã đi ủng.

Anh nhanh nhẹn mặc quần áo và đứng vào hàng. Viên hạ sĩ xoay người anh như con bù nhìn nhìn bốn phía và bảo:

- Ôi, Ivan đau khổ, cầm lấy súng chứ?

Tikhonov không hiểu mang súng theo để làm gì nếu người ta đưa anh đến chỗ phạt đòn, nhưng cũng cầm lấy khẩu sáng.

Chúng giải anh đi. Tuyết lạo xạo rắc xuống mái nhà. Những con quạ kêu lên như trước cơn mưa. Khói từ các ống khói xả xuống mặt đất.

"Chẳng lẽ đang là mùa xuân ư?" - Tikhonov thầm nghĩ khi bước trên đám bùn nhão do tuyết đang tan hòa lẫn với nước. Trong các căn nhà vẫn tối om.

"Ít ra cũng phải một trăm đón không ít hơn - Tikhonov nghĩ. - Trung đoàn trưởng nóng nảy quá. Ba trăm đòn ai mà chịu nổi! Nếu thế lấy đá đeo và cổ rồi nhảy xuống hố băng còn hơn.''

Đám người đi ra bài tập. Hai hàng linh xếp sẵn, đứng quay mặt vào nhau, tay cầm gậy. Những lính đánh trống xếp hàng một bên. Merck vừa hút tẩu, vừa đi đi lại lại bên cạnh họ. Thỉnh thoảng hắn lại lấy mũi giày khẽ đá vào chân người đánh trống này hay người kia - cho thẳng hàng.

Tikhonov bị dẫn lại gần Merck.

- Cởi quân phục ra, người anh em. - Merck nói, chăm chú nhìn Tikhonov run rẩy chậm chạp cởi những chiếc khuy và cởi bỏ bộ quân phục. - Chà, đồ ăn hại, áo lót rách rưới thế kia há? Thôi, chịu đòn cho giỏi nhé.

- Thưa ngài, tôi xin cố gắng - Tikhonov kêu lên bằng giọng nói cứng như gỗ và cởi chiếc áo sơ mi.

- Toàn đội, nghe lệnh! - Merck quát lên và quay gót giầy.

Những người lính thắng người ra và lặng đi. Những người lính đánh trống giơ đùi trên mặt trống bọc da xám. Chỉ có chỗ giữa mặt trống mới thâm lại vì dùi gõ vào.

Viên hạ sĩ và một người lính ria mép màu hung buộc tay Tikhonov vào báng khẩu súng của anh, nắm lấy nòng, kéo Tikhonov đến gần hàng quân. Tikhonov bước đi chậm chạp như người mất hồn.

- Toàn đội nghe lệnh! - Merck quát lên một lần nữa. Theo lệnh trung đoàn trưởng dẫn tên lính Tikhonov qua hàng quân. Đánh ba trăm gậy. Bắt đầu!

- Lạy quan lớn! – Tikhonov kêu lên và ngã quỵ xuống tuyết ướt.

- Bắt đầu! - Merck vung chiếc găng.

Tiếng trống vang lên loạn xạ. Viên hạ sĩ và người linh râu nâu cần nòng súng kéo Tikhonov. Tikhonov ngã xuống, bò đi vài bước trên tuyết, đứng dậy, lảo đảo đi vào giữa hai hàng quân chật hẹp. Tiếng gậy vụt đầu tiên rít lên.

- Một! – viên hạ sĩ khàn khàn đếm.

Lại một đòn nữa kêu vút.

- Hai! – Tên lính ria nâu vui vẻ kêu lên.

Khi đó Tikhonov quay bộ mặt đẫm máu đáng sợ về phía Merck kêu lên như xé giọng.

- Sự thật không che lấp được! Không giam giữ được, anh em ạ! Bọn bất nhân khát máu sẽ đến ngày tận số!

Anh đứng chững lại. Máu chảy thành dòng trên lưng. Tiếng trống vẫn vang lên rền rĩ. Môi những người lính run lập bập.

Đến ngọn đòn thứ năm mươi. Tikhonov ngã xuống. Người ta xốc anh lên. Những nắm tuyết đẫm máu dính vào lưng.

Thêm mấy gậy nha, anh lại ngã xuống. Anh bị kéo lê trên tuyết, thở phì phò. Những người lính dạ gậy xuống không cần có lệnh. Những tay lính đánh trống cũng dừng lại.

- Không ai đánh kẻ đã gục. - Merck nói lắp bắp và lại gần Tikhonov.

Viên hạ sĩ và tay lính ria nâu lật Tikhonov ngửa mặt lên. Merck cúi xuống. Tikhonov mở đôi mắt mờ đục không còn sự sống nhìn bầu trời. Sau đó anh hướng cái nhìn sang Merck, gắng gượng nhổm dậy, hàm anh trệu trạo như đang nhai một miếng bánh cứng

- Xin quan lớn tránh ra, - viên hạ sĩ nói, - kẻo không có chuyện chẳng hay.

Merck nhanh nhấu đứng thẳng người dậy. Tikhonov muốn nhổ vào mặt y, nhưng nước bọt lẫn máu chảy xuống cằm và đọng lại trong đám râu không cạo.

- Mang nó đi - Merck nói, quay mặt chậm rãi bỏ đi.

Những người lính nhanh nhẹn kiêng Tikhonov đặt lên tấm áo khoác và đưa vào bệnh xá trung đoàn.

Buổi sáng, các giám thị của Kiselev đến gặp Bestuzhev. Họ thấy cánh tay phải của anh quấn băng.

- Tôi xin phép các ngài hoãn cuộc đấu súng lại hai ngày, - Bestuzhev nói. - Đêm hôm qua trong khi đi về nhà, tôi bị ngã nên cánh tay bị thương. Xin hãy tin là việc trì hoãn này làm cho tôi rất khó chịu, nhưng lý do hoàn toàn chính đáng. Tôi không bắn được. Tôi sẽ cố gắng hết sức để chữa khỏi cánh tay trong một thời gian ngắn nhất.

- Chúng tôi sẽ thỏa thuận với ngài Kiselev sau, - một giám thị, thiếu úy hồi hưu người Thụy Điển, hiện sống ở mũi đất gần Mariehamn trả lời. - Và sẽ báo quyết định của ông ta qua các giám thị của ngài. Xin cho tôi được biết tên của họ.

Bestuzhev nêu tên Lobov và viên bác sĩ trung đoàn. Buổi sáng chàng đã kịp gửi một mẩu giấy báo tin cho họ.

- Có thể cử bác sĩ riêng của tôi đến thăm ngài chăng? - Chia tay, người Thụy Điển nhã nhặn đề nghị.

Bestuzhev đỏ mặt.

- Cảm ơn ngài, – chàng nói giọng dứt khoát. - Tôi còn đi lại được, nếu cần, có thể tự đến bệnh xá trung đoàn.

Những người giám thị cúi chào rồi ra đi.

Khoảng một giờ sau, bác sĩ trung đoàn Traube, một người mắt cặp kèm, má phủ đầy lông hồng, đeo mắt kính to, đi trên một chiếc xe trượt do con ngựa còm chở nước kéo đến.

Bàn tay mũm mĩm của ông âu yếm nắm tayBestuzhev, và nói rằng Kiselev – một tay chuyên gây gổ, hay đấu súng, đòi hỏi cuộc đấu phải diễn ra chậm nhất là sáng mai, đồng thời hai đấu thủ đều bắn bằng tay trái.

Trái tim Bestuzhev như hẫng xuống. Chàng đồng ý. Traube định xem cánh tay phải của Bestuzhev, nhưng chàng gạt đi.

Traube tháo kính và lau hồi lâu bằng chiếc khăn tay đỏ, hấp háy hai hàng mi trắng che gần hết cả đôi mắt. Mặt người bác sĩ cau lại, khóe mép run run.

- Pavel Aleksevich – ông cúi mặt xuống nói, - Thế này là thế nào? Chẳng hóa ra đúng như các cụ già nói: bắt đầu đến những ngày đen tối rồi chăng?

- Vâng, một thời kỳ đen tối.

- Biết bao sự kiện đau buồn. Ban đêm người ta đưa đến chỗ tôi hai người bị bắt.

- Sao lại đưa đến bệnh xá?

- Người sĩ quan, như anh có thể đã nhận thấy, có một vết thương đã lâu ngày trên cánh tay, cần được cứu chữa. Ông ta đã kiệt sức. Người lính thủy chân bị rộp vì lạnh.

- Bác sĩ ơi, - Bestuzhev nói. - Chữa cho họ làm gì nếu để sau đó họ lại bị đem treo cổ.

Viên bác sĩ đánh rơi chiếc khăn tay.

- Chẳng lẽ anh cho rằng tôi phải khước từ việc chữa chạy cho họ ư?

- Như thế thì cao thượng hơn. Giữ sức khỏe cho người ta làm gì nếu cái chết không tránh khỏi sẽ đến với họ?

- Có thể hoàng đế tha tội cho họ chăng?

- Không bao giờ!

- Tôi chữa cho họ vì hy vọng rằng cuộc sống sẽ được trả lại cho họ.

- Bởi ai?

Viên bác sĩ lại tháo cặp kính ra và run rẩy lau chùi.

- Bởi ai cơ chứ? - Bestuzhev nhắc lại. - Họ làm sao chạy thoát nếu không có ai giúp đỡ.

- Thật là điên rồ! - Ông thầy thuốc thốt lên. - Các cửa ra vào và cửa sổ đều có lính gác. - Khi đó Bestuzhev ghé sát vào tai người thầy thuốc và nói khẽ:

- Nếu bác sĩ còn một chút lòng nhân ái và danh dự, nếu lương tâm không cho phép bác sĩ trở thành đồng lõa của cuộc hành hình mà bác sĩ đang đóng vai thì xin hãy nghe tôi...

Viên bác sĩ kinh hãi nhìn ra cửa sổ, rồi nhích lại gần Bestuzhev. Họ chuyện trò với nhau hồi lâu. Bestuzhev vừa đứng lên vừa nói:

- Tối nay tôi sẽ đến thăm bác sĩ ở bệnh xá. Tôi cần được biết vị trí nơi đó và nhân thể thăm anh lính Tikhonov trung đội tôi. Hôm nay cậu ấy vừa bị phạt đòn.

- Nếu vậy phải đến mau lên, viên bác sĩ nói, - cậu ta chẳng còn sống được mấy chốc đâu. Mất máu nhiều quá!

Viên bác sĩ tạm biệt rồi ra về. Con ngựa gầy chở nước từ từ kẻo chiếc xe đưa ông về bệnh xá.

Bestuzhev lại gần cửa sổ, áp trán vào mặt kính lạnh lẽo.

- Máu... - Anh buồn bã nói. – Máu đọng trong trái tim.

Buổi tối Anna cùng Bestuzhev ra khỏi nhà. Anna lo lắng suốt cả ngày. Nàng đã thấy các sĩ quan đến tìm Bestuzhev, cả viên bác sĩ, nhưng không hề hỏi han điều gì. Nàng nghĩ là những điều đó có liên quan đến việc chuẩn bị cho việc cứu tù nhân.

Từ sáng đến xẩm tối, nàng ngồi bên lò sưởi rực lửa cuộn mình trong tấm khăn choàng, bỏ cả bữa trưa, thậm chí cả tách cà phê. Mỗi tiếng động lại làm nàng giật bắn người lên. Nàng luôn tơ tưởng thấy tiếng trống khua.

Trong một ngày mà nàng sút hẳn đi, một nếp nhăn nhỏ hiện lên giữa hai hàng lông mày luôn động đây và dướn lên. Đôi mắt mỗi lần nhìn Bestuzhev lại hiện rõ vẻ lo buồn của người mẹ.

Bestuzhev không chịu được cái nhìn của nàng, đưa mắt lảng sang chỗ khác. Chàng cảm thấy hết sức bối rối vì phải giấu kín cuộc đấu súng.

Chàng không ngừng nghĩ đến Anna. Cảm thấy rất đỗi khổ tâm vì tình yêu đã đến với họ sao quá muộn màng và không may đến vậy, đúng vào những ngày lộn xộn đen tối này. Vậy mà chỉ cách đây không lâu thôi, nó còn nở hoa đầy quyến rũ, giữa cảnh trời đông dịu dàng tươi mát, còn làm cho trái tim nóng hổi phải thổn thức dồn dập dưới tiếng nến cháy tí tách, tiếng cười như trẻ thơ của các cụ già hiền hậu, dưới tiếng chuông đồng hồ cổ xưa của ông cha.

Anna và Bestuzhev đi ra ngoại ô thành phố, tới sát bờ biển. Chân ngập trong tuyết.

Trên bờ biển, Anna kéo cánh tay Bestuzhev và chỉ ra mặt biển. Sau một vệt hẹp lớp băng dầy nứt ra, biển đã rì rào những lớp sóng đen ngầu bọt và gió phả bụi nước vào mặt.

Những chiếc tàu hiện lên không xa. Chúng rung rinh trước những cơn sóng vỗ. Những dây xích khi thì chìm xuống mặt nước đen ngòm, khi thì loảng xoảng chồm lên, bọt nước chảy xuống ồn ào.

Gió nam thồi về. Tuyết ướt lác đác rơi. Nó tan ra ngay trên mặt vịnh và phủ lớp bụi mù dữ dội. Các con tàu đã thắp đèn, ánh sáng mờ mờ của chúng càng làm cho người ta thấy khó chịu và không cần thiết.

Anna và Bestuzhev thong thả đi về thành phố. Gần bệnh xá họ chia tay nhau. Bestuzhev muốn vào bệnh xá.

- Sao anh buồn vậy, anh Pavel? - Anna hỏi khi chia tay nhau và mãi không muốn buông bàn tay Bestuzhev ra.

- Có người lính sắp chết trong bệnh xá, - Bestuzhev nói lảng. - Em cũng biết đấy.

- Thực không có gì khác làm anh lo lắng đấy chứ, anh thân yêu?

- Không đâu, Anna.

Bestuzhev sợ ngước mắt lên. Anna thở dài.

- Thôi được, anh về thật mau nhé, em sẽ đợi. Không có anh, em thấy sợ và cảm thấy trên đảo chẳng có một ai. Anh về ngay nhé!

Bestuzhev gật đầu, quay đi, nhanh nhẹn đi vào bệnh xá. Anna nhìn theo theo anh.

Bestuzhev bước vào căn phòng giá lạnh. Tikhonov nằm úp sấp trên một chiếc giường sắt. Nhìn thấy Bestuzhev, anh t