Phần II
Cuối năm 1916, trong thời gian chiến tranh chống Đức, hoa tiêu Alexander Shchedrin vừa tốt nghiệp trường trung cấp hàng hải, được cử đến hạm đội phóng ngư lôi ở đảo Aland.
Mùa đông năm ấy ấm áp. Ngoài Reval, biển đã hoàn toàn tan băng. Shchedrin đứng trên boong tàu nhìn lên bờ biển bóng tối phủ mờ hồi lâu. Mẹ anh còn lại đó, ở Reval. Bà đã đến Petrograd để tiễn con trai và tạm trú trong một khách sạn không sang trọng.
Cha Shchedrin, một bác sĩ hàng hải, đã mất từ lâu. Mẹ anh sống bằng tiền trợ cấp. Bà còn giúp đỡ các chị em, các bà cô, bà thím của Shchedrin và tiền trợ cấp không phải lúc nào cũng đủ. Chỉ riêng ở Petrograd đã có tới ba bà cô. Ngoài đó ra còn phải gửi cho một bà cô ở Vlapostok và một bà nữa ở Kiev.
Các bà cô đều là những bà gái già hoặc bà góa với một bầy con trên tay. Gia đình sống hòa thuận, các cô ở Petrograd dạy thêm môn nhạc và tiếng Pháp. Các bà lúc nào cũng vội vàng, lo lắng, chạy đến các lớp học và các thư viện, ngồi lịm đi ở các buổi hòa nhạc, bao giờ cũng thương một ai đó, bao giờ cũng giúp đỡ người nào đó.
Hầu hết các bà cô đều là những người tốt bụng, tuy không xinh đẹp. Chính điều đó, theo lời mẹ Shchedrin, đã phá hại đời riêng của các bà. Một bà hát rất hay, có giọng của diễn viên ca kịch, nhưng không được lên sân khấu vì bị cận thị. Không có kính, bà không nhìn thấy gì và trở nên rất lúng túng như lột đứa con nít. Người như vậy thì lên sân khấu làm sao được!
Mặc dù không xinh đẹp, thời son trẻ, các bà đều có những mối tình sôi nổi. Nhân vật của những câu chuyện này đã rụng tóc từ lâu, đã có vợ con, ngồi trong nghị viện nay chỉ huy các trung đoàn, tuy vậy mỗi lần các bà ngẫu nhiên gặp các ông ở ngoài phố vẫn đỏ bừng mặt lên như các cô nữ sinh, sau đó chạy về chỗ mẹ Shchedrin đóng chặt cửa buồng, rồi khóc thút thít mãi trong đó.
- Vì lẽ gì mà trời ban thưởng cho ta những mụ ngố này vậy! - Mẹ Shchedrin bực mình la lên ở ngoài cửa.
Nhưng Shchedrin biết mẹ chỉ vờ vĩnh thế thôi.
Mấy chị em không thể sống thiếu nhau. Mẹ Shchedrin được coi như người an ủi chung của mọi người, bà hiền hậu, biết suy xét và tự coi mình là một con người cách mạng.
Các bà cô cũng hay đồng bóng. Vừa khóc lóc xong chừng độ một giờ đồng hồ, vào giữa bữa ăn trưa, các bà đã phẫn nộ nói về viên bộ trưởng bộ giáo dục đần độn Kasso.
Như nhiều gia đình khác, nhà Shchedrin có truyền thống gia tộc riêng. Khi Alexander mới lớn lên, mẹ đã kể cho anh là ông nội anh, Nikolai Shchedrin, đã tham gia cuộc khởi nghĩa của những chiến sĩ tháng Chạp, bị thương vào tay và đã bỏ trốn ra nước ngoài. Cùng với một thủy thủ thuộc đội tàu cận vệ, ông đã chạy về Abo và từ đó theo mặt biển đóng băng ở vịnh Bothnia vượt sang Thụy Điển. Ở đảo Aland ông đã bị bắt, nhưng sau đó đã chạy thoát sang Stockholm nhờ một chiếc tàu buồm Pháp.
Cũng ngay lúc đó, bà mẹ lấy từ trong hòm ra cho Shchedrin xem bức tranh màu một sĩ quan trẻ tuổi. Người sĩ quan nhợt nhạt đứng ở một gian phòng trống không, tay chống lên đuôi kiếm, mặc quân phục đen. Phía sau, sau lớp cửa kính là những đám mây trắng và những thửa vườn bao phủ một lớp khói xám mờ, không hiểu vì sao bức ảnh tạo nên một cảm giác đơn độc.
Shchedrin không tin lắm những truyền thuyết gia tộc. Đối với các bà cô có vẻ hoan hỉ, anh tỏ ra độ lượng, thậm chí giễu cợt nữa.
Các cô gọi Alexander Shchedrin là con mọt sách vô tích sự, rất bực dọc vì thằng cháu quá ham mê các sách giáo khoa, ngồi thâu đêm vẽ bản đồ địa dư, lẽ ra phải đọc Turgenev hay ngâm thơ của Fet mới phải.
Khi Shchedrin nhận được lệnh cử đến đảo Aland và cùng mẹ rời Petrograd đi Reval, các bà cô đã ra cả ga Baltic để tiễn.
Các sĩ quan hải quân đi cùng toa với Shchedrin mỉa mai nhìn cả một bầy các bà cô líu ríu chung quanh Shchedrin. Các bà làm dấu phép, căn dặn anh đủ điều và hồi hộp đánh rơi cả kính và túi xách. Shchedrin đỏ mặt, sốt ruột chờ hồi chuông thứ ba.
Nhưng khi tàu chuyển bánh, anh bực với chính mình, bực là đã xấu hổ vì các cô trước mặt các sĩ quan, và suốt dọc đường anh lạnh ngắt.
Ở Reval, trong gian phòng khách sạn chật hẹp, không khí có vẻ mờ đục đi giữa bốn bề che rèm cửa nhung và mặt sàn trải thảm. Mẹ Shchedrin ngồi trên đi-văng nói với anh:
- Sasha[1], con thân yêu, đến đảo Aland con thử cố tìm những vết tích của ông Nikolai. Dù sao cũng thú vị lắm chứ con?
- Thưa mẹ, vâng.
Trước đó, bà mẹ cứ khóc mãi và Shchedrin mừng là mẹ đã khuây bớt những ý nghĩ về chiến tranh và nhớ tới ông nội.
Ở Reval trong thời chiến cấm các nhà không được thắp đèn nến mà rèm cửa chưa được che kín. Họ ngồi trong bóng tối và thành phố cổ ở ngoài cửa sổ chìm trong bóng tối tĩnh mịch. Những ngôi sao xanh lập lòe trên cao, từ ngoài phố vọng lại tiếng bánh xe lăn khe khẽ.
- Chưa bao giờ mẹ nghĩ trước là sẽ ngồi với con ở một khách sạn Reval, - mẹ anh nói - Và tiễn con ra mặt trận. Tất cả những điều đó sẽ kết thúc ra sao hở Sasha? - Bà mẹ buồn bã thở dài.
Có tiếng gõ cửa. Người hầu phòng đầu hói giống như một viên mật thám bước vào. Y liếc nhanh căn phòng và bảo rằng theo truyền thống nhiều năm, chủ khách sạn có tổ chức lễ cây thông cho các khách xa nhà. Chủ nhân mời mọi người xuống phòng lớn, nơi cây thông đã được lắp đèn sáng và các khách trọ có thể nhận được quà tặng.
Shchedrin cùng mẹ xuống phòng lớn. Ánh sáng vàng rực của những cây nến nhiều mầu đã tỏa rộng khắp phòng. Các cửa sổ đều bịt kín.
Cây thông được trang trí rất nhiều quả cầu kính, các dây xích bằng giấy mài, cờ của các nước đồng minh, các quả bồ đào vàng chói đến nỗi chả trông thấy lá của nó đâu cả. Những chiếc bàn tròn nhỏ được kê chung quanh cây thông. Các sĩ quan hải quân cùng với những phụ nữ mặc trang phục vũ hội ngồi sau đó.
Chiếc áo váy màu đen cũ kỹ của mẹ Shchedrin nói lên như một mụn vá giữa những nhung lụa chói lòa và ánh sáng rực rỡ. Bà mẹ ngượng nghịu. Họ ngồi ở bên mép chiếc bàn con kê ở một góc nhà và chờ mãi người hầu bàn mới đến gần và đặt lên bàn bản thực đơn dài dặc.
- Để mẹ chọn cho, - bà mẹ rụt rè nói, cầm lấy tờ bìa cứng. Tiền thì chẳng có nhiều và bà sợ rằng con trai muốn làm vui lòng bà lại đặt một món gì đắt quá.
Người hầu không đợi mà đi luôn sang bàn bên. Ở đó có một viên thuyền trưởng hạng nhất, người phương phi để râu đen đang ngồi. Y có đôi mắt đen và trố ra. Y đảo mắt khắp nơi, cả người hầu bàn, cả Shchedrin, cả bồ của mình - một người đàn bà to béo tóc hung, phấn son lòe loẹt trong bộ áo váy tím nhạt với vẻ khinh miệt như nhau.
Bà mẹ chỉ đặt nước chè và bánh ngọt. Người bồi mãi cũng không mang ra. Ngồi đợi sau mặt bàn trống trải thật nặng nề và vì sao đó thấy rất xấu hổ, như ngồi trên ghế bị cáo.
Một chuẩn úy hải quân trẻ ngồi vào bên chiếc đàn piano, đập tay lên phím đàn và hát:
Em ơi, mùa xuân đừng vội hái hoa hồng,
Mùa hè em ngắt cũng vừa, em ơi!
Chuẩn úy ngậm chặt điếu thuốc lá một bên mép, nhăn mặt lại có vẻ bất cẩn, rồi xuống giọng ngọt ngào. Lúc đó từ sau một chiếc bàn đặt ở xa một giọng nói cục cằn vang lên:
- Thay mặt các sĩ quan, tôi nghĩ là ông nên trước hết chơi bài quốc ca đã, sau rồi mới đến những bông hồng của ông.
Chuẩn úy độ lượng mỉm cười, thôi hát, đứng dậy và hơi cúi người xuống mặt đàn chơi bài quốc ca. Mọi người đứng dậy. Những tay hầu bàn cũng đứng sững lại với những chiếc khay trên tay.
Mẹ Shchedrin hấp tấp đứng dậy, chiếc ví xách tay bật nắp và chiếc mùi xoa nhàu nát rơi xuống sàn. Nó vẫn còn chưa khô nước mắt.
Khi mọi người ngồi xuống. Cánh phụ nữ rút ra khỏi ví những chiếc gương nhỏ và những hộp phấn, rồi vừa cười đùa, tán gẫu, vừa xoa lại phấn, tô lại môi, tuồng như bài quốc ca đã làm mất đi vẻ quyến rũ của các bà trong đôi mắt của cánh đàn ông.
Viên thuyền trưởng mắt trố gọi người hầu bàn lại gần, lấy ngón tay ngắn cộc chỉ về phía bàn Shchedrin bảo:
- Dọn cái thứ kia đi.
Người hầu bàn không hiểu, khúm núm nhìn vẻ mặt rẻ rúng của viên thuyền trưởng.
- Ngài ra lệnh gì ạ? - Anh ta cúi khom xuống hỏi.
- Dưới bàn kia có miếng rẻ rách? - Viên thuyền trưởng bực dọc nói và đỏ mặt lên.
Người đàn bà mặt áo váy tím nhạt chớp chớp mắt. Người hầu bàn lại giần, nhặt chiếc khăn mùi xoa nhàu nát, đặt lên bàn bên cạnh mẹ Shchedrin.
- Bà đánh rơi, - anh ta nói khẽ và giật lùi bước lại.
Shchedrin nhìn viên thuyền trưởng, tay anh lạnh đi, mặt xám lại vì căm tức.
- Sasha, bình tĩnh con! – Bà mẹ nói. - Hãy bình tĩnh, hãy bình tĩnh vì Chúa!
Viên thuyền trưởng ăn hau háu, không thèm để ý chút nào tới Shchedrin. Y nhai chóp chép và bộ râu đen của y lòa xòa trên tấm khăn ăn màu xanh cứng queo buộc ngoài chiếc cổ áo hồ bột.
- Ta đi khỏi đây thôi... Shchedrin nói. - Ta chả có việc gì làm ở đây giữa bọn...
Bà mẹ khẽ lắc đầu vì lo sợ cho con.
Shchedrin ngừng lời. Họ đi ra ngoài. Ở cầu thang Shchedrin mới nói hết câu nói bỏ dở.
- Ta không có việc gì làm giữa bọn súc sinh này. Bọn máu xanh da trắng! Bọn này bị nhấn chìm ở Kronstadt năm 1905 còn ít quá.
Bà mẹ nhìn Shchedrin phẩy tay.
*
* *
Hạm đội phóng lôi đặt cơ sở ở thị trấn Mariehamn tại một hòn đảo thuộc quần đảo Aland.
Shchedrin được cử về tầu phỏng lộ "Dũng Cảm". "Dũng cảm" làm nhiệm vụ tuần tra men bờ biển, dò tìm các tàu ngầm của Đức và ít khi trở về Mariehamn.
Hết tháng này sang tháng khác, lênh đênh trên mặt nước màu xám hoang vu của Baltic. Ngày và đêm nước lạnh sôi sục bên mạn tàu bằng thép, các máy tuốc-bin nổ đều và các quan trắc viên căng mắt nhìn đến tận chân trời, để khỏi bỏ qua một làn khói hay ống kính tiềm vọng của tầu ngầm. Các sĩ quan chơi bài trong phòng giải trí. Khó mà tin được chung quanh đang diễn ra chiến tranh và mặt nước mờ đục đầy rẫy những hiểm họa. Các thủy thủ vẫn than phiền rằng cuộc sống buồn tẻ nhất trong hải quân tất nhiên là trên các tầu tuần tra.
- Tìm, tìm mãi, như tìm chiếc kim dưới đáy biển - các thủy thủ vẫn nói với nhau như vậy.
Trong những ngày cuối tháng hai, "Dũng Cảm" đi về phía vùng biển Thụy Điển. Từ sáng tuyết rơi, rồi đến mưa đá và mưa rào. Gió giật thốc vào mũi tàu rồi khi thì quất vào lưng, vào mặt, khi thì bên phải, bên trái.
Những đám mây đen bù xù, sũng nước, lưới đi là là trên mặt biển, khiến ngọn những con sóng tưởng chừng chồm lên đến tận mây. Tất cả đều chìm vào một màu xám tưởng chừng như một bóng đen khổng lồ trùm lên mặt biển, mặt trời đi sang những xứ sở may mắn khác, chỉ còn gửi lại Baltic ánh sáng đang tắt dần của mình.
- Chẳng ra ngày, cũng chẳng ra đêm, chả biết đâu mà lần! - Những người trực tầu phàn nàn. - Làm việc thật khổ sở.
Thời gian rảnh rỗi, Shchedrin đọc nhiều. Đầu tiên các sĩ quan vào phòng anh mượn sách, nhưng rồi bỏ đi dần. Cách chọn sách của anh theo ý họ là tẻ nhạt. Shchedrin có nhiều nhất là sách khoa học. Trong khi đó các sĩ quan thích các loại tiểu thuyết giải trí.
Ngoài sĩ quan, còn có anh thợ lái tàu Marchenko đôi khi vào mượn sách. Anh vốn là một thủy thủ của ngành thương mại hàng hải, người Hắc Hải, dáng vóc vụng về, hơi gù, mắt lúc nào cũng nheo lại. Dù rơi vào hoàn cảnh nào của cuộc đời, anh cũng vẫn thản nhiên. Câu nói anh thích nhất là: "Cái trò ở quán rượu ấy mà!" - Anh thường thốt lên như vậy mỗi khi nhận thấy một việc gì vô lý, khó hiểu.
Vào một ngày u ám, vừa xong phiên trực, Shchedrin nằm trong buồng riêng và đọc cuốn sách về sự chuyển động của các lục địa. Lý thuyết này hồi đó ít được biết đến và nó đơn giản đến mức đáng ngạc nhiên. Shchedrin đặc biệt ngạc nhiên vì nó dễ chứng minh bằng mắt. Anh lấy một tấm bản đồ trái đất loại vừa, lấy kéo cắt châu Mỹ, châu Âu, châu Phi rời ra, rồi đẩy những mảnh giấy ấy lại gần nhau, anh thấy đường viền của những châu lục này khớp vào nhau như rìa của một miếng giấy bị xé ra làm nhiều mảnh.
Vì niềm say mê khoa học, chuẩn úy trẻ có đôi mắt vui vẻ là Ackerman đã gọi Shchedrin là «Charles Darwin», còn tầu phóng lôi được gọi là «Beagle dũng cảm».
Theo phong tục cổ truyền của ngành hàng hải, tất cả các nhân viên trên tầu phóng lôi cũng như các sĩ quan đều có biệt hiệu riêng.
Chỉ huy ngư hạm người đầy lông lá được gọi là «Con sư tử trên mặt boong». Sĩ quan trưởng tầu «Dũng Cảm» Viktor Popov, người thấp bé, được gọi là «Vitya nửa người». Khi «Vitya nửa người» đứng trên cầu chỉ huy thì trên tay vịn chỉ còn ló lên cái đầu của anh ta mang mũ mưa bằng vải sơn. Tầu phóng lôi «Thẳng Tiến» vẫn đi kèm với «Dũng Cảm» được gọi là «cái nồi hơi ì ạch» vì bao giờ nó cũng thụt lại sau.
Ackerman là người đọc nhiều, có trí nhớ kỳ lạ, hay đùa vui và thích bắt chước giọng trong các tiểu thuyết mạo hiểm.
Shchedrin đang nằm đọc bỗng vội bíu lấy thành giường, tàu phóng lôi rung mạnh. Nó quặt mạnh để đổi hướng. Cuốn sách rơi xuống sàn.
Shchedrin ngồi lên giường và giật mình: tiếng chuông báo lệnh chiến đấu khua vang trên khắp ngư hạm. Tiếng người chạy trên sàn tàu lát tôn thình thịch trên đầu.
Shchedrin lúng túng trong đôi tay áo, vừa mặc vừa chạy lên boong. Trên cầu thang anh chạm trán với Ackerman.
- Có chuyện gì vậy? - Shchedrin hỏi.
- Chiếc tàu nhỏ bé quả cảm của chúng ta lao vào chiến hạm của địch đấy. - Ackerman trả lời.
- Anh chỉ hay đùa! Shchedrin gạt đi, tiếp tuc chạy.
- Toàn đội lặng người bên tháp pháo, sẵn sàng chiến thắng hay là chết![2]- Ackerman nói với theo.
- Phát rồ lên rồi - Shchedrin còn kịp kêu lên.
Ackerman nhanh nhẹn chạy xuống thang về vị trí của mình, giơ nắm tay ra với Shchedrin.
Câu chuyện xảy ra như sau:
Gần bờ biển Thụy Điển, trên cầu chỉ huy phát hiện ra ở đường chân trời có chiến hạm địch. Nó chạy theo hướng Đông-Nam và kéo theo một con tàu nhỏ. Lúc đầu, trong bóng hoàng hôn, người ta tưởng nó đang kéo theo một tầu phóng lôi, nhưng khi Shchedrin ra mặt boong «Dũng Cảm» đang chạy hết tốc lực từ Tây xuống Nam, tiếp cận với chiếc tuần dương hạm thì nhận ra là một tàu ngầm.
Mưa đá quất vào mặt. Vùng trời phía đông tối hơn phía Tây. Đó chính là lợi thế của «Dũng Cảm». Từ phía tuần dương hạm không nhìn thấy chiếc tầu phóng lôi - nom nó trởng như một đám khói hòa với sương mờ trôi nổi trên lớp sóng bạc đầu và bọt nước. Còn chiếc tuần dương hạm thì hiện lên đen xì trên nền trời tối, sừng sững những tầng ống khói và những tháp pháo.
– Lúc này trên tuần dương hạm phải hệt như ở quán nhậu - Marchenko đứng bên cạnh Shchedrin nói. - Nó vướng phải cái đuôi dài thế kia thì đánh chác gì. Bây giờ bọn Đức sẽ cắt dây nối và bỏ chiếc tàu ngầm kia đi. Chắc chắn là như thế!
Chiếc tàu địch mỗi lúc một đen hơn, gần hơn. Nó không tăng tốc độ mà cứ lẳng lặng một cách dữ dội. Trong sự bình tĩnh và yên lặng của chiếc tuần dương hạm, Shchedrin cảm thấy một đòn long trời lở đất sắp nổ ra.
Boong tàu phóng lôi rung lên. Những con sóng như dạng đứng lên. Những người đứng trên cầu chỉ huy và bên tháp pháo đều được buộc lưng vào thang vịn đằng sau.
Trên tuần dương hạm bùng lên bốn quả cầu lửa đỏ rực và tiếng ầm nặng nề lan ra khắp mặt biển xa. Những viên đạn rơi xuống sau đuôi tàu «Dũng Cảm».
«Dũng Cảm» quay sườn ra phóng một quả mìn. Nhưng không nổ. Chiếc tuần dương hạm đã cắt dây kéo, bỏ mặc chiếc tàu ngầm, vừa nổ súng vừa rút lui thanh về phía nam. Một viên trái phá rơi vào mạn phải của tàu «Dũng Cảm» ở gần mũi. Cả một cột nước trút lên boong. Cả người Shchedrin ướt sũng. Tiếng người kêu í ới ở mũi tàu. Chỉ huy phái Shchedrin tới đó.
- Chuẩn úy Ackerman bị thương, - ông ta nói. - Hãy thay thế anh ấy.
Shchedrin chạy ra mũi tàu. Mấy thủy thủ đang vực Ackerman dậy. Chân anh bị dập. Anh còn kịp nói với Shchedrin:
– Mạn tàu bị xây sát chút ít, không đáng kể. - Anh cười khẩy và nói thêm. - Dù máu tuôn, anh vẫn ra lệnh cho các thủy thủ...
Ackerman muốn đùa vui gì nữa, nhưng kêu lên, rồi rên rỉ. Các thủy thủ khom người xuống víu vào tay vào thang đưa anh xuống phòng giải trí.
«Dũng Cảm» chuyển làn pháo vào chiếc tàu ngầm.
Các chiến sĩ làm việc hối hả và lặng lẽ bên tháp pháo. Chiếc tàu nặng nề rung rinh trên mặt nước như một con hải cầu và không trả lời. Trong bóng chiều sẫm dần, không còn nhìn thấy rõ nó nữa.
Mưa đá lộp độp rơi xuống mặt boong và bật ra khỏi những tay vịn. Biển ngầu đục ầm ầm đồ về phía đông qua hai bên mạn tàu.
Một quả đạn nổ ở gần cầu chỉ huy chiếc tàu ngầm, nhưng nó yên lặng. Sự yên lặng đầy dữ dội và nguy hiểm.
- Tầu không rồi. – Marchenko nói với Shchedrin. - Ta bắn phí đạn vô ích, Đánh vào chỗ chết rồi.
Shchedrin không tin, chẳng lẽ nào bọn Đức kéo theo một chiếc tầu trên không có một người nào!
- Pháo bắn vô ích. - Chỉ huy tàu «Dũng Cảm» Rosen ra lệnh ngừng bắn. Tuyết bám vào mặt, rắc cả vào mắt, gió cuốn chúng thành những cơn lốc xám chung quanh các ống khói to của con tầu phóng lôi.
Mặt boong dường như được quét một lớp mực tàu đen. Đêm đã chiếm lĩnh mặt biển và con tầu, thậm chí cả các căn phòng chấn song sắt đã vặn chặt lại và các ngọn đèn được thắp sáng, một phần tư công suất.
«Dũng Cảm» bật đèn pha và từ từ lượn quanh chiếc tàu ngầm.
Shchedrin đi xuống phòng giải trí thăm Ackerman. Trong phòng lạnh lẽo, bốc lên mùi thuốc. Con tầu rung mạnh và mỗi lần lắc lư Ackerman lại rên mạnh hơn.
- Tại sao ta cứ loay hoay mãi ở đây mà không về Mariehamn? - vẫn không mở mắt, anh hỏi Shchedrin.
- Chỉ huy quyết định không rời chiếc tàu ngầm. Nó yên lặng. Có quỷ biết nó là cái gì! Buổi sáng ta mới đến gần được nó.
- Có nghĩa là người ta sẽ cưa chân tớ, Ackerman nói. - Nó đang nóng bừng, chỉ vì một mảnh sắt tẩm hơi độc của một con quỉ quái ác nào đó. Anh chàng y sĩ thì lại chả biết gì.
Ackerman phẩy tay để Shchedrin bước ra.
Shchedrin đến chỗ Rosen. Shchedrin cũng đang run cả người, hai bả vai đau ê ẩm, khó thở.
Rosen đứng trên cầu chỉ huy với Vitya «nửa người». Rosen là một người gầy guộc và ít nói. Ông ta để tóc mái và lúc này chúng đang xòa ra dưới hai bên lưỡi trai như những cái tai nhỏ của con thú ác và ranh mãnh.
- Karl Ignatevich, - Shchedrin nói thật to để át tiếng gió gào trong tai, - tình trạng chuẩn ủy Ackerman là rất xấu. Đôi chân bắt đầu bị viêm.
- Ừ... ừ... - Vitya hồn hậu thở dài. Anh ấy đành phải chịu một lúc thôi.
- Có thể kéo con tàu về Mariehamn ngay bây giờ không? - Shchedrin hỏi.
Rosen quay về phía Vitya «nửa người» nhún vai.
- Thế đấy, - ông ta nói - Đã bao lần tôi yêu cầu các ông tướng ngủ ở bộ tham mưu rồi, Viktor Petrovich ạ, là họ đừng có cử về tàu phóng lôi của tôi những anh chàng quan tâm đến khoa học! Ông ta quay về phía Shchedrin đút tay vào túi áo và quát lên bằng cái giọng khàn khàn. - Đây là tàu quân sự, chứ không phải tầu thực tập của sinh viên. Cậu đừng có chỉ dẫn cho mình.
Shchedrin phẩy tay đi xuống cầu thang.
Đêm trôi đi rất chậm. Tưởng chừng buổi sáng không bao giờ có thể chọc thủng những đám mây dầy đặc, vượt qua ẩm ướt, bóng tối và tuyết.
Gần sáng, «Dũng Cảm» bắt đầu đến gần chiếc tàu ngầm và bắn một loạt đạn cảnh cáo. Con tàu yên lặng.
Phải vất vả hạ chiếc xuồng xuống đưa người sang tầu móc dây kéo.
Trong số những người được cử đi có cả Shchedrin và Marchenko.
Điều mà Shchedrin nhìn thấy quả là một giấc mơ kinh khủng. Hầm tầu mở ngỏ. Trong buồng thuyền trưởng, một thủy thủ Đức ngồi gục trên sàn. Anh ta ngủ nhưng không sao đánh thức dậy được. Cạnh anh ta nằm vật một xác người, có lẽ là sĩ quan chỉ huy tầu.
Từ trong hầm bốc ra mùi xác người thum thủm và mùi khí clo. Vitya «nửa người», Shchedrin và Marchenko xuống dưới tầu. Dưới đó tối và phải soi đèn pin.
Cả đội thủy thủ trên tầu đã chết. Người nằm nguyên vẹn trên các giường treo. Trên nét mặt họ lộ rõ sự mệt mỏi và yên tĩnh. Hai thủy thủ chết người co quắp bên những bình dưỡng khi đang mở.
Con tầu chòng chành và cùng với nó những cánh tay thõng xuống từ trên giường và những cái đầu cũng lắc lư theo.
- Thế đó, - Marchenko nói, - chiến tranh có thể có dạng thư thế đó, không một giọt máu.
Những lời của anh dội vào đầu mỗi người một nỗi nhức nhối đến mụ mị.
- Họ bị chết ngạt trong giấc ngủ, - sĩ quan trưởng nói. - Chắc là ban đêm con tầu lặn xuống để đoàn thủy thủ nghỉ ngơi. Hai thủy thủ được cử ra trông máy dưỡng khí, đã xả ra một lần chút ít dưỡng khi dùng cho cả đêm. Các thủy thủ này mở máy nhưng không kịp đóng lại, oxygen làm họ bị say. Các anh không thể tưởng tượng được giấc ngủ ở tàu ngầm nặng nề thế nào.
Shchedrin và các thủy thủ im lặng nghe.
- Tôi có thể tưởng tượng được họ đã mê lịm đi như thế nào, - người sĩ quan chỉ huy nói. - Đầu tiên oxygen tràn ngập cả con tầu, sau đó khí carboniccũng nhanh chóng như oxygen bắt đầu tích lại trong tầu và làm chết ngạt tất cả.
- Viktor Petrovich, - Shchedrin hỏi và nuốt nước bọt, trong miệng anh thấy đắng như tanh đồng. - Nếu vậy sao họ còn cho được con tầu nổi lên và phát tín hiệu radio cầu cứu được? Điều đó tôi không hiểu.
– Tôi cũng không hiểu được, anh bạn ạ, - người sĩ quan chỉ huy trả lời rồi rọi đèn pin lên những thủy thủ đã chết. - Chắc rằng hai ba người đã tỉnh lại được. Họ kịp tháo không khí trong các bình nén ra và bơi lên kêu cứu. Nhưng điều đó có thể nói là trong cơn giẫy chết thôi. Thôi, ta đi lên!
- Tự tìm cho mình một chiếc quan tài thép. - Marchenko vừa biước lên cầu thang vừa nói.
Trên boong tàu ngầm, Shchedrin lại bị một lớp sóng xô trút lên và anh bắt đầu run lẩy bẩy, khó lắm mới trả lời được các câu hỏi của người sĩ quan. Vitya «nửa người»chăm chú nhìn Shchedrin.
- Anh trở về tầu phóng lôi đi, - ông ta nói. - Ở đây chỉ cần ba thủy thủ là đủ rồi.
- Không, tôi có làm sao đâu, - Shchedrin trả lời và cố mỉn cười, nhưng chẳng cười ra được. - Mỗi tội là tôi ướt hết cả.
Vitya «nửa người», thở dài và quay đi. Người là nâng tay thủy thủ Đức lên, đưa xuống xuồng. Anh tự chóp chép môi, nhưng không tỉnh lại được.
Chiếc xuồng chạy về phía «Dũng Cảm». Nó nhả khói, vật vã trên sóng, tuồng như đang lắc đầu trách móc.
Shchedrin ngồi bó gối trong góc xuồng và những ý nghĩ ngắn ngủi rội lên trong óc anh. Nếu mẹ anh đã biết được chuyện này! Như ng thậm chí khó mà kể lại được cho bà những gì anh đã thấy. Nói chung không thể kể cho ai nghe về điều ấy cả.
- Tự họ đi chơi với quỷ đó - Anh nói thành tiếng.
Nhưng không ai để ý đến lời nói của anh. Các thủy thủ chèo xuồng, Vitya «nửa người» cổ áo bẻ cao ngồi yên lặng, trông ông chẳng có vẻ sĩ quan tí nào, nhỏ bé với chòm râu nâu ướt át, mặt sưng húp, ông giống như một bác sĩ tỉnh lẻ thì đúng hơn.
"Nhưng chính mình cũng tự đến với quỷ", - Shchedrin nghĩ và bắt đầu nhớ lại anh đã bước vào cuộc chiến tranh như thế nào. Không, tất nhiên không phải tự anh đã ra đi, mà bị bắt buộc. Vậy là có một người nào đó có quyền lực với cuộc đời của anh, tình yêu của anh với mẹ, và số phận của anh nữa.
"Nhưng ai vậy? Ai? - Shchedrin tự hỏi. - Nga hoàng chăng?" – Trong gia đình anh vẫn luôn cười nhạo Nga hoàng và coi y là tên đần độn, là anh lính tẩy say rượu.
"Về Mariehamn mình sẽ suy nghĩ cho ra lẽ", Shchedrin tự nhủ. Lúc này chẳng muốn suy nghĩ. Lúc này chỉ muốn cởi bỏ bộ quần áo, nằm lên giường, chùm chăn kín đầu, dõi theo những giấc mơ mong manh và luôn đứt đoạn như những sợi tơ nhện.
Nhưng dù sao một con người khiêm nhường như Vitya «nửa người», với cả một bầy con dại, người ta lại đặt vào tay một công cụ bằng sắt thép để cắt xẻ, băm vụn và nghiền nát cơ thể con người làm gì.
"Có một sai lầm nào đó trong tiềm thức của chúng ta rồi'' - Shchedrin nghĩ. Anh nhớ lại người thầy phụ đạo của mình, anh sinh viên Raikovich. Con người luôn đói bụng và giễu cợt này chỉ một lần nói đến chiến tranh, khi Shchedrin và học trường hàng hải.
- Tôi chỉ thừa nhận có một cuộc chiến tranh. - Anh nói, - Nó là cần thiết và thậm chí đang mong muốn nữa. Tôi muốn nói đến cuộc chiến tranh chống lại nguồn gốc mọi cuộc chiến tranh trên thế giới, không phải cuộc chiến tranh giữa các dân tộc mà giữa những người muốn sống trong hòa bình và những kẻ sống nhờ bằng chiến tranh.
Chiếc xuồng đã đến bên «Dũng Cảm». Từ mũi tầu, chiếc thang dây được ném xuống, Shchedrin vất vả leo lên, Vitya «nửa người» cũng lập cập leo lên trước anh. Tà áo khoác ướt át của ông ta quệt cả vào mặt Shchedrin.
Shchedrin nhận thấy các thủy thủ và cả vài sĩ quan sau trận chiến đấu mất đi hẳn vẻ hào hùng của con nhà binh. Họ đều tư lự, đi lại gần như gù người xuống, trong mắt cùng một nỗi lo âu như Shchedrin - nỗi lo âu khơi dậy bởi trận đánh và những ý nghĩ chưa được đào sâu đến nơi đến chốn.
«Dũng Cảm» bơi chậm rãi, thỉnh thoảng lại hãm bớt máy cho dây kéo khỏi bị đứt vì căng quá, đi dần về Mariehamn.
Thời tiết thay đổi. Gió đã lặng đi. Giữa trưa ánh nắng rụt rè xuyên qua đám mây. Lá cờ trên «Dũng Cảm» rủ xuống.
Shchedrin nằm trong buồng, rên rỉ vì xương cốt đau nhừ, anh nhăn nhó và ho luôn. Thỉnh thoảng anh lại thiếp đi. Người y sĩ trên tàu đánh thức anh. Ông ta mang đến cho Shchedrin nước trà và những viên thuốc đắng ngắt. Shchedrin ngoan ngoãn uống thuốc và lại thiếp đi.
Anh mơ thấy đang đêm anh ngã xuống nước lạnh. Nước rào rào hắt vào từ cơ thể nóng rẫy của anh. Qua bụi tuyết, anh thấy những quả pháo nối đuôi nhau của «Dũng Cảm» phóng tít lên trời cao, rồi rơi xuống những cơn sóng chồm lên, bay lên, rơi xuống, mờ đi tàn lụi trong chân trời đêm tối đen như những ngôi sao.
Shchedrin gọi mẹ trong mơ. Anh trở mình đạp rơi chăn. Mặt anh sưng húp với mớ tóc rối bời nom giống như mặt một cậu bé bị ốm.
Thời gian đó Shchedrin vừa tròn hai mươi tuổi.
Đến Mariehamn, Shchedrin và Ackerman được đưa đến vào bệnh xá, Shchedrin bị sưng phổi.
Bệnh xá đã cổ lắm rồi, được xây dựng từ đầu thế kỷ thứ mười chín. Suốt gần cả một trăm năm, cho tới cuộc chiến tranh chống Đức nó vẫn bỏ không. Dân chúng trên đảo Aland khỏe mạnh, ai cũng hồng hào và rất ít khi ốm đau.
Sàn đá phòng bệnh lạnh và âm vang - tiếng chân bác sĩ vọng lại từ xa. Shchedrin và Ackerman nằm lim dim nghe tiếng lửa cháy tí tách trong lò sưởi gạch men. Trên tường lò có vẽ những chiếc tàu buồm xanh lam dáng vụng về như những chiếc máng ăn. Những chiếc tầu đang nhả những quả khói tròn dày dặc truớc họng pháo.
Mùa đông năm ấy bệnh xá càng vắng vẻ và âm thầm. Tháng hai đã qua. Cách mạng bắt đầu nổ ra ở nước Nga. Hải quân đang xao động và chẳng ai để tâm đến bệnh xá nữa. Người ta dường như quên đi Shchedrin và Ackerman.
Người đưa tin duy nhất - tới đây từ thế giới xa xôi vang động tiếng còi tầu ngoài của sổ, tiếng nước mùa xuân chảy róc rách là một ông bác sĩ người Thụy Điển đã Nga hóa, sống cả đời trên đảo Aland này.
Những sợi tóc bạc lởm chởm rối bù trên đầu ông, tà áo khoác lúc nào cũng bỏ ngỏ. Ông luôn luôn cười vang trong căn phòng làm việc của mình và tiếng cười của ông bay đến tận góc xa nhất của bệnh xá.
Shchedrin ưa thích những cuộc thăm bệnh của bác sĩ. Cùng với ông mùi thuốc lá tươi ngái và mùi cồn ùa vào phòng. Bác sĩ ghé tai vào ngực Shchedrin; tóc ông bao giờ cũng ướt, có lẽ vì nước tuyết giỏ giọt và vì sương mù.
Càng gần sang xuân, đảo càng luôn bị sương mù bao phủ. Chim hải âu kêu chim chíp, trẻ con gọi nhau í ới trong sương mù, một lần Ackerman đánh thức Shchedrin dậy, họ nghe thấy rất lâu trong làn sương dày đặc ngoài của sổ vang lên long trọng và đắc thắng bài "Marseillaise".
"Hỡi các công dân, hãy cầm lấy vũ khí!" - những chiếc kèn bạc reo lên.
Rồi tiếng "Ura" dữ dội át đi.
- Tớ nhận ra tiếng của anh em thủy thủ bọn mình rồi, - Ackerman nói. - Bọn ăn bám giờ đây mới khốn khổ. Hết đời rồi! Nhân dân công phẫn lao vào cung điện của các tên bạo chúa!
Chân của Ackerman đã lên da non và anh lại bắt đầu đùa.
Một lần Marchenko đến thăm. Anh kể rằng ở «Dũng Cảm» anh đã được bầu làm chủ tịch đội thủy thủ tầu và mang đến quà của toàn đội: thuốc lá, hai qủa cam khô và một xấp báo những ngày vừa qua.
- Marchenko ơi, dù sao chúng tôi cũng là những sĩ quan, - Ackerman nói. - Xương trắng, máu xanh này và nhiều chuyện khác nữa[3].
Marchenko cười nhoẻn:
- Các anh cũng gần như chúng tôi thôi. Xin lỗi, sĩ quan gì cái ngữ các anh. Sĩ quan đó là bọn ăn bám, các anh chỉ là những sinh viên thôi. Đầu óc các anh khác.
- Còn biết nói gì nữa, - Ackerman nói, - được như thế cũng cảm ơn lắm, dù chúng tôi không xứng được như vậy. Có nghĩa là chúng ta sẽ làm cách mạng đến cùng.
- Rõ, đến cùng - Marchenko đứng dậy. Anh vội đi dự mít tinh của thủy thủ.
- Các anh em họp mít tinh ở đâu? - Ackerman hỏi. - Trên các tầu chiến à?
- Sao lại ở trên tầu! Trên tầu chặt lắm. Họp ở ngoài nghĩa trang ấy.
- Chỗ hợp đấy! - Ackerman cười khẩy.
- Thích hợp nhất ấy chứ? - Marchenko nghiêm túc cãi lại. - Ở nghĩa trang có một nấm mồ được anh em lính thủy yêu mến. Người ta họp mít tinh ngay gần cái mộ đó, đứng ngay lên tấm bia và những hòn đá mà diễn thuyết.
– Ngôi mộ của ai vậy?
- Tôi thấy là phải kể cho các anh về điều đó. - Marchenko buồn rầu nói. - Nếu không, các anh chơ vơ trên cạn chả biết gì cả. Dưới phiến đá đó là anh lính Semyon Tikhonov và chuẩn úy Bestuzhev. Họ được chôn ở đây ngay từ hồi Nikolai I. Thật dễ hiểu khi thấy ngôi mộ này, anh em binh lính đã thắc mắc tại sao một người lính lại chôn chung với một sĩ quan và cùng một phiến đá nặng đặt nằm trên người họ. Mọi người thấy lý thú và họ đi hỏi dân địa phương. Các anh cũng biết là không có chuyện gì trên đời mà anh lính thủy không tìm ra. Có thế mới là lính thủy. Thế rồi họ được biết rằng một trăm năm trước, mùa đông ở đây rất giá buốt và vịnh biển đóng băng kín khắp từ bờ này tới bờ kia... Bây giờ không thế nữa rồi, chính các anh cũng thấy đấy, mùa đông đã rữa ra; hết tuyết lại sương mù với mưa, lầy lội. Một trăm năm trước đây ở Petersburg[4]có cuộc khởi nghĩa. Một trong những người tham gia khởi nghĩa đã phải chạy trốn, mang cái đầu thoát khỏi phần thưởng của nhà vua. Ông đã đi theo mặt băng đến vùng đảo này, định vượt sang Thụy Điển, nhưng đã bị sa cơ ; không rõ bọn cảnh sát hay sĩ quan đã bắt giữ được ông. Và chắc chắn ông đã không thoát khỏi cái chết, nếu anh lính Tikhonov và chuẩn úy Bestuzhev đã không giúp ông trốn thoát. Họ cứu được người khác, còn mình thì chịu cái chết đắng cay.
- Chết thế nào cơ?
- Về điều này người ta kể nhiều chuyện khác nhau. Người thì nói họ bị bắt ngay trước trại lính, người lại bảo là họ bị phạt đòn rồi chôn cất bên cạnh nhau trong cùng một ngôi mộ.
- Sĩ quan thì không có hình phạt roi đòn đâu, - Ackerman nói.
- Thì một kiểu gì đó, làm cho người ta phải chết. Thôi ngủ đi, cố mau khỏe. Ở ngoài giờ vui lắm.
Marchenko từ biệt rồi ra về.
Shchedrin nhắm mắt lại suy ngẫm, anh nhớ lại những câu chuyện mẹ kể về ông nội, những câu chuyện hân hoan của các bà cô mà anh vẫn cười giễu, cái mà từ bé anh cho là một chuyện hư cấu của gia đình bỗng nhiên hiển hiện thành có thật, vượt ra khỏi khung cảnh chật hẹp của gia đình, đạt tới một ý nghĩa nào đó đối với một thời kỳ cách nuạng, không những chỉ được anh, mẹ anh và các cô anh - mà cả trăm anh em lính thủy biết đến. Vậy quả là ông nội anh đã đến đây và vào cái thời gian đảo điên khủng khiếp ấy có hai con người hy sinh đời mình để cứu ông anh khỏi giá treo cổ. Chiến công của những người đó Shchedrin cảm thấy còn cao hơn cả chiến công của ông anh và càng nghĩ về điều đó, anh càng thêm phần xúc động:
- Ackerman này, tên họ là gì nhỉ? - Anh hỏi khẽ.
- Ai cơ? - Hai người chôn chung dưới mồ ấy mà.
- Anh lính tên là Tikhonov, còn chuẩn úy là Bestuzhev.
Shchedrin muốn kể cho Ackerman nghe về ông nội mình, nhưng đã nén lại. Anh sợ hơn cả là sự chế nhạo và không tin cậy! Sasha, cậu mà cũng là cháu của một chiến sĩ tháng Chạp thế quái nào được! - Ackerman sẽ nói. – Cậu ấp úng cả trước mặt Rosen, không biết hòa hợp với anh em lính, cậu chỉ là một anh chàng bình thường, chứ cháu của chiến sĩ tháng Chạp thế nào được.
Trời tối dần. Ánh dương xanh sáng lên ngoài cửa sổ.
Có tiếng chân người bước đi trong hành lang. Ông bác sĩ vui tính đầu bù bước vào. Kế sau là người hộ lý đỡ lưng một người to béo râu đen bước tới. Bệnh nhân mới được đặt lên giường. Ông ta giương đôi mắt lồi vẻ chế nhạo nhìn lên trần và im lặng.
Ông bác sĩ xoa hai bàn tay vào nhau.
- Đây, các anh bạn trẻ ạ, - ông nói, - Thêm cho các anh một người bạn cùng bệnh nữa nhé. Có ba người càng vui thêm, phải không?
Shchedrin nằm vẫn không mở mắt. Anh rất mệt vì câu chuyện của Marchenko và những ý nghĩ về ông nội. Anh muốn ngủ.
- Ông bác sĩ, tôi yên cầu, - bệnh nhân mới nói bằng một giọng gắt gỏng (Shchedrin mở mắt và nhanh nhẹn nhỏm dậy) - ngay khi có điều kiện phải gửi tôi về Helsingfors. Việc chữa chạy ở đây không hợp ý tôi.
- Thưa ngài thuyền trưởng hạng nhất, - Shchedrin nói - Helsingfors không giúp gì được ngài đâu.
- Nghĩa là thế nào? - Bệnh nhân mới trâng tráo hỏi - Chú bé, chú nghĩ ra trò gì vậy?
- Tôi không phải là chú bé, mà là sĩ quan của hạm đội cách mạng, đã thế lại là con trai của một mụ đầu bếp, - Shchedrin trả lời. - Chúng ta đã gặp nhau chỗ cây thông ở Reval, ông quên rồi chăng?
- Cứ cho là ta quên rồi, - viên thuyền trưởng hạng nhất trả lời độc địa - Ta không nhớ dịp may mắn như vậy trong đời ta.
Shchedrin ngồi dậy trên giường, nói với ông bác sĩ đang lo cuống cả lên:
- Ông mang tên hỗn xược này đi!
- À, à! - viên thuyền trường hét lên, nhỏm nguời đậy - Anh sẽ phải nói chuyện với chỉ huy hạm đội.
- Còn ông sẽ nói chuyện với anh em lính thủy ở hạm đội, - Shchedrin mặt tái đi, nói. - Bác sĩ ơi, viên sĩ quan này đã lăng mạ một người phụ nữ trước mặt tôi chỉ vì người đó nghèo và ăn mặc tồi tàn. Bây giờ hắn đang định tẩu thoát về Helsingfors. Đằng nào cũng thế, ở đây hay ở Helsingfors, anh em lính thủy cũng sẽ tính sổ với hắn.
- Thần kinh tọa là một căn bệnh rất buồn cười. - Ackerman lầu bầu - Ốm mà chả trông thấy gì. Mà có khi ngược lại: không ốm cũng chẳng thấy gì.
Viên thuyền trưởng ngồi dậy. Hắn nhìn hai chuẩn úy bằng đôi mắt cuồng nộ. Chiếc cằm mọc râu rung lên, những mạch máu to nổi hẳn trên thái dương.
- Im ngay! - Hắn bỗng quát lên bằng một giọng the thé.
- Lạy Chúa - Ackerman nói và lấy tay bịt tai. - Ông mà kêu lên một lần nữa thì chúng tôi sẽ không còn gì. Xin ngài thuyền trưởng rủ lòng thương.
Viên thuyền trưởng nhổm dậy, bước ra khỏi phòng bệnh. Chiếc áo khoác quết đuôi trên sàn. Bác sĩ và người hộ lý bước theo sau. Ông bác sĩ lắc đầu trách móc.
Viên thuyền trưởng được đặt nằm ở một phòng xa. Hai hôm sau vào ban đêm, anh em lính thủy đến bắt hắn giải về Helsingfors, về Ủy ban trung ương của hạm đội Baltic.
*
* *
Tháng Tư, Shchedrin ra viện. Bác sĩ cấm anh không được trở về tầu. Shchedrin phải nghỉ ngơi lấy lại sức chừng hai, ba tuần sau khi ra viện.
Theo bác sĩ khuyên, Shchedrin thuê phòng ở nhà người đánh cá Peter Jacobsson.
Một căn nhà nhỏ cũ nằm ngay sát mép nước. Căn nhà quét nhiều màu: tường màu xanh đã long lở, khung cửa sổ và cửa ra vào - màu da cam, còn bên trong mỗi phòng một mầu, chắc trước đây đậm sắc hơn nhiều.
Phòng Shchedrin quét màu vàng và treo đầy ảnh của các cụ dòng họ Jacobsson.
Sáng sáng, còn nằm trên chiếc giường gỗ, Shchedrin nhìn ngắm ảnh những cụ già môi mỏng như tạc bằng sắt treo ở trên đầu giường - những thuyền trưởng, hoa tiêu, đã từng một thời sống trong nhà này.
Cũng ngay tại đó, treo ảnh của con gái họ - những cô gái mắt màu sáng với nét mặt niềm nở - và vợ họ - những bà già gầy guộc. Những bà già trên ảnh ngồi thẳng như các vị tướng, đặt những bàn tay gân guốc lên đầu gối.
Giữa những bức ảnh ấy có một bức tranh bằng phấn mầu. Đó là chân dung một phụ nữ trẻ, hàng lông mày duớn cao như đang xao xuyến vì một điều gì đó, ánh mắt u buồn và vầng trán nhỏ thanh tú. Mỗi khi nhìn bức tranh, Shchedrin lại thầm nghĩ người phụ nữ này, đã làm gì ở đây trong thị trấn ngư dân nhỏ xíu này, nơi cách đây một trăm năm chỉ có vẻn vẹn ba trăm người.
Trong nhà Jacobsson sạch sẽ và yên tĩnh, chỉ thỉnh thoảng Jacobsson vừa dậm nhịp vừa hát ở trong bếp, lúi húi với mớ lưới của mình.
Vợ chồng Jacobsson có một con gái lên ba tuổi. Nhưng cháu không sống với bố mẹ mà ở nhà bác sĩ. Vợ chồng bác sĩ không con nuôi dạy con bé và định cho cháu ăn học đến nơi đến chốn. Con bé tên là Maria.
Marta, vợ Jacobsson, là một người đàn bà đãng trí. Ngày nào nhà cũng thấy hết sữa, hoặc con mèo tha mất khúc cá rán từ chiếc chạn bỏ ngỏ. Jacobsson chỉ cười là không giận vợ.
Cuộc sống này gây cho Shchedrin một ấn tượng là anh bị ném ngược trở lại hàng chục năm về trước, đến một đất nước cổ xưa, nơi mà vẫn có những chiếc xe ngựa chở thư và trong các văn phòng người ta vẫn nuôi những con dế mèn trong những chiếc lồng nhỏ để cầu may.
Ngồi trong những căn phòng cổ kính này, đọc những tờ báo bưng bừng khí thế của một thời cách mạng thật lạ lùng.
Những trang báo đầy những lời kêu gọi, sự phẫn nộ, những tin tức giật gân và thông báo Lenin đã trở về nước Nga.
Tên tuổi Lenin đã vang dậy khắp các cuộc mít tinh của hải quân, được nhắc đến ở khắp mọi nơi. Những chiếc tàu phóng lôi vùn vụt mang tên Người đi khắp vùng Baltic khắc khổ. Các đài phát thanh rung chuyển và tóe lửa, truyền những tiếng nói của Lenin tới các tàu chiến, các đơn vị bờ biển, các pháo đài cấm cố, các tàu ngầm. Các tín hiệu viên xếp tên Người bằng những lá cờ sặc sỡ.
Tên tuổi Lenin lan rộng ra, lớn lên, trở thành ngọn cờ và niềm hy vọng của người Baltic. Chung quanh tên Người kết tinh lại sự bất bình của hải quan, ý chí và nhiệt tình cách mạng không gì kiềm chế được của họ.
"Ánh dương của cuộc Cách mạng xã hội chủ nghĩa thế giới đã lóe lên" - Lenin nói trong cuộc đón Người ở ga Phần Lan.
Những lời đó đã lan đi khắp hạm đội. Tưởng như cả biển cũng ầm vang đắc thắng và đồ dồn vào bờ những khối nước khổng lồ sáng loáng, cùng lặp lại những lời nói đó.
Shchedrin thấy người nao nao. Một lần anh đi dự mít tinh trên tầu phóng lôi, thậm chí còn đọc cả một bài diễn văn nồng nhiệt và rắc rối.
Anh em lính thủy vỗ tay hoan hô anh hồi lâu, đúng hơn là gõ những nắm tay chắc nịch, rắn như gỗ xuống sàn rồi bồng Shchedrin từ tầu lên bờ - có lẽ vì thương hại: Shchedrin gần như không đứng vững nữa vì xúc động.
Ackerman đi bằng nạng. Anh có thái độ thiết thực với cách mạng, ngồi lì ở ủy ban tầu và bướng bỉnh cãi cọ với cấp trên và chuyện cơm nước, nghỉ phép, quần áo phát thêm và những vấn đề thiết yếu khác của đời sống lính thủy. Anh ít đùa hơn trước và chỉ thỉnh thỏang rẽ vào Shchedrin anh mới lại đọc những câu thơ yêu thích trước đây:
- Con rắn độc quyền lực của nhà vua đã bị những bàn chân đất của nhân dân xéo nát thành tro bụi. Ngọn cờ đỏ của quân khởi nghĩa phấp phới bay trên đất nước vĩ đại.
Shchedrin thức dậy rất sớm. Chim trong vườn ríu rít gọi nhau. Một biển yên tĩnh chói lòa, bốc hơi, lấp lánh ánh phản quang chiếu xa hàng trăm dặm, vỗ sóng vào bờ biển granite, và, như một đứa trẻ, phả vào mặt một luồng gió nóng ấm.
Shchedrin đi ra nghĩa trang. Trong một buổi sáng rộn ràng như thế này khó bề ngồi yên trong phòng được. Ngoài ra, Shchedrin đã quyết định từ lâu ra thăm mộ Tikhonov và Bestuzhev.
Những bông hoa trắng yếu ớt chồi lên từ kẽ nứt của những phiến đá. Shchedrin bức lấy một vài cành có hoa.
Tại nghĩa trang, Shchedrin vấp phải nấm mồ của các thủy thủ Đức từ chiếc tàu ngầm mà "Dũng Cảm" bắt được, hồi lâu đọc những hàng tên.
Gần bên một trong những hòn đá phủ đầy rêu, anh nhìn thấy Marta. Chị ngồi, vẫn cái dáng điệu kinh hãi và nhợt nhạt như mọi lúc, mỉm cười nhìn Shchedrin. Tay chị cầm mớ cành tùng đen sẫm, chắc chị mang đến để đặt lên mộ người thân. Shchedrin được biết một năm trước đây chị đã bị mất đứa con trai lên bốn tuổi.
Anh lại gần và chào hỏi. Marta biết rất ít tiếng Nga. Tuy thế, hai người vẫn hiểu được nhau.
Shchedrin đọc hàng tên trên mộ chỉ và ngạc nhiên. Dù tên khắc bằng chữ Thụy Điển, Shchedrin cũng hiểu được ngay là dưới nấm mồ này yên nghỉ một người phụ nữ nào đó hai mươi tư tuổi tên là Anna Jacobsson, mất năm 1827.
- Người này là thân thích của chị ư. - Shchedrin hỏi.
Marta mỉm cười nhìn anh nhưng không hiểu.
- Người này là ai? - Shchedrin hỏi và chạm tay vào tấm bia.
- Anna, - Marta nói, - bà nội của Peter. Có bức tranh ở phòng anh đấy. Đẹp thật. Bà mất vào ngày này đấy.
Shchedrin gật đầu. Anh đoán ra đây là người phụ nữ mà anh vẫn thường ngắm trong bức tranh treo trên mặt bàn trong phòng anh
- Còn tôi thì tôi đi tìm mộ của Pavel Bestuzhev. - Anh nói.
Marta đứng dậy và dẫn anh đến một tảng đá lớn. Nó lún vào trang đất và đã mòn nhẵn vì gót giày của các anh em lính thủy, chung quanh rêu mọc xanh rờn. Shchedrin đặt những bông hoa lên phiến đá. Đã có lúc anh cười giễu sự đa cảm của các bà cô anh, còn giờ đây chính anh đang cảm thấy một nỗi xúc động khó hiểu trước nấm mồ của những người đã cứu sống ông anh.
- Dưới mộ này an nghỉ những người rất tốt, - anh nói với Marta. - Họ đã cứu sống ông tôi.
Marta vui mừng gật gật đầu.
- Anh nói là "ông tôi"?
- Đúng thế.
Marta vội vã nói lẫn lộn tiếng Nga và tiếng Thụy Điển. Chị nắm lấy tay áo Shchedrin và nhìn vào mặt anh, chị cười và thậm chí má chị hồng lên.
- Tôi không hiểu, Shchedrin nói.
Marta nhăn trắn, cố tìm những từ Nga nhưng không đủ và Shchedrin lại chẳng hiểu gì cả.
Marta ấm ức cắn môi, nước mắt trào ra. Chị phẩy tay và nhanh nhẹn đi về thành phố. Shchedrin ngơ ngáo nhìn theo. Gió thổi phồng vạt váy rộng của chị, Marta đi không ngoái nhìn lại.
"Mình đã làm chị ta phật ý vì điều gì?" - Shchedrin bối rối nghĩ, ngồi xuống bên mộ hút thuốc. Những con bướm non nhợt nhạt mới nở bay lượn chung quanh sưởi mình trong ánh nắng.
Shchedrin trở về nhà, Cả Marta, cả Peter đều không thấy đâu, chỉ có con mèo nhõng nhẽo oằn mình bên cạnh cửa ra vào.
- Thế nào, lại ăn vụng cá rồi phải không? - Shchedrin hỏi.
Chú mèo khàn khàn kêu meo meo.
Shchedrin tháo bức tranh của Anna Jacobsson treo trên tường, ngắm nhìn hồi lâu. Shchedrin còn chưa yêu ai bao giờ. Quả thực có một thời ở Petrograd, anh vẫn đi ra bãi trượt băng để được nhìn thấy một cô nữ sinh trung học, người cao, ngày nào cũng đi trượt băng. Mỗi lần cô ta ngã và lại đứng dậy ngay, phủi tuyết khỏi đôi găng tay và chớp chớp đôi mắt để rũ những bông tuyết dính vào mi, tim Shchedrin lại đập dồn dập. Nhưng chẳng bao lâu, cô nữ sinh biến khỏi bãi băng và Shchedrin đã quên cô.
Shchedrin nhìn bức tranh, nhìn đôi môi khắc khổ dịu dàng và nghĩ rằng người phụ nữ này anh có thể yêu đến hết mình và chung thủy. Một điều bí mật buồn bã nào đó ẩn sau gương mặt này.
Shchedrin giật mình và treo bức tranh lên chỗ cũ. Có người vào nhà. Nghe tiếng gõ cửa, Shchedrin kêu lên:
- Mời vào!
Cửa mở. Ông bác sĩ xuất hiện ở cửa. Mớ tóc trắng của ông còn rối hơn cả mọi lúc, mắt sáng lên, khuôn mặt nở một nụ cười long trọng. Sau lưng ông là Peter và Marta đang đứng vẻ e thẹn.
- Chào anh bạn của tôi, – ông bác sĩ nói vang cả nhà và xiết chặt tay Shchedrin. - Tôi đến với tư cách là người phiên dịch... Vào đây! – ông gọi to vợ chồng Jacobsson. - Ngồi xuống ghế này và ta nói chuyện.
- Có chuyện gì xảy ra vậy? - Shchedrin hoang mang hỏi.
– Anh sẽ biết ngay bây giờ! - Ông bác sĩ nói oang oang và cười to. - Anh sẽ biết tất cả ngay bây giờ. Nhưng trước hết hãy hôn người phụ nữ này và anh chàng thộn Peter Jacobsson này đi đã. Nào!
Ông bác sĩ hét "nào" một cái, kính cửa sổ rung cả lên và con mèo cong đuôi chạy khỏi phòng.
- Được lắm!, - Shchedrin mỉm cười nói. - Tôi bao giờ cũng vui sướng hôn những con người này. Nhưng, vì chúa, bác sĩ hãy nói cho tôi biết như thế nghĩa là thế nào đã chứ?
- Hôn nhau đi! - Ông bác sĩ nói và dậm chân một cái.
Marta rụt rè lại gần Shchedrin, lấy vạt tạp dề chùi môi, rồi hai người hôn nhau. Peter hôn theo kiểu con nhà chài lưới - ba lần, bộ râu lởm chởm làm đau cả mặt Shchedrin.
- Anh sẽ được biết là cả ở thế kỷ hai mươi cũng xảy ra những chuyện thần thoại - ông bác sĩ nói vẻ đắc ý. - Tôi đã chán đọc mãi chúng trong các sách. Tôi vẫn hay nói với vợ tôi: "Mình cứ kêu buồn chán ở Aland vô ích. Ở đây mỗi ngày đều có những câu chuyện lý thú của nó. Những ngày trôi qua trước mặt ta như những người thân quen hiền hậu và mình sẽ rất luyến tiếc về đảo quê hương của chúng ta khi rời khỏi đây." Anh hãy tự suy ngẫm xem. Có ở đâu anh được thở không khí như ở chỗ chúng tôi? Ở đâu biển trong như ở đây? Không đâu cả! Đã bao giờ anh sống giữa những người đôn hậu và trung thực như thế này chưa? Chưa bao giờ!
- Tất cả đúng như vậy. - Shchedrin đồng ý. - Nhưng tôi chẳng hiểu gì cả. Có điều gì thần kỳ xảy ra bây giờ?
- Ta vào chuyện ngay - Bác sĩ nói. Ông ngồi xuống và bới tóc rối tung lên. - Nếu ở đây không có chuyện nhầm lẫn nào thì anh chính là cháu của người chiến sĩ tháng Chạp đã được cứu sống ở đây, trên đảo Aland này bởi hai người Nga - lính và sĩ quan.
-Vâng. Shchedrin nói. Hình như đúng như thế. Nhưng làm sao bác biết được điều đó?
- Qua Marta - ông bác sĩ nói. Tự anh đã kể cho chị ấy. Giữa những người đi biển ở đây có nhiều loại quan hệ thân thích khác nhau. Đối với chúng ta nhiều khi cho là lạ lùng. Chúng ta chỉ thừa nhận họ hàng theo quan hệ máu mủ, còn những con người chất phác này còn có thêm họ hàng giữa những người đi cứu và những người được cứu thoát. Nếu một người trong gia đình này cứu người của gia đình kia, thì hai nhà là họ hàng của nhau. Đi biển là một công việc nguy hiểm, phải cứu nhau luôn. Điều này dẫn đến chỗ là gần như tất cả dân trên đảo đều là họ hàng thân thích của nhau. Và theo luật của đảo này, thì Peter Jacobsson, Marta và con gái họ là Maria đang ở với chúng tôi, trong một chừng mực nào đó là họ hàng của anh.
- Nhưng hình như ông tôi đã được người Nga cứu cơ mà!
- Rõ là anh không được biết chuyện gì cả. Ông anh được chuẩn úy Bestuzhev và vợ ông cứu sống. Hình ảnh nàng anh đang nhìn thấy ngay trước mặt. Nàng đây này.
Bác sĩ chỉ bức tranh vẽ Anna. Thì ra người phụ nữ có vẻ mặt hấp dẫn và khác thường này là người như thế đấy!
- Trong gia đình Jacobsson còn sống mãi hồi ức về tất cả mọi sự kiện liên quan đến việc giải thoát cho ông của anh. - Bác sĩ nói tiếp. - Điều ấy cũng dễ hiểu. Hãy tưởng tượng một gia đình hàng trăm năm không có chuyện gì xảy ra. Đàn ông thì đi biền, về già thì làm nghề chài lưới. Phụ nữ ngoài nhà cửa và con cái, chẳng còn nhìn thấy gì khác. Nghe nói nhà Jacobsson trước đây giàu có, thậm chí có cả tàu chạy buồm, nhưng điều đó đã lâu lắm rồi. Người thuyền trưởng cuối cùng, cha của Anna, bị phá sản, khi về già chỉ là một người gác đèn biển ở Erasgrund. Nhưng ông đã cho con gái học hành ở Stockholm. Đó là một cô gái khác thường. Anh hãy thử tưởng tượng xen cái gia đình buồn tẻ và tử tế ấy bất ngờ bị cuốn vào cơn bão của những sự kiện buồn thảm và không thể tưởng tượng được. Trong nhà họ xuất hiện người sĩ quan Nga trẻ tuổi Bestuzhev. Cực chẳng đã, người ta phải cho anh vào nhà. Ông già sợ và không ưa người Nga. Viên sĩ quan yêu Anna. Anna cũng yêu lại anh; nàng là một cô gái của những tình cảm lớn và khó tính. Ông già chẳng muốn nghe đến chuyện con gái lấy chồng người Nga. - Bác sĩ nín lặng để hút thuốc. - Thế rồi trên đảo người ta bắt giữ một người tham gia khởi nghĩa tháng Chạp. Ông ta định đi theo lớp băng đóng trên mặt vịnh giá rét căm căm sang Thụy Điền, vấp phải lính gác và bị bắt giữ. Những người dân chài và thuyền trưởng ở đó xôn xao cả lên, nảy ra ý đồ cứu người bị bắt, đánh tháo ông ta và đưa sang Thụy Điển. Pavel Bestuzhev đã đứng đầu âm mưu này. Khi đó cha của Anna đã dịu đi, ông tin ở sự cao thượng của người Nga kia và cho con gái được lấy anh ta. Nhưng số phận đã quyết định khác hẳn. Bestuzhev mấy ngày sau đã chết trong cuộc đấu súng. Người bị bắt chạy thoát nhờ sự giúp đỡ của Anna và các thủy thủ.
-Vì sao lại có cuộc đấu súng? - Shchedrin hỏi.
Bác sĩ nói bằng tiếng Thụy Điển với Peter và Marta, rồi trả lời:
- Bestuzhev đã tát vào mặt viên sĩ quan thủ trưởng của mình vì hắn đã cư xử thô bạo với người chiến sĩ tháng Chạp và đã lăng mạ Anna. Viên sĩ quan đã giết anh. Tám tháng sau ngày Bestuzhev chết, Anna đã sinh ra một cháu trai, con anh. Đó là cha của Peter. Chẳng bao lâu sau, Anna mất. Nàng bị đau yếu mãi, thậm chí ở đây người ta còn coi nàng là dở người nữa.
- Bác hãy hỏi hộ, - Shchedrin nói. - Người lính được chôn cùng với Bestuzhev là ai.
Bác sĩ lại nói tiếng Thụy Điển với vợ chồng Jacobsson và nhún vai:
- Họ không biết. Họ nói người lính đã chết sau khi bị phạt đòn, vì tội gì thì không thấy ai kể lại. Họ nghĩ là vì sự giúp đỡ cho người tháng Chạp.
Shchedrin nhìn Peter. Peter vỗ vào vai anh và cười. Anh quay lại Marta và nói gì với Marta, có lẽ là điều quan trọng. Marta vội vã đi ra rồi trở lại với quyển sách nhỏ bọc bìa da và đưa cho Shchedrin.
- Đây là cuốn sách của Bestuzhev - bác sĩ nói. Đây là kỷ vật duy nhất. Người ta đã tìm thấy ở Anna.
Shchedrin nương nhẹ cầm quyển sách, lật tờ bìa ra và đọc: '