← Quay lại trang sách

MASHA

Cứ mỗi năm Tikhon Petrovich lại cảm thấy mùa đông dài hơn năm trước. Lịch thì vẫn đúng như mọi khi. Mùa xuân đến đúng lúc, đúng kỳ hạn của mình nhưng chờ đợi nó ngày càng khó khăn hơn.

- Cái đó là do tuổi tác. - Tikhon Petrovich nói với mình. - Người già đã bắt đầu đếm những mùa xuân, tính xem mình còn được hưởng bao nhiêu ngày xuân ấm áp nữa. Vì thế nên mới sốt ruột. Tuổi trẻ thì còn phải nói làm gì nữa!

Nhưng Tikhon Petrovich tất nhiên có nhiều lý do khác chắc chắn hơn để sốt ruột chờ đợi xuân sang. Tiết xuân ấm áp ông chờ đợi không phải cho mình mà cho đám cây cỏ của mình hay như ông nói, "gia đình cây cỏ" của ông. Vì lẽ chưa bao giờ ông có một gia đình nào khác. Ông là một người độc thân lâu năm. Điều này có thể thấy rõ ở bề ngoài của ông, ở vẻ gầy gò, sự nghiêm khắc trong tất cả con người ông, trong thói quen tự nói chuyện với mình, thậm chí xỉ vả mình một cách nghiêm túc nữa.

Tikhon Petrovich làm việc trong một vườn cây ăn quả ở thành phố trung tâm khu Razgovorovo. Tikhon Petrovich cũng có một khu vườn riêng, có khu lợp kính nơi ông trồng cây thí nghiệm hay dùng danh từ chuyên môn của nghề nghiệp - "những cây trồng thực nghiệp". Khu đất này chật hẹp thôi. Nhưng vì cây cỏ xanh tốt um tùm nên non nó có vẻ bề thế lắm.

Tikhon Petrovich đã nổi tiếng khắp quanh vùng như một người làm vườn táo bạo và có kinh nghiệm. "Đây là Michurin của chúng ta, - dân chúng trong thị trấn tự hào nói về ông như vậy. – Một con người tận tụy với công việc, người luôn giúp đỡ và góp ý kiến với mọi người. Chỉ phải một điều không may: mải mê quá với công việc, ông quên bẵng mất cả chuyện lập gia đình và cứ thui thủi sống một mình".

Vườn ươm, nơi Tikhon Petrovich làm việc tuy ở trong một thành phố nhỏ, nhưng tiếng tăm vượt xa khỏi ranh giới của miền. Nhiều người làm vườn ở các vùng khác nhau của nước Nga - có khi cả ở Moskva, - đều vẫn đến thăm Tikhon Petrovich và ông vui lòng chia sẻ với họ những hiểu biết của mình. Vì vậy trong căn nhà của mình. Tikhon Petrovich sống trong tầng lầu, còn hai phòng dưới dành cho khách từ xa tới ở. Tikhon Petrovich khi thì gọi họ là các vị khách, khi thì gọi là các "thực tập sinh" vì rằng mỗi mùa hè đều có các học sinh trường trung cấp nông nghiệp khu đến thực tập.

Đã từ lâu ta thấy rõ rằng người nào tạm thời không được làm công việc mình yêu thích thì luôn sẵn sàng hướng về nó. Chẳng hạn ta biết rằng những người đi săn suốt mùa đông lau chùi súng ống, nhồi thuốc vào đạn. Những người đi câu se sợi sơn phao câu, các thủy thủ thì vẽ bản đồ. Còn Tikhon Petrovich mùa đông ngồi trong căn phòng chật hẹp của mình trên tầng hai viết cuốn sách: "Chỉ dẫn về việc trồng cây ăn quả, cát bụi cây, rau tươi và hoa".

Công trình của Tikhon Petrovich tự nó đã chứng minh rất đầy đủ rằng dùng cái tên "chỉ dẫn" là hợp lý. Quả thực dường nhưTikhon Petrovich chắc chắn nắm nắm lấy bàn tay của người còn thiếu kinh nghiệm, dắt theo những luống dài, thong thả kể cho họ nghe làm thế nào để cho đất đai trở nên tươi tốt màu mỡ hơn, để trên đó mọc lên những loại tạo vật dịu dàng thơm ngát - những loại hoa mà đã từ lâu chúng ta không còn ngạc nhiên nữa.

- Không biết ngạc nhiên nữa! Thật hoài phí, - Tikhon Petrovich nói - Con người không bao giờ được để mất đi khả năng biết kinh ngạc, nếu như đó là một con người đích thực, chứ không phải chiếc cặp da nhét đầy những bản báo cáo.

Tất cả những điều đó tất nhiên là đúng. Nhưng với mỗi năm không phải Tikhon Petrovich chỉ cảm thấy mùa đông dài hơn mà chính mình càng ít được mọi người cần đến hơn.

Sự từng trải cho thấy rõ rằng cuộc sống độc thân tuy có tự do thực và nó được giành tất cả cho công việc tốt đẹp, cần thiết, nhưng cũng thật dở là không có niềm vui gia đình. Thậm chí việc chăm sóc cho chính mình với năm tháng cũng thấy ngày càng buồn tẻ hơn.

“Giá có thể tặng ai cái mà mình yêu quý nhất, - Tikhon Petrovich nghĩ thầm. - Mang lại niềm vui cho người ruột thịt. Mình chẳng có ai để tặng. Người ta có vợ có con, còn gia đình mình đếm chỉ có một đơn vị mà thôi”.

