Phần III
Trong vườn bách thảo trên đảo Aptekarsky, một chiếc máy ảnh nhỏ được chĩa vào cành táo trơ trụi. Tháng ba, trên cành nhu nhú những mầm lộc.
Cứ mỗi ba tiếng đồng hồ chiếc máy ảnh lại xạch một cái chụp một tấm ảnh. Cứ như vậy nó làm việc suốt tháng ba, tháng tư và tháng năm cho đến khi cành táo nở đầy hoa.
Aleksey Tikhonov đến vườn bách thảo luôn. Trên thân cây, trong hình dáng của những chiếc lá mọc chi chít hỗn độn trên cành, anh tìm thấy bao dáng điệu và màu sắc cho những bức tranh anh đang vẽ.
Anh đã thân với chiếc máy nhỏ màu đen khuất trong vòm lá như với một con người. Chiếc máy sống chung một cuộc sống với cây cỏ. Nó ở đây với vườn cây suốt bao ngày đêm, khi trong vườn ươm lặng êm như ru đến nỗi có thể nghe thấy tiếng đất hút vào mình những giọt sương rơi xuống. Tikhonov cảm thấy tiếc khi chiếc máy được mang đi, dường như người ta mang ra khỏi khu vườn một con vật bé nhỏ sống lẫn trong đám lá cỏ và không quấy phiền ai chút nào.
Các nhân viên vườn bách thảo cho Tikhonov xem cuộn phim chiếc máy chụp được. Người ta cho nó chạy chiếc máy đèn chiếu chừng năm phút. Tikhonov nhìn lên màn ảnh nhỏ mầu trắng và thấy rõ nụ hoa đã lớn lên trước mắt anh như thế nào, phồng lên căng đầy lớp nhựa dính, rồi vỡ tung, từ đó những cánh hoa nhàu duỗi ra như thể vươn vai sau một giấc ngủ, thành một bông hoa trắng và bỗng nhiên rung lên vì một tia sáng rọi lên mình nó.
Mỗi lần nghĩ tới những năm tháng trôi qua trên đất nước và cuộc đời riêng của mình, Tikhonov lại nhớ tới bông hoa tưởng như bất ngờ nhưng kỳ thực mở ra từ từ và dần dần.
Tikhonov biết rằng năm tháng trôi đi với sự điềm tính được định sẵn từ lâu, đúng với quy luật, rằng đất nước thay đổi theo từng tháng và cứ mỗi tháng những ý nghĩ, những ước muốn, những mục đích mới xác định nên bộ mặt của con người khác hẳn, lại nẩy ra trong tiềm thức.
Nhưng đồng thời những năm đã sống cũng tạo ra cái cảm giác dường như vẫn một buổi sáng ấy và đến trưa vẫn còn xa. Thời gian tưởng như là một chuỗi dài liên tục không vỡ vụn ra thành những năm tháng buồn tẻ. Năm đơn nhất, hùng vĩ của cách mạng kèo dài mãi.
Tuy thế, tóc trên thái dương Tikhonov đã điểm bạc. còn bàn tay của Nikanor Ilyich ốm yếu đã run run. Bác cứ phải ngừng việc luôn, ngồi không nhúc nhích và ca cẩm vì trái tim ọp ẹp.
Ông cụ không muốn bỏ hẳn công việc.
- Đã đến lúc chết rồi đây, - bác nói, - vậy mà cháu thấy đấy, bác vẫn cứ làm việc. Cố bám lấy. Tại sao nào? Rất đơn giản thôi, bát cảm thấy phải trả ơn cuộc sống mới bằng công việc của tuinh, để lại cho lớp trẻ những món quà quý giá và có ý nghĩa.
Và ông già đã để lại những món quà ấy. Đó là những đồ gỗ tinh vi được phục chế lại, những đồ vật không kém gì những công trình của các bậc thầy giỏi nhất của thế kỷ thứ mười chín.
- Bác chỉ học mò thôi, bác nói. - Làm sao đạt tới được trình độ mẫu mực là thắng lợi rồi. Còn thanh niên các cháu có tất cả mọi thứ. Nhân dân sẽ đòi hỏi ở các cháu nhiều hơn lớp già các bác.
Nhà văn trứ danh đã mất. Cả người thầy của Tikhonov - nhà họa sĩ có đôi mắt giận dữ, cũng đã qua đời. Mẹ Tikhonov, Nastya cũng đã mất.
Anh trở về Megra khi nhận được thư của mẹ gọi "về chôn cất cho mẹ".
Nastasya nằm trong căn nhà gỗ sạch sẽ và lặng im, môi hé cười, răng vẫn sáng bóng như hồi còn trẻ. Ngay khi còn sống, bà đã kể cho Tikhonov nghe là gần hal mưa năm trước đây có một người ở hải quân đã về Megra hỏi thăn về ông Semyon bị chết vì phạt đòn và hứa sẽ đến Petergof thăm Alyosha.
- Bác ấy có đến thăm con không? - Bà lo lắng hỏi. - Con nói đi, có đến không?
- Thưa mẹ, không, bác ấy không đến.
- Sao lại như vậy nhỉ?- Bà ngơ ngác hỏi, - Bác ấy người đẹp, cao lớn. Bao nhiêu năm mẹ vẫn nhớ bác ấy, mong gặp bác ấy, chẳng lẽ đã chết ngoài mặt trận.
Bà òa lên khóc.
Cả Katya, em gái của Tikhonov, một cô gái cao, ngăm ngăm đen từ Cherepovets cũng trở về đưa đám mẹ. Cô là giáo viên, nhưng đang muốn chuyển nghề làm hướng dẫn viên thể thao. Cô đã từng nhận giải thưởng những cuộc thi bơi thuyền. Cô yêu sông nước và những con thuyền mê say say cuồng nhiệt.
Tikhonov đưa cô về Leningrad và chỉ một tháng sau cô là làm ở trạm đua thuyền đảo Krestovsky.
Tikhonov vẫn sống ở đó, ở Petergof, trong nhà bác thợ mộc Nikitin. Leningrad trẻ dep, ngời sáng vì những tòa nhà mới xây. Thành phố đường bệ trút bỏ vẻ ủ ê trước đây, soi mình trong gương, trong đá cầm thạch, nhưng Tikhonov yêu hai ông bà già, không muốn làm phật ý và vẫn sống trong căn nhà của họ như trước đây.
Dù anh ở đâu - ở Sevastopol hay Baku, ở Vlapostok hay trên sông Volga - bao giờ anh cũng biết rằng anh sẽ trở về căn nhà này, căn nhà chất đầy những giá vẽ, phông vẽ, những mảnh gỗ quý, luôn bốc lên mùi thuốc vẽ, mùi cồn véc-ni và hoa thiên trúc quỳ mà bà Matrena đã trồng với sự kiên trì không bao giờ thay đổi.
Mặt sàn lát gỗ ga Baltic sẫm lại vì sương. Đêm trắng. Những chuyến tàu hỏa chạy điện đi về Petergof không bật đèn. Những toa xe kêu ầm ầm se sẽ ở những chỗ ngoặt, ngại làm kinh động sự tĩnh mịch của các khu nhà nghỉ, khuấy động tiết trời đã từ lâu lặng gió bên vùng ven biển.
Tikhonov vội đi về Petergof. Trên báo chí đã công bố quyết định về ngày hội văn hóa ở Leningrad dự định tiến hành vào ngày 24 tháng bảy. Tikhonov đi mang tin vui này về cho ông già Nikitin.
Ngồi bên cửa sổ toa xe, Tikhonov định dọc lại thông báo này tới lần thứ mười, nhưng ánh sáng yếu quá chỉ đọc được những hàng chữ in to. Tikhonov đặt tờ báo sang một bên nhìn ra cửa sổ. Đêm cao vời vợi, mờ sáng, trải ra phía trên. Một ngôi sao duy nhất vượt qua tăm tối tỏa ánh sáng chậm rãi trên ngọn cây cao của các khu vườn.
''Có lẽ là sao Mộc". - Tikhonov nghĩ. Anh tưởng tượng ra cả đêm trên vịnh Phần Lan, khi trong bóng tối chỉ thấy rõ ba điểm sáng: ngọn lửa trắng của cây hải đăng ở Kronstadt, ngọn lửa xám của ngôi sao Mộc, và ánh vàng điềm tĩnh của nóc nhà thờ Isaakievsky được ánh chiếu dương rọi vào. Bình minh ngời lên ngay đây, bên rìa trái đất[1]. Buổi sáng ở ngay bên cạnh và những người sống ở trên tầng cao các tòa nhà của Leningrad nhìn thấy nó suốt đêm từ các cửa sổ nhà mình.
... Ông già Nikitin không ngủ. Ông gọi Tikhonov qua khung cửa sổ mở ngỏ. Ông già vẫn làm việc: đánh bóng nắp chiếc đàn dương cầm cổ.
- Cháu mang báo về đó à, Alyosha? – Nikitin hỏi. - Nghe nói trong đó có tin về ngày hội của chúng ta.
Tikhonov đặc biệt yêu ông già vì tất cả những gì liên quan đến kiến trúc, điêu khắc, trang trí nhà cửa, cụ đều coi như công việc của chính mình. Nhà kiến trúc vĩ đại Zakharov người đã xây dựng Cung Đô Đốc hay nhà điêu khắc Andreyev đối với cụ cũng dễ hiểu gần gũi như những người làm đồ đồng, những người thợ nề vốn thân quen.
Giữa cụ và những người này có mối liên quan chung là sự hiểu biết nghề nghiệp, con mắt chuẩn xác và sự hòan thiện nhờ những nguyên vật liệu - dù đó là mộtt thanh gỗ mỏng, bột màu, hay một miếng đồng đẹp, thanh tiếng.
"Có sự kế thừa của nền văn hóa chính là ở chỗ đó, - Tikhonov kết luận, - ở trong sự hòa hợp ngàn đời của các bậc thầy, bất kể họ là ai - là thợ nguội, thợ mộc, nhà kiến trúc hay nhà thơ"
Nikanor Ilyich yêu cầu Tikhonov đọc thông báo về ngày hội. Tikhonov ngồi trên bậc cửa sổ đọc to lên những lời giản dị của bản thông báo mà anh cảm thấy chúng được viết ra để tạc vào đá:
"Nền văn hóa xã hội chủ nghĩa được giành lại bằng máu và được sáng tạo nên bởi công sức của nhân dân lao động toàn liên bang đang trên đường phát triển và nảy nở không ngừng. Thời đại xã hội chủ nghĩa đòi hỏi phải tạo nên những tượng đài hùng vĩ, những tác phẩm nghệ thuật có thể ghi lại và truyền cho hậu thế sự vĩ đại về bản chất anh hùng của nó. Việc sáng tạo những tác phẩm nghệ thuật này sẽ mở đường cho những tài năng muôn hình muôn vẻ, rất phong phú trong dân chúng toàn Liên bang được phát huy.
Thành phố của chúng ta – thành phố Lenin - không chỉ là cái nôi của cách mạng, trung tâm của nền đại công nghiệp tiên tiến, mà còn là thành phố của những bậc thầy vĩ đại trong mọi ngành nghệ thuật.
Việc tiếp thu các di sản văn hóa của xã hội chúng ta có những cơ sở lớn nhất để thực hiện ở thành phố chúng ta. Chỉ cần nhớ đến tên của các nhà kiến trúc - những người đã xây dựng thành phố –Bazhenov,Rastrelli,Voronikhin,Zakharov và những người khác - đã đủ để thấy rõ một ý nghĩa là chính nơi đây, chính tại thành phố Lenin, nước xã hội chủ nghĩa trẻ tuồi có thể học được những qui luật nghệ thuật của các nghệ sĩ vinh quang trong quá khứ.
Nhân dịp khai mạc tại Leningrad những học viện đào tạo các bậc thầy ngành kiến trúc, điêu khắc, hội họa, khắc gỗ, các bậc thầy của nghệ thuật đồ đá, kim loại sành sứ và đá hoa, Xô viết Leningrad quyết định tổ chức vào ngày 24 tháng Bảy, ngày hội lớn của toàn dân. Ngày hội này phải mang một ý nghĩa chủ chốt là thành phố xã hội chủ nghĩa không chỉ là nơi sinh sống của cư dân, nơi tập trung các cơ quan Nhà nước, các tổ chức xã hội, các nhà máy công xưởng mà còn là một tác phẩm nghệ thuật độc lập - yếu tố hùng mạnh trong việc giáo dục nghệ thuật cho quần chúng".
- Thông báo này nói lên điều gì? Bác hiểu nó như thế nào? - Nikanor Ilyich nói. - Nó nói về sự cao cả của tâm hồn con người. Đã từ lâu bác nhận thấy nhân dân mỗi lúc một khác, tùy theo họ nhìn thấy gì ở chung quanh.
- Thế thì sự cao cả của ông ở đâu, - bà Matrena nói vọng ra từ góc phòng - Khách hàng đã gửi điện đến hỏi, lo lắng; vậy mà nắp chiếc đàn ông vẫn chưa làm xong.
- Chẳng có chuyện gì với ông khách hàng cả. Ông ấy sẽ bỏ qua hết cho ta vì cái nắp đàn này. Ông ta là một nhà hàng hải hiểu biết rất rộng. Nói chuyện với ông ấy mới khó chứ. Tôi nói về gỗ đen, ông ấy lại nói và khí hậu. Làm khổ mình vì cái khí hậu ấy!
- Cái khí hậu ấy làm sao cơ? - Tikhonov hỏi.
- Khi hậu là chuyện phức tạp. Nếu ông ấy thành công thì chúng ta sẽ trở thành một dân tộc hạnh phúc nhất thế giới. Trong phòng ông ta có một khoanh gỗ sồi - cây sồi đó phải tới bốn trăm tuổi, nếu không hơn. Cứ trông những lớp hình thành theo năm thì rõ. Cái đó ta thường gọi là "mắt gỗ". Lớp này dầy hơn, lớp kia mỏng hơn, có lớp mỏng dính như sợi chỉ. Thế rồi ông ấy hỏi: "Bác Nikitin người thợ một tài hoa, con người thông thái, bác thấy gì trước mắt?". "Chỉ là những thớ gỗ thôi" bác trả lời - Những thớ gỗ sồi này nếu biết đánh bóng cho cho khéo thì cũng đẹp lắm". Ông ấy lại bắt đầu tranh luận: "Vấn đề không phải ở chỗ đánh bóng mà ở những kết luận chính xác cơ. Trong mức độ nào đó tôi là nhà khí tượng và thực vật học. Ông ta nói. Mỗi năm thân cây dày lên một lớp gỗ tùy theo độ ẩm. Vào mùa hè mưa nhiều lớp gỗ dầy hơn, mùa hè khô hạn thì mỏng hơn, vì thế theo khúc gỗ sồi này có thể biết được trăm năm trước đây khí hậu chung quanh nó ra sao". "Ông biết điều đó đề làm gì?" - bác lại hỏi. - Có ích lợi gì cho người ta nhờ điều ấy", "Có chứ, - ông ta mới, - nhưng kể ra dài dòng lắm. Tạm thời tôi chỉ nói tóm gọn lại như sau: Căn cứ vào những thân gỗ này và một vài điều khác, chúng tôi đã tìm ra một điều tuyệt vời. Đó là đã có thời kỳ xa xưa khí hậu ở nước ta ấp áp và dễ chịu như đảo Ceylon ấy. Những rừng mộc lan mọc san sát ven bờ vịnh Phần Lan. Chúng tôi đang cố gắng đem trả lại khí hậu ấy cho vùng này, ông ta còn nói là điều đó có thể làm được mà không có gì là kỳ diệu cả".
- Chết yên cũng chả muốn! – Bà Matrena lầu bầu, - những lão già ngu ngốc, thiên trúc quỳ còn chưa vừa lòng lại muốn mộc lan cơ.
- Thiên trúc quỳ sánh với mộc lan là cái quái gì. Lá thiên trúc quỳ thô ráp chán ngắt. Bà già đừng có cãi lại với ta nữa!
Hai ông bà già cãi cọ nhau. Tikhonov cáo lui đi lên gian gác xép của mình. Từ cửa sổ nhìn rõ mặt vịnh. Một con chim nhẩy chuyền trong cành cây ướt át và thận trọng hót lên như gọi ai. Đồng hồ ở dưới nhà xè xè một lúc lâu rồi điểm liền hai tiếng.
Tikhonov đứng tư lự bên cửa sổ. Sau đó thận trọng xuống nhà, đi ra vườn thượng uyển.
Không muốn ngủ. Không thể đọc sách cũng như không thể bật đèn sáng lên. Ánh sáng bàng bạc tản mạn của đêm trắng làm cho ánh điển trở nên lạc lõng và gay gắt trên. Nó dường như ngăn dòng đêm đang từ từ trôi lại, làm tan biến mất những bí mật như những con thú vô hình mượt mà đang cuộn mình trong các góc phòng, làm cho các đồ vật trở nên thực hơn như chúng vốn có trong thực tế.
Ánh sáng xanh nhạt mờ mờ đọng trong các hàng cây. Những bức tượng vàng lấp lánh. Các đài phun nước im lặng về đêm, không nghe tiếng rào rào hối hả của chúng nữa. Chỉ có những giọt nước lẻ tẻ rơi xuống, tiếng lanh tanh vang đi rất xa.
Ánh dương tỏa xuống những bậc thềm bằng đá, một thứ ánh sáng vàng vàng từ các bức tường và các cửa sổ phản chiếu lại tỏa xuống đất.
Cung điện thấp thoảng giữa bóng tối của những lùm cây như một chiếc lá vàng đơn độc ánh lên giữa đám lá cây còn tươi mới và tối sẫm vào buổi đầu thu.
Tikhonov đi dọc theo kênh đào ra vịnh. Trong kênh, những đàn cá nhỏ lượn lờ giữa những hòn đá mọc đầy rêu.
Vịnh biển sáng ngời và yên tĩnh. Sự yên lặng bao khắp trên mặt vịnh. Biển vẫn còn chưa thức giấc. Chỉ có ánh nước hồng hồng báo trước bình minh đang đến gần.
Một chiếc tàu đại dương đi về Leningrad. Ánh chiếu dương đã sáng lên trên những cửa sổ tròn và một làn khói nhẹ kéo dài sau đuôi tàu.
Con tầu kéo còi chào đón thành phố vĩ đại miền Bắc, chặng cuối của con đường biển khó khăn. Xa xa, trong thành Leningrad, nơi tháp nhọn của Cung Đô Đốc ánh lên sắc vàng yếu ớt, vang lên hồi còi dài của một con tàu khác đáp lại.
Trong lòng kênh, những chiếc xuồng đậu san sát. Các thủy thủ trẻ chùm vải bạt ngủ trên đó. Tikhonov nhìn thấy những khuôn mặt hồng hào trong giấc mơ của họ, nghe thấy tiếng ngáy nhẹ nhàng thưa thớt. Gió sớm mai từ biển thổi về lay động những vòm lá trên đầu.
Tikhonov đi ra bờ vịnh. Không một bóng người. Mãi ở cuối bến tàu mới thấy một người con gái nào đó đang ngồi trên chiếc ghế gỗ dài.
"Nàng ở đây làm gì vào giờ này?" - Tikhonov nghĩ thầm. Con mèo đen trụi lông thận trọng bước trên sân bến tầu lát gỗ và sau mỗi bước lại rung chân một cách õng ẹo...
Tikhonov đứng bên là lan can và nhìn xuống mặt nước. Con mèo cũng nhìn và mắt nó lập tức đen lại. Gần chiếc cọc gỗ, một đàn cá bạc đuôi dài đang bơi di bơi lại. Người thiếu nữ đứng dậy và lại gần Tikhonov. Anh nhìn cô và cô cùng lại gần càng nghe rõ tiếng chân bước nhẹ nhành từ trong sương mờ vọng lại. Anh đã thấy rõ nụ cười ngượng ngịu của cô. Chiếc mũ phớt nhỏ tỏa bóng xuống trán cô, vì thế đôi mắt nom càng sáng lên. Chiếc áo váy lụa màu nước biển vừa óng ả, vừa lạo xạo và Tikhonov nghĩ rằng người thiếu nữ hắn phải thấy lạnh, - giỏ sương mai dù có ấm thế nào bao giờ cũng mang theo hơi tuyết.
Người thiếu nữ lại gần, Tikhonov nhìn cô và đoán ra đây là người ngoại quốc.
- Ông làm ơn... - người thiếu nữ nói chân rãi và một nếp nhăn nhỏ hiện lên giữa hai hàng lông mày.
- Ông làm ơn chỉ giúp tàu thủy về Leningrad sắp đi chưa?
Có lẽ cô phải là từng lời và nói chọ chẹ.
- Còn hai giờ nữa cơ. Cô nên đi xe lửa thì nhanh
Người thiếu nữ lắc đầu không tán thành.
- Không đi xe lửa được. Tôi sẽ không biết đường từ ga về nhà ở Leningrad.
- Tại sao cô lại ở đây vào giờ này? – Tikhonov.
- Tôi bị lỡ chuyến tàu thủy cuối cùng. Thật ngu xuẩn. Tôi đã ngồi đây cả đêm. Chỉ có tôi và con mèo đáng sợ này thôi. - Cô chỉ con mèo và bật cười.
- Cô là người Pháp ư? - Tikhonov hỏi và đỏ mặt; anh cảm thấy câu hỏi không được lịch sự lắm.
Người thiếu nữ ngẩng đầu lên. Trong khuôn mặt trái xoan đầy đặn và cái cằm nhỏ, đồng thời có một cái gì đó vừa của người Pháp, vừa của người miền Bắc. Với
- Ồ không? - Cô nói dài giọng. – Tôi là người Thụy Điển. Nhưng tôi nói tiếng Pháp.
Tikhonov nhìn cô, nhưng nghĩ về mình. Anh cố hình dung con người mình từ bên ngoài.
Tuy đã nhiều tuổi, anh vẫn cảm thấy mình là một chú bé và luôn khổ sở trong dom người lớn tuổi. Những bạn cùng lứa với anh đều đã trở nên những người trịnh trọng cả về hình thức lẫn trong nếp nghĩ. Tikhonov vẫn chưa tin được là mình có tài và anh vẫn thích tất cả những gì các chú bé ưa thích: những chuyển đi câu, những chuyến đi xe lửa, nhà ga, những cuộc trượt tuyết, những chuyến tàu thủy và các cuộc du lịch.
Trước những người cùng tuổi anh thường lúng túng, cảm thấy gò bó và biết rằng anh không thật đúng như người ta tưởng lượng. Khi đọc những bài báo về mình hay nghe các họa sĩ bầu bạn nói về năng khiếu của anh, Tikhonov dửng dưng như nghe nói về một người cùng tên hay một kẻ đồng dạng.
Anh biết rằng cho đến nay bức họa đẹp nhất của anh vẫn chưa được vẽ, và vì thế anh ngạc nhiên một cách chân thành về những lời bàn tán xôn xao ngày một nhiều chung quanh các tác phẩm của anh.
Giờ đây anh nghĩ về mình vì càng đặc biệt cảm thấy mình là một cậu bé. Anh lúng túng, trước mặt người thiếu nữ không quen biết, trẻ tuổi hơn anh.
Người thiếu nữ cũng bối rối và cuối xuống để giấu mặt, tay vuốt ve con mèo trụi lông. Con mèo nhìn cô dò hỏi và kêu mео mео.
Mặt trời mọc. Các khu vườn bắt đầu cháy lên, trút bỏ làn sương sớm. Ánh sáng sinh động lướt nghiêng qua mặt người thiếu nữ như một làn gió, lóe lên trong mắt cô gái, soi tỏ hàng mi và bàn tay run run nắm lấy thành lan can.
Mặt vịnh được lợp kín những vết ánh sáng và sương mù. Xa xa, vang lại theo mặt nước tiếng còi nhè nhẹ của chiếc tàu từ Oranienbaum về. Chuyến tàu thủy đi Leningrad.
Người bảo vệ bến tầu gầy nhỏ và thọt chân, cầm mấy chiếc cần câu bước ra sân lát ván. Ông ta chào Tikhonov và hỏi:
- Sao anh về Leningrad sớm thế, Aleksey Nikolaevich?
- Không, cháu đi tiễn đấy ạ. - Tikhonov trả lời.
Người bảo vệ tháo những chiếc cầu câu, ngồi thõng chân xuống từ trên bến, bắt đầu câu cá. Thỉnh thoảng ông lại nhìn Tikhonov vì người thiếu nữ, lại thở dài và khẽ ngâm:
"Ý nghĩ về tuổi trẻ bị mất đè nặng lên trái tim ốm yếu của anh ta”.
Chiếc phao động đậy, ông chửi tục và giật lên một con cá nhỏ.
Chiếc tàu không người lại gần. Tikhonov tiễn người thiếu nữ đến chân cầu thang. Cô chìa bàn tay cho anh và lơ đãng nhìn vào mắt Tikhonov.
- Chào anh. – cô nói và quay đi. - Cảm ơn anh.
- Các hành khách chú ý. - Thuyền trưởng nói từ trên cầu chỉ huy, - Đến giờ rồi!
Cô gái bước lên cầu thang. Con tàu kêu lên giận dữ, từ từ giật lùi, quay mũi ra biển. Những cọc tiêu cao lấp lánh trên mặt nước.
Tikhonov nhìn thấy người thiếu nữ không quen biết trên boong tàu. Gió cuốn vạt váy chung quanh đôi châu cao của cô và làm lá cờ ở mũi tàu bay phần phật.
Tikhonov đi lên bờ. Đến chỗ người bảo vệ, anh ngoái nhìn lại. Người thiếu nữ vẫn ở trên boong.
- Một mùa hè lạ làm sao? - Người bảo vệ nói. - Tôi chưa bao giờ thấy một mùa hè như thế này ở Baltic. Tràn đầy ánh nắng.
Tikhonov đồng ý, đi từ từ ra khỏi bến tầu, nhưng khi vừa khuất sau những rặng cây công viên, anh đi nhanh ra ga.
Chuyến tàu hỏa đầu tiên đi Leningrad chạy lúc sáu giờ sáng. Chờ lâu, Tikhonov vừa hồi hộp vừa hy vọng ngốc nghếch là nó sẽ khởi hành sớm hơn.
Về đến Leningrad, anh gọi ngay taxi, bắt chở ra bến tàu Petergof. Thành phố rực lên dưới những vệt sáng và bóng râm. Những người gác cổng đang tưới hoa trong các vườn hoa. Làn nước chậm rãi từ những chiếc vòi phun ra bay tạt theo chiều gió. Qua cầu, gió từ sông Neva đập và ô cửa sổ xe.
Chiếc tàu thủy quen thuộc đậu bên bến, không còn một ai. Một thủy thủ đi chân đất đang quét boong tàu bằng bàn chải,
- Các ông từ Petergof về đã lâu chưa? - Tikhonov hỏi.
- Mười phút rồi.
Tikhonov đi ra đường bờ sông. Cô gái ấy vừa ở đây, có thể một phút trước đây thôi. Anh biết điều đó qua ánh nước lấp lánh, qua những tia nắng nhảy nhót trên bờ sông lát đá hoa cương, qua đôi mắt hiền hậu của người đánh giày đang ngồi tư lự với những chiếc bàn chải của mình, qua những áng mây nhẹ lướt trên nền trời.
*
* *
Shchedrin sống trong căn nhà nhỏ mới xây gần trạm đua thuyền trên đảo Krestovsky.
Những căn phòng trong nhà được xây ở các độ cao khác nhau. Phòng nọ sang phòng kia nối nhau hai ba bậc thang. Điều đó, làm cho ngôi nhà có một phong cách ấm áp của những nguời sống trên tàu biển; đã thế, cầu thang lên tầng hai lại có tay vịn bọc đồng và những cửa sổ hình tròn giống như trên một chiếc tàu thủy.
Tóc Shchedrin đã bạc đi nhiều, khi đọc, ông đã phải mang kính. Ông dạy môn khí tượng học và thiên văn học ở Trường đại học Hàng hải.
Trong phòng ông có nhiều máy đo bằng đồng, la liệt những bản đồ có đánh dấu bắng bút chì xanh đỏ, Các máy móc trong những ngày trời sáng tỏa sáng mờ mờ như nến.
Vẻ sạch sẽ trong nhà cũng đạt tới trình độ của tàu biển. Viner trông nom dọn dẹp nhà cửa. Ông đã bị mất một tay trong trận chiến đấu ở Elabuga và từ đó không còn điều khiển được các cỗ máy yêu quý nữa.
Shchedrin vẫn trao đổi thư từ với vợ chồng Jacobsson và bác sĩ ở Mariehamn. Đầu tháng sáu, Maria Jacobsson đã từ Stockholm về đây chơi hai tháng. Có Shchedrin và Viner đều gọi cô là Marie.
Sự có mặt của người con gái trẻ tuổi đã làm thay đổi bộ mặt của các căn phòng trước đây vẫn yên tĩnh và chính xác như các máy móc thiên văn. Thoáng hiện một vẻ bề bộn dễ thương. Những chiếc bao tay phụ nữ nằm trên kính lục phân, những cánh hoa rắc lên mặt bàn viết lên những bản thảo chi chít những con số, mùi nước hoa và mùi vải mỏng thoang thoảng khắp nơi từ căn phòng của Marie trên tầng hai, mảnh giấy bạc bọc thanh sô-cô-la nằm vương trên đi-văng bên cạnh cuốn sách đang đọc đến đoạn giữa. Marie đọc ngấu nghiến để hiểu tiếng Nga được nhiều hơn.
Bên cạnh những bức chân dung của Anna Jacobsson, Pavel Bestuzhev và mẹ của Shchedrin, Marie luôn đặt trên mặt bàn con một bó lá, mấy nhánh cây đoạn, những bông hướng nhật quỳ. Trước đây căn nhà giống như con tầu, giờ đây nó còn giống một vườn ươm nữa.
Marie còn thiếu chín chắn và điều đó làm Shchedrin lo lắng. Cô vẫn giống hệt cô bé đã cậy vòng tay áo nạm vàng của ông thời ở Mariehamn.
Cô vui sướng vì tự do, hân hoan vì được đi lại một mình trong thành phố, vui sướng vì tất cả những gì được nhìn thấy ở Leningrad: các cung điện, nhà hát, cuộc sống không có những quy ước gò bó mô phạm, sự giản dị trong quan hệ giữa đàn ông và đàn bà, giữa nhà bác học và người công nhân và cuối cùng, vì ở đâu người ta cũng nhìn cô với một nụ cười. Cô cũng mỉm cười đáp lại mặc dầu cố làm ra nét mặt nghiêm nghị của một người đàn bà xinh đẹp đang có chiều thất vọng.
Đặc biệt những cuộc đi chơi của Marie làn Shchedrin lo lắng. Đã hai lần cô bị lạc. Một lần, một em thiếu nhi gầy, bé, đã đưa cô về nhà. Bấm chuông xong, em trao cô tận tay cho Viner và nghiêm túc nói:
- Bác đừng cho chị ấy ra phố một mình. Cháu phải dẫn chị ấy tận Smolny về đấy.
Marie hôn lấy hôn để chú bé, lôi chú vào phòng cho xem mô hình tàu "Dũng Cảm", các dụng cụ, bản đồ các bức tranh mô tả cảnh bão biển hay biển lúc trời êm. Chú bé được mời uống chè, cho kẹo và ra về vừa bàng hoàng, vừa sung sướng.
Chuyện xảy ra lần thứ hai xấu hơn. Marie đi chơi Petergof, lúc về bị lỡ chuyến tàu thủy cuối cùng và suốt đêm phải ngồi trên bến tầu trong một chiếc áo váy mỏng.
Hai giờ đêm, Shchedrin gọi điện đến hàng chục đồn công an, dựng dậy hàng chục người, còn sau đó khi tìm thấy Marie, ông đã phải xin lỗi và nghe những lời nhận xét bông đùa của những người trực ban.
- Chuyện vặt thôi mà! - Marie nói trong buổi trả sáng. Mắt cô long lanh mặc dầu buồn ngủ đến chết được. - Ở đất nước của chú, cháu chả sợ gì hết. Thậm chí đang đêm cháu còn lại gần một người trẻ tuổi và trò chuyện với anh ấy hồi lâu.
- Về điều gì? - Shchedrin hỏi.
- Về tất cả, - Marie trả lời. - Sau đó có một người đi khập khiễng ra câu cá, cúi chào cháu như nhột người quen biết đã lâu.
- À, thế thì chắc phải là Ackerman rồi. - Shchedrin thốt lên. - Cái con quỷ già ấy! Ông ta vẫn đi câu ư?
- Vâng, - Marie nói. - Cùng với một con mèo, y như trong chuyện cổ tích ấy.
Marie ngủ đến tận chiều. Các cửa sổ để ngỏ. Gió lật những trang sách bỏ quên trên bậu cửa. Gió đảo những trang sách khi lên trước, khi lùi lại, tìm những câu ưa thích và khi tìm ra thì chừng lại: "Từ vương quốc của gió, vương quốc của băng giá và tuyết trắng, tháng năm của em đến sao trong trắng và tươi vui."
Marie thức giấc vì tiếng loạt xoạt ngoài cửa sổ. Gió thổi tung những bì thư đã xé trên mặt bàn. Trời tối. Xa xa, ngoài ven biển một tiếng sấm vang động gầm lên rồi trượt xuống vực sâu.
Marie nhổm dậy. Một tia chớp lóe lên ngoài cửa sổ, rung rinh rồi tắt đi trong chiều sâu của những khu vườn đang nổi gió.
Marie nhanh nhẹn rửa mặt, mặc quần áo và chạy xuống tầng dưới. Shchedrin đang ngồi bên dương cầm.
- Có giông đấy, - Ông bảo Marie. - Cháu đã ngủ chín giờ liền.
- Chú đang chơi gì đấy ạ? - Mari hỏi và ngồi vào chiếc ghế bành, chân co lại.
Cô nhìn ra cửa sổ, nơi gió nóng đã ào ào thổi trong các khu vườn, ném lên bậu cửa số những chiếc lá lìa cành. Một chiếc lá rơi lên mặt đàn dương cầm. Nắp đàn không có và chiếc lá cuộn vào giữa những sợi dây đàn thép. Shchedrin thận trọng gỡ chiếc lá ra và nói:
- Tchaikovsky[2]. Nếu chú là nhạc sĩ, hẳn chú phải viết một bản giao hưởng về khí hậu.
Marie bật cười.
- Cháu đừng cười, - Shchedrin nói và bấm đàn. - Tất cả cái đó giản đơn thôi. Chúng ta có thể trả lại khí hậu Trung Tân kỷ[3]cho Âu châu, chú không biết ở Stockholm cháu có học lịch sử trái đất không. Nhưng chắc cháu phải biết là trái đất đã trải qua mấy thời kỳ băng hà khủng khiếp.
Marie so vai lại.
- Không cần chúng thêm nữa. - Cô nghiêm trang nói.
- Tất nhiên là không cần rồi, Băng hà sinh ra từ Greenland. Phải kể ra dài dòng lắm mới hiểu được, nhưng chú chỉ nói gọn lại là chúng ta có thể thủ tiêu băng hà ở Greenland. Khi đã tiêu diệt được chúng rồi thì khí hậu Trung Tân kỷ sẽ trở lại châu Âu.
- Có ấm áp không?
- Rất ấm là khác, - Shchedrin trả lời. - Vịnh Phần Lan sẽ nhả hơi như một nồi sữa. Một năm ở đây sẽ có hai vụ mùa. Những rừng mộc lan sẽ nở hoa trên đảo Aland. Cháu hãy thử tưởng tượng xem: những đêm trắng trong rừng mộc lan! Có thể phát rồ lên được ấy chứ!
- Phát rồ lên là thế nào ạ? - Marie hỏi.
- Làm thơ, phải lòng các cô gái, tóm lại là điên.
- Tuyệt quá! - Marie nói. - Nhưng muốn thế, phải cần những gì?
- Chuyện lặt vặt thôi. Cần phải có một cuộc cách mạng nhỏ ở Greenland. Cần phải bắt đầu những công trình khổng lồ, để ít ra là trong một thời gian làm tan lớp băng dày một mét rưỡi trên các đỉnh núi cao. Thế là đủ.
- Chú làm sao đi được đến chỗ đó?
Shchedrin chỉ những quyển sách nằm xếp đống trước mặt bàn, những bản đồ và máy đo.
- Thế những thứ này để làm gì? - Ông nói: Các bác học của chúng ta làm việc ở trên bắc cực. Những số liệu của họ đã giúp cho chú được nhiều.
Trận mưa lớn rào rào ngoài cửa sổ, trong phòng trở nên tối. Những bong bóng không khí vỡ trong các vũng nước trong vườn và có thể vì thế những làn sóng ozone nhỏ từ các vũng nước đồn tới.
- Chú đàn đi, - Marie yêu cầu. - Mỗi ngày chú lại kế cho câu nghe những chuyện cổ tích y như với một con bé ngốc nghếch.
- Đó không phải là chuyện cổ tích đâu, - Shchedrin nói và dạo một khúc nhạc trong ca kịch "Yevgeny Onegin" - Pushkin cũng không phải là một chuyện cổ tích. Tất cả những cái đó đều là thật cả.
Marie hít sâu vào lồng ngực và tư lự. Cuộc gặp gỡ buổi sáng lúc này cô thấy xa như thời thơ ấu. Nó có thực không? Anh ấy là ai - người có bộ mặt trẻ trung, xương xương, thái dương điểm bạc ấy?
Tại sao cô không hỏi anh là ai? Khó mà gặp lại người ấy lần thứ hai trong thành phố lớn mênh mông như thế này.
Trận mưa đã qua, những hạt nước rơi lách tách từ các lá cây xuống.
Marie se sẽ đứng dậy khoác chiếc áo mưa và đi ra. Cơn giông chạy sang phía Đông. Phía Tây sáng lên ánh hoàng hôn dịu dàng được cơn mưa rửa sạch.
Marie đi về Vườn Mùa Hạ.
Cô dạo bước dưới những hàng cây ướt át của khu vườn, đi ra kênh Lebyazhya, ngắm nhìn hồi lâu điện Mikhailovsky.
Đêm huyền ảo lắng xuống trên thành phố. Bước chân của những người qua lại vang lên trong tĩnh mịch. Những cây đèn trắng trên các quảng trường chỉ sáng hơn đêm chút ít.
Những tòa nhà hùng vĩ vây quanh, Marie tưởng như chúng được vẽ nên bằng mầu nước. Chỉ có những hàng cột tròn, những mặt tiền được ánh sáng tản mạn tỏa sáng nổi lên. Không thể đoán được ánh sáng từ đâu tới. Phải chăng đó là bóng đêm phản chiếu lại từ các mặt kênh hay vệt ánh nắng chiều còn tỏa mờ ở phía Tây hay những cây đèn hòa hào quang của mình với bóng tối tạo nên ánh sáng này. Nhưng nó gọi nên sự tập trung, sự suy ngẫm và nỗi buồn man mác.
Marie đi qua Ermitazh[4]. Cô đã có thăm qua viện bảotàng và lúc này cố hình dung ra những gian phòng của nó trong đêm, ánh nước mờ mờ của sông Neva ngoài cửa sổ, sự im lặng ngàn đời của các bức tranh.
Marie đi ra quảng trường Cung Điện Mùa Đông và dừng lại. Cô không rõ thiên tài của ai, bàn tay tinh tế của ai đã tạo nên những hàng cột tròn, những tòa nhà, cổng chào, hàng rào gang tuyệt trần - cả một khoảng không gian bao la tràn đầy bóng đêm biếc xanh mát rượi và tư tưởng kiến trúc kỳ vĩ này.
Trở về, Marie đi bằng chuyến ca-nô chạy sông cuối cùng. Toàn thân tàu bằng kính, vắng vẻ, nó lắc lư đưa cô lướt trên sông Neva tối đen, qua pháo đài Petropavlovskaya, qua các thành quách, chiến lũy, những giác lầu, trụ cọc, những chiếc cầu và công viên. Người công an ngủ gật trong một góc phòng trên tầu.
Ngoài cầu Tự Do, một luồng ánh sáng đèn pha rộng chiếu lên trời, ngùn ngụt sáng rồi yếu dần đi. Nó hạ thấp dần xuống và soi sáng trên bờ sông tòa nhà bằng đá trắng giản dị và hùng vĩ.
Người công an mở mắt.
- Bắt đầu công việc chuẩn bị, - anh ta nói với Marie, - Người ta soi sáng những tòa nhà đẹp nhất.
-Chuẩn bị gì cơ? - Marie hỏi.
- Chuẩn bị ngày hội mừng thành phố chúng tôi. - Người công an nói. - Trên thế gian này không có thành phố nào đẹp hơn Leningrad của chúng tôi. Tôi sống ở đây từ bé, nhìn nó mãi mà vẫn chưa thấy chán. Ban đêm đứng gác mà có khi không hiểu được đây là mơ hay thực. Đến gần tòa nhà, thấy rõ biển ghi số nhà có đèn sáng, bấy giờ mới yên tâm: tất cả đều là thực.
Marie e thẹn mỉm cười.
- Tôi đang học ở trường đua thuyền, - người công an nói. - Tôi vẫn phóng thuyền đua ra biển. Chiều tối ra đi, thành phố không còn thấy rõ nữa, nó chỉ còn mờ ở trong sương mù, chỉ thấy ánh lửa lấp lóe dưới mặt nước. Thậm chí khô ng muốn lên bờ nữa.
- Vậy anh đứng ở đâu trong thành phố? - Marie hỏi. - Chị chắc không phải người Nga. Chị nói khác.
- Tôi người Thụy Điển.
- À..., - anh công an nói. - Có nghĩa là chị cũng đi ngắm cảnh? Tôi ở Kênh Mùa Đông, nơi Lisa[5] đã tự vẫn.
Đến đảo Krestovsky, Marie xuồng tầu. Anh công an cũng xuống và đưa cô về nhà.
- Tôi không sợ đâu, anh tiễn làm gì! – Marie ngượng ngập nói. - Anh vừa làm việc, mệt rồi.
- Chị đừng lo, - anh công an nói. - Tôi không phải về nhà. Tôi đi đến trạm đua thuyền và ngủ ở đó. Đằng nào đến sáng cũng phải tập để dự ngày hội. Sẽ có cuộc đua. Thẳng từ đây tới Sestroretsk. Thử sức đấy!
Bên cạnh cổng nhà mình, Marie chia tay với anh công an. Anh lịch sự bắt tay cô rồi đi. Marie đứng lại trong vườn một lát rồi bật cười. Cô suy nghĩ: các bạn gái của cô ở Stockholm sẽ nghĩ gì khi cô chìa tay cho một người công an canh gác.
*
* *
Chuẩn bị ngày hội thành phố được chia thành nhiều khu. Việc trang trí các tòa nhà và đường phố được giao cho một họa sĩ và kiến trúc sư.
Tikhonov được giao khu Petergof. Ngày hội ở Petergof sẽ mang tính cách của biển. Các đội tàu chiến từ Kronstadt sẽ về đây và trong Cung điện sẽ có cuộc dạ hội của các chiến sĩ hải quân già và trẻ, cuộc gặp gỡ của hai thế hệ.
Sau cuộc gặp gỡ ở bến tàu, Tikhonov tìm ra trong con người mình những đặc điểm mới. Anh bắt đầu nhận ra nhiều thứ trước đây anh vẫn thường hờ hững bỏ qua. Thế giới bỗng trở nên tràn đầy màu sắc, ánh sáng, âm thanh kỳ lạ. Là họa sĩ, trước đây anh chưa hề nhận ra sự đa dạng của màu sắc phong phú đến thế. Chúng ở khắp mọi nơi, nhưng nhiều hơn cả chan hòa trong nước biển. Thế giới trở nên đầy ý nghĩa trong tất cả. Tikhonov cảm thụ cuộc sống trong sự thể hiện muôn hình muôn vẻ của nó như một cái gì thống nhất, hùng hậu, được tạo ra cho hạnh phúc.
Cái cảm giác tràn đầy sự sống này anh chịu ơn thời đại của mình. Cảm giác ấy càng tăng lên dưới âm hưởng của cuộc gặp gỡ người con gái trẻ vào buổi sớm mai
Có một cái gì đó không thể viết nên, không thể kể lại về cuộc gặp gỡ đó. "Cái gì đó'' - là tình yêu. Nhưng Tikhonov chưa chịu thú nhận với mình. Trong tiềm thức anh tất cả hòa vào một vòng tròn sáng chói.
Tiếng còi xa của con tàu đại dương, ánh vàng lấp lánh của thành phố trong bóng tối sớm mai, sự yên tĩnh của mặt nuớc, những bước chân của người phụ nữ, người bảo vệ bến tàu khập khiễng và những lời lẽ của ông về mùa hè khác thường trên biển Baltic.
Trong tậm trạng đó, Tikhonov bắt đầu trang hoàng khu Petergof. Trong khi làm việc, anh nghĩ về thời đại của anh, về đất nước và về cô gái người mà anh không quen biết.
Anh nhớ lại những lời của nhà văn trứ danh, người ngày xưa đã vuốt ngược mớ tóc anh và gọi anh là "bé nhóc". Anh đã đọc mọi cuốn sách và luận văn của ông. Trong một bài luận văn, nhà vặn đã nói với người cùng thời trẻ tuổi của mình:
"Khi anh viết - hãy nghĩ về nàng dù rằng nàng không ở đó đi nữa, về những con người tuyệt vời, mà đối với họ - anh cũng là một người tuyệt vời nhất, - hãy kể một cách chân thành giản dị, thật tâm tình về điều chỉ mình anh biết rõ, mà nàng và cả họ cần phải biết - hiểu không?"
Nàng đã có. Và Tikhonov nghĩ về nàng, nghĩ rằng nàng sẽ qua đây, sẽ nhìn thấy tất cả vẻ đẹp mảnh đất được tô điểm và sẽ cảm thấy, cũng như anh, hơi thở của một đất nước tự do, vui sướng, nơi nàng đến làm một vị khách.
Nikanor Ilyich xúc động bàng hoàng khi được biết Tikhonov được giao việc trang hoàng Petergof. Mấy ngày liền ông xúc động hoài công, không có ai để chuyện trò. Matrena rất ít nói, còn Tikhonov thì quá bận. Vì vậy ông già mừng đến phát khóc khi Katya về Petergof. Cô về đề hỏi người anh về việc trang trí những chiếc thuyền gỗ và thuyền đua vào ngày hội sắp tới.
Từ chỗ Tikhonov, cô xuống chỗ hai ông bà già và Nikanor Ilyich lập tức bắt chuyện với cô.
- Lão thích những ngày hội, - Nikanor Ilyich nói. - Theo lão, đối với con người, ngày hội có khi còn cần hơn cả bánh mì.
- Ôi, lạy chúa! - Matrena thở dài. - Không còn sức đâu mà chịu nổi nữa, Katyusha, cháu hãy làm cho ông ấy dịu bớt đi hộ bà với.
- Bà im ngay! - Nikanor Ilyich nói giọng hăm dọa. - Chính bà sẽ tự dọn dẹp, lau chùi nhà cửa để đón ngày hội. Chỉ lo bà không chịu mang những bộ đồ tã của mình thôi. Sao lại như vậy hả? Tôi hỏi bà đấy. Trả lời xem.
Katya giảng hòa qua quýt hai cụ già rồi ra về.
Còn chiều hôm đó, Nikanor Ilyich đi nằm. Ông kêu đau tim và cho gọi Tikhonov lại gần.
- Alyosha - Ông nói và bỗng nhiên òa lên khóc.
Matrena cũng xịt mũi trong phòng của mình.
- Tim bác bị đau. Chẳng lẽ bác lăn ra chết và không còn được thấy gì nữa ư? Vậy mà bác ngu ngốc cứ muốn sống, sống mãi. Sự hiếu kỳ thiêu đốt bác. Bác cứ muốn trèo lên chỗ cháu xem thử các phác thảo, xem cháu đang làm gì cho ngày hội mà cứ sợ làm phiền cháu.
Tikhonov mang các ký họa xuống cho ông già. Ông già xem hồi lâu rồi vỗ vai Tikhonov.
- Bác yêu sự hoàn mỹ ở cháu, - ông nói. - Cháu là con người có giá trị. Lời của bác dứt khoát là như vậy.
Chia tay, ông nhờ Tikhonov có về Leningrad rẽ vào nhà người khách hàng và nói hộ nắp chiếc đàn dương cầm đã sửa xong và có thể đến lấy được rồi.
Phải ngày hôm sau Tikhonov mới tìm thấy căn nhà nhỏ trên đảo Krestovsky theo địa chỉ của Nikanor Ilyich đưa. Mưa lác đác, mặt đất bốc lên mùi bụi ngấm nước mưa.
Một ông già tóc trắng cụt một tay ra mở cửa cho Tikhonov - Viner. Tikhonov hỏi ông Shchedrin. Viner đưa anh vào một căn phòng cửa sổ mở rộng.
Trên tường Tikhonov trông thấy hai bức chân dung tuyệt đẹp. Một bên là người sĩ quan mặc quân phục đen, bên kia - một phụ nữ trẻ với hai hàng lông mày dướn lên như đang có điều gì xao xuyến. Sự giống nhau giữa nàng và người con gái gặp trên bến tàu cảm thấy rõ ràng.
Tikhonov lấy tay vuốt trán dường như muốn xua đuổi một ý nghĩ ám ảnh, những người phụ nữ cứ nhìn anh bằng đôi mắt đã quen biết, và anh bất giác lại gần bức tranh và nhìn vào đó chăm chú hơn.
Cô gái đã bước vào, nhưng Tikhonov không ngoảnh lại ngay: phải gắng sức mới đứt ra khỏi được bức tranh.
Đứng sau lưng Tikhonov là một nhà hàng hải người cao lớn, tóc bạc và chăm chú nhìn anh.
- Cháu ở chỗ bác Nikanor Ilyich lại đây, - Tikhonov nói - Ông cụ bị ốm, có nhờ cháu đến nhắn hộ là nắp chiếc đàn dương cầm đã làm xong. Có thể đến lấy được.
- Mời anh ngồi, - Nhà hàng hải nói và chỉ cho Tikhonov chiếc ghế bành.
Nếu Tikhonov ngôi vào đó sẽ quay lưng lại bức tranh. Tikhonov đã bước lại chiếc ghế, nhưng nghĩ sao lại ngồi vào chiếc ghế khác - để có thể nhìn thấy bức tranh.
Nhà hàng hải vẫn chăm chú nhìn Tikhonov như trước.
- Cảm ơn anh, - ông nói. - Vậy cụ Nikanor Ilyich ra sao?
- Đau tim, - Tikhonov trả lời ngắn gọn.
- Anh là con cụ? - Không, cháu là học trò cũ của cụ.
- Anh chắc là họa sĩ phải không?
- Vâng.
- Tôi đoán ra khi thấy anh ngắm bức tranh này như thế nào.
- Một tác phẩm tuyệt vời! Người này là ai?
- Đây là một người phụ nữ tuyệt vời, con gái của một thuyền trưởng già người Thụy Điển trên đảo Aland:
- Nàng là người Thụy Điển ư?
- Đúng thế. Tên nàng là Anna Jacobsson. Cuộc sống của nàng gặp phải những hoàn cảnh bị thảm. Đó là vì của chuẩn úy Bestuzhev bị giết trong một cuộc đấu súng ở đảo Aland hồi đầu thế kỷ trước. Nàng bị mất trí.
- Cụ nội cháu bị giết ở Phần Lan, - Tikhonov nói - Không phải vì một cuộc đấu súng. Cụ bị phạt đòn. Cụ là một người lính thường.
- Xin phép anh, - nhà hàng hải hỏi. - Chuyện ấy xảy ra vào lúc nào?
- Cháu nghĩ rằng cũng vào đầu thế kỷ trước.
Nhà hàng hải đứng dậy lại gần cửa sổ. Ông nhìn trận mưa đang rẩy bụi lên bãi cỏ, lên mặt đường, sau đó quay lại hỏi:
- Cháu người làng Megra trên sông Kovzha phải không?
- Dạ, phải, - Tikhonov,ngạc nhiên nói. - Sao bác biết được điều đó?
Nhà hàng hải không trả lời.
- Cụ nội anh chôn cùng một ngôi mộ với Pavel Bestuzhev. - Cả hai cùng bị giết trong một ngày. Họ gắn bó với nhau bởi cùng một số phận. Họ anh là Tikhonov?
- Dạ vâng.
- Chà, cuối cùng là thế đó! - Nhà hàng hài mỉm cười vui vẻ và nắm chặt cả hai tay Tikhonov. - Bác là Shchedrin. Bác đi thì cháu mãi, sau thôi đành chịu. Trong chiến tranh bác phục vụ ở đảo Aland ở đó bác đã được biết tường tận câu chuyện về cái chết của Pavel Bestuzhev. Ông là một người yêu tự do. Bestuzhev đã cứu một chiến sĩ Tháng Chạp và đã bị giết tại cuộc đấu súng đo xung đột với viên trung đoàn trưởng. Bác đã đi thăm mộ và ngạc nhiên vì ông được chôn không phải chỉ một mình mà cùng với người lính Tikhonov. Bác đã cố tìm hiểu hai con người ấy - Tikhonov và Bestuzhev - có điều gì ràng buộc với nhau, nhưng không ai giải thích được. Dân chúng ở địa phương không hay biết điều cả. Bác không thể tìm hiểu lưu trữ được. Họ sẽ chẳng cho bác xem, mà cũng không còn bụng dạ nào nữa. Cách mạng nổ ra bác nhận đượe bức thư trước giờ chết của Pavel Bestuzhev. Trong đó có yêu cầu báo tin về cái chết của anh lính Tikhonov cho người thân ở làng Megra, trên sông Kovzha. Trong thời nội chiến, tình cờ bác có về làng Megra, bác đi tìm con cháu của Tikhonov và đã gặp mẹ cháu.
- Mẹ cháu có hỏi về bác, - Tikhonov ngắt lời.
- Bà mất rồi ư?
- Vâng ạ.
- Bác tìm ra mẹ cháu, nhưng mẹ cháu chẳng hay biết tí gì về câu chuyện này, cho bác địa chỉ của cháu và nhờ bác đến thăm, nhưng địa chỉ bị mất trong trận chiến đấu với hạm đội Kolchak ở Elabuga. Trí nhớ của bác tồi, nên chẳng làm sao nhớ ra được. Nhưng dù sao chúng ta đã gặp được nhau! Shchedrin cười vang. - Giờ thì bác chẳng để cho cháu đi. Đưa mũ đây.
Ông cất chiếc mũ phớt của Tikhonov, mang ra chai rượu vang, bánh qui và thuốc lá.
- Ta hãy cạn cốc vì dịp may này, - ông nói. - Rượu vang nhẹ và ngon đấy. Rượu này uống vào những hôm trời xám như thế này rất thích.
Tikhonov cạn cốc và cảm thấy đầu hơi chuếnh choáng. Sự kiện của những ngày qua anh cảm thấy như không thể tưởng tượng được: cuộc gặp gỡ với Shchedrin càng làm tăng thêm cảm giác ấy.
- Thời gian vừa qua - anh nói, - cháu rơi vào một chuỗi những cuộc gặp gỡ phi thường.
- Càng hay. Uống đi. Mới đây một người thân của bác, một cô gái từ đảo Aland, chắt của Anna Jacobsson về đây chơi. Cô tên là Marie. Marie có kể cho bác nghe tỉ mỉ về số phận cụ nội nhà cháu. Bố nuôi của cô gái này là một ông bác sĩ già yếu, tính tình lập dị, nghĩ ra chuyện viết lịch sử của đảo Aland. Ông đã lục tất cả hồ sơ lưu trữ ra và tìm thấy những ghi chép nói rõ anh lính Tikhonov bị phạt đòn đến chết, vì đã cùng Pavel Bestuzhev giúp đỡ người chiến sĩ Tháng Chạp chạy trốn. Nào, ta hãy cạn chén vì ông cha!
Tikhonov cảm thấy rượu vang như những chiếc lá mùa thu hòa tan trong nước lạnh. Tikhonov chẳng còn nghe rõ Shchedrin nói gì.
"Đó là nàng!" - Anh tự nhủ và tim anh đập đến nhức nhối.
Anh muốn nghe thấy trong phòng tiếng bước chân của phụ nữ, nhưng không có gì vọng ra ngoài tiếng đồng hồ tích tắc và tiếng còi ô tô từ xa.
"Vậy thì nàng ở đâu? Phải chờ nàng để chấm dứt sự trống vắng mơ hồ đáng sợ này. Có thể đó lại là một người khác? Có thể bước vào phòng là một cô gái tóc trắng, đeo kính, giọng the thé thì sao? Mình là thằng ngu, - Tikhonov nghĩ. - Mình phải đi khỏi đây từ lâu rồi. Đến lúc rồi. Phải đứng dậy thôi."
Tikhonov đã toan đứng dậy chia tay với Shchedrin, nhưng ý nghĩ về bức chân dung đã ngăn anh lại. Sự giống nhau thật rõ ràng. Anh lại nhìn bức tranh và lại thấy vẫn đôi hàng lông mày dướn lên xao xuyến ấy và một nếp nhăn nhỏ buồn bã bên khóe môi.
- Cháu làm sao thế? - Nhận ra vẻ đãng trí của Tikhonov, Shchedrin hỏi. - Nom cháu có vẻ mệt.
- Cháu làm việc nhiều. Người ta giao cho cháu trang hoàng khu Petergof[6]. Điều đó thật phức tạp và đáng sợ. Làm sao mà trang trí được Rastrelli?
Không thể nán lại lâu hơn nữa. Tikhonov đứng dậy. Shchedrin nhận lời với anh là ngay buổi tối rỗi rãi đầu tiên sẽ ra đảo Krestovsky, hứa sẽ thăm Nikanor Ilyich đang ốm và họ từ biệt nhau.
Tikhonov đi qua khu vườn và trong khi anh đi qua khoảng cách không lớn đó, hàng trăm ý nghĩ lướt qua trong óc anh.
Lần đầu tiên Tikhonov cảm nhận thấy mối liên hệ với quá khứ, với làng quê, nơi hàng trăm năm, cha ông, cụ anh đã cày xới mảnh đất lạnh lẽo, nơi tuổi thơ mẹ anh đã rắc tro vào chỗ đứt tay, nơi người ta chết vì bệnh trĩ, vì sinh nở, vì thương hàn. Tất cả những cái đó đã chết từ lâu, và có nhớ lại người ta cũng không thấy thích thú nữa.
Nhưng giờ đây quá khứ đã nói lên bằng thứ tiếng khác hẳn. Trong anh, trong Alyosha Tikhonov có dòng máu của những Con người ấy, của cụ anh, người lính thời Nikolai I bị giết vì lòng dũng cảm, vì sự nổi loạn, vì sự giúp đỡ cho những chiến sĩ tháng Chạp.
Cái ý nghĩ rằng anh phải trở nên người kế tục xứng đáng của người người nông dân chất phác bị khoác lên người tấm áo lính sờn nát đẩy vào trại lính, bừng dậy trong tiềm thức của anh.
Trận mưa đã qua Mây đen từ từ dồn về phía Nam mở ra khoảng trời trống ở phía Tây.
Bên cổng vườn Tikhonov chạm trán với một người con gái. Anh tránh sang bên và ngẩng đầu lên. Đó là cô gái, người mà anh không quen biết ở Petergof.
Cô nắm lấy thanh hàng rào và nhìn Tikhonov. Tikhonov ngả mũ.
- Thật tuyệt diệu là tôi lại gặp em ở đây! - Anh nói. - Thành phố thật vĩ đại, mà em chắc không phải người Thụy Điển duy nhất ở Leningrad.
Marie im lặng. Tay cô từ từ mở ra, một vết hoen xám còn lại trên găng tay. Cô tựa người vào hàng rào và nói nhanh:
- Vâng, vâng... Xin anh cứ nói đi.
- Gì cơ? - Tikhonov hỏi. - Tôi có thể nói gì? Có lẽ em đã biết cả rồi.
- Nếu mà em biết được... - Marie nói và mỉm cười. - Ta đi nào!
Cô nắm chặt cổ tay Tikhonov và kéo theo như một chú bé. Họ im lặrg đi trên đường phố. Bầu trời nằm dưới chân họ phản chiếu trong các vũng nước mưa.
- Tôi tin chắc là sẽ gặp lại em, - Tikhonov nói. - Không thể nào không gặp được.
Marie cúi đầu dường như đồng ý với anh. Họ đi ra bến ca-nô.
- Chúng ta đi về thành phố, - Marie nói. - Anh sẽ chi cho những nơi anh yêu thích. Thành phố này được tạo ra để đi dạo chơi suốt đêm đến mọi nơi.
Marie hơi nhức đầu. Cô luôn ấn tay vào mi mắt và mỉm cười mệt mỏi.
Trên ca-nô, Tikhonov kẻ lại cho Marie nghe về tất cả những gì anh vừa được biết qua Shchedrin, về Anna Jacobsson, về Pavel Bestuzhev và cụ anh.
- Có nghĩa là bà Anna đã để lại anh cho em, - Marie tư lự nói.
Họ đi khắp thành phố tới tận đêm khuya. Trong buổi tối hôm đó nó đẹp một cách đặc biệt.
Nó hiện lên trước mắt với những tòa nhà sừng sững những dãy cột tròn khỏe khoắn, những cổng chào uốn cong trên những nhịp cầu vắng vẻ, những bức tượng đồng và những lùm cây đoạn cổ thụ.
Neva mang sâu trong mình những đám lửa, mũi kim Cung Đô Đốc lấp lánh trên dòng sông đã được bao nhà thơ ca ngợi.
Họ dừng lại bên hàng rào gang, qua đó nhìn vào bóng tối của các khu vườn và Tikhonov nói về những giấc mơ được biến thành hiện thực của các nhà kiến trúc trứ danh, dựng lên trên vùng đầm lầy và rừng rú miền Bắc thành phố huy hoàng này. Đó là thành phố của những hồi ức vĩ đại và của một tương lai không kém phần vĩ đại hơn.
Họ đi dọc theo bờ sông Neva. Các chú bé đang câu cá bên bờ đá hoa cương. Bên sông gần một khu vườn nào đó, một chiếc tàu chiến cũ neo dây xích vào bờ. Những cành tilia ngả xuống mặt boong và các khẩu súng phủ vải bạt.
- Đây là chiến hạm "Avrora"[7]- Tikhonov nói. - Em biết không?
- Em biết, - Marie trả lời.
Họ đi qua quảng trường trên đó người kỵ sĩ bằng đồng phóng ngựa hướng về miền Bắc, và vòng lại kênhMoyka.
Trên kênh Moyka, giữa những cột trụ, những tòa nhà cao, những bộ kênh lát đá hoa cương đã ngả thành màu xanh, bóng đêm hè yên tĩnh trùm xuống. Họ chống khuỷu tay lên lan can và nhìn xuống nước. Một ngôi sao màu lam lấp lánh dưới đáy nước.
- Marie nhìn đây này, - Tikhonov nói. - Trong căn nhà kia, Pushkin đã qua đời.
Marie quay lại. Cô nhìn các cửa sổ, thềm nhà nhô ra gần như treo trên mặt nước, những trụ cột bằng đá đã mòn nhẵn qua bao thế kỷ, những cây bồ công anh mọc lên giữa những phiến đá dọc hai bên hè đường chật hẹp.
- Ông đã được mang về đây khi bị thương? - Cô hỏi.
- Phải. Mang qua cái cửa kia kìa.
- Có thể máu ông đã nhỏ xuống đây, - Marie nói và nhìn Tikhonov với nụ cười như có lỗi.
- Đó là vào những năm Pavel Bestuzhev và cụ ngoại của anh bị giết và Anna đã chết trong đau khổ. Chính Pushkin đã viết về thời gian này hay hơn cả.
- Như thế nào cơ? – Marie hỏi. - Ông đã nói gì?
- Những lời giản dị: "Và năm ấy khi bao người dũng cảm nhân hậu và tuyệt vời đã ngã xuống chỉ còn để lại kỷ niệm về mình trong bài ca mục đồng giản dị - u buồn và êm ái". Thật là hay, phải không?
Marie không cho Tikhonov tiễn mình. Họ chia tay bên Vườn Mùa Hạ. Marie chìa cả bàn tay cho Tikhonov rồi giật nhanh lại và nhanh nhẹn đi xuống cầu thang đá xuống bến tầu.
*
* *
Ba mươi ngọn đèn pha chiếu lên bầu trời Petergof, luồng ánh sáng đan vào các vì sao. Ngày hội đêm đã mở đầu như vậy.
Những chiếc tầu phong lôi mang trên thân mình và các cột cao những dây xích lửa, làm là biển sủi bọt tung tóe và quay ngoái đỗ lại bên bến tàu Petergof.
Trên boong tầu, trước mắt các chiến sĩ hải quân mở ra một cảnh tượng chưa từng thấy. Cung điện bừng lên ánh sáng của pha lê. Những thác nước đổ xuống các bức tượng đồng và đá cẩm thạch.
Các chiến sĩ hải quân đỏ và các chỉ huy lão thành theo cầu thang bước lên cung điện.
Những bình thủy tinh đựng đầy lửa tinh khiết, cháy sáng hai bên. Các đài phun nước lẩn khuất trong bóng tối của những tán cây nhô cao.
Ở đấy, trong công viên cảm thấy rõ ràng sức nặng và mùi hương của của cây cỏ, không khí của một mùa hè chưa từng thấy.
Các cửa sổ cung điện đều mở tung.
Trên ban công, trong các phòng lớn quét màu xanh, màu trắng, các chiến sĩ hải quân đứng soi mình trong gương. Những tấm gương nhắc lại tiếng cười, nụ cười và khuôn mặt rám nắng của họ.
Những con chim kinh hãi bay qua cảnh hào nhoáng ấy, lóa mắt, lao vào các vòi phun tung bọt nước, vỗ cánh ào ào bay về phía đêm, về vịnh biển. Bầu trời quen thuộc bị mọi người bỏ quên tối nay, soi mình xuống đó.
Nhưng rất mau, cả vịnh biển cùng lên tiếng. Những khẩu súng vô hình nổ ran, tung ra những chùm lửa: Kronstadt bắn một trăm linh một phát pháo hoa chào mừng thành phố vĩ đại.
Trong tiến gầm của đại bác, không còn nghe thấy rõ tiếng ầm ì của các phi đội máy bay bay về các hướng khác nhau của bầu trời và để lại