Nhưng Tikhon Petrovich lại tự an ủi ngay lúc đó rằng với công việc của ông, trẻ con chỉ là điều tai họa. Chúng sẽ dẫm nát hết. Còn tệ hơn cả đám gà quê, còn nói gì đến con cái nữa, khi Tikhon Petrovich cứ nhăn nhó và rên lên mỗi lần trông thấy không phải một cành câp hay bông hoa bị bẻ gãy, mà chỉ một ngọn cỏ bị xéo nát thôi.

Mùa xuân đến như mọi lúc vào buổi sớm mai. Nó xuất hiện trên bức tường gỗ của căn gác trong khung nắng màu da cam âm ấm lòng bàn tay. Người ta không nhận ra một giọt nhựa cây trong suốt mùa đông dài nơi khe gỗ, long lanh lên trong buổi sáng ấy như một hạt cườm. Trong đó thậm chí nhìn thấy rõ những sợi chỉ bạc chia cái giọt nhỏ tí xíu đó thành những phần nhỏ kỳ diệu.

- Đến lúc rồi! - Tikhon Petrovich nói và nhìn giọt nhựa, ông cất bản thảo "chỉ dẫn" vào ngăn bàn tới mùa đông và bắt đầu lựa chọn các hạt giống để đem gieo chúng vào những bồn đất rồi đặt lên các cửa sổ trong căn nhà ấm áp và hàng hiên lợp kính.

Còn sau đó, những đám sương mù dày đặc nặng nề đã phủ xuống những con đường mùa đông đá hóa nâu rồi nâu xẫm. Từ rừng phả ra mùi ẩm ướt. Các mái nhà gỗ bốc hơi nước. Vào một trong những đêm tháng tư, băng trên sông thở mạnh, sáng ra như mọi lần, băng trôi vùn vụt, rồi con sông tràn ra tới bay cây số.

Dòng nước mùa xuân tỏa mùi dầu và tuyết. Trên những cành miên liễu dọc hai bờ bám vào thành hàng những con ong bạc mượt mà - những nõn lộc non.

Chiếc tàu thủy đầu tiên từ thủ phủ khu đã đến, Tikhon Petrovich đã đi tàu về thành phố vì công việc của vườn ươm và nhân thể cũng để lấy cây giống nữa. Đi tới thành phố chỉ mất năm tiếng đồng hồ.

Từ thành phố trở lại con tàu khởi hành vào lúc trời tối và chạy luôn theo dòng nước. Các phao tiêu còn chưa được thắp sáng.

Tikhon Petrovich ngồi trên boong, mặc dù mặt nước đã tỏa lên hơi lạnh. Dưới chân ông đặt một giỏ cây giống. Ở tầng dưới trong phòng hành khách ấm áp và nóng nữa. Nhưng Tikhon Petrovich không xuống đó - phải giữ gìn cây. Mọi người đều biết cây giống sẽ héo nhanh đi vì nóng.

Trên boong hành khách không nhiều, có những người thợ cưa, những người đàn bà chùm khăn kín và một cô gái còn trẻ măng chỉ chạc hai mươi tuổi cùng với một em gái nhỏ. Em gái độ chừng sáu tuổi, người gầy tái xanh và đầy vẻ tò mò – không chịu xuống tầng dưới.

Những người thợ cưa hút thuốc lá nặng và gió trên mặt nước không sao làm át mùi thuốc đi được. Họ đang nghe một người cùng đoàn có tuổi mặc áo bạt nói:

- Như thế là thế nào? - Ông ta nói bằng giọng khàn khàn thong thả, - Bọn ngu cái gì cũng cười, còn người khôn luôn biết suy nghĩ. Các anh nhạo báng cái gì? Hẵng khoan đừng có vô cớ mà cười ông chủ tịch Batenkov của chúng ta.

- Chúng tôi không vô cớ đâu, - một người thợ cưa đáp lại.

- Được, để tôi chứng minh ngay cho cái cớ của các anh! - Người thợ cưa đứng tuổi cáu kỉnh hứa. - Các anh nhạo báng điều gì cơ chứ! Vì ông ta. Batenkov đã cứu năm con thỏ từ trên đám băng trôi? Có phải thế không?

- Tôi hiểu rồi - Người đứng tuổi thốt ra vẻ đe dọa. - Tôi rất hiểu các vị, các vị trẻ tuổi ạ. Các anh thấy lạ lùng là ông ta không đem quay mấy con thỏ kia lên với hành và đem cá nhắm rượu, mà lại thả vào khu rừng bên cạnh. Theo các anh đó là một việc vớ vẩn phải không?

- Ông ấy hay thương người lắm, ông Batenkov ấy, - một giọng người nói vọng ra từ bóng tối.

- Không đâu, người anh em ạ! Đây không phải là lòng thương hại. Ở đây có suy nghĩ rõ rành. Để cho thỏ sống, sinh sản, con hơn chết vô ích. Cậu có thấy cái tổ chim kia không? Nó được kết lại từ những hạt cát, từ những sợi lông. Đó, sự giàu có hình thành như thế đó, người anh em. Ngôi nhà cũng từ những viên gạch xây nên. Còn ở Moskva, hãy xem, những tòa nhà được xây lên tới hai mươi tám tầng.

- Bác nghĩ xa quá! - Người thợ cưa trẻ nói.

- Xa mới chả gần! - Người đứng tuổi nói. - Phải biết suy nghĩ. Ở vùng ta có câu chuyện ngụ ngôn, Một con ong rớt xuống nước, đôi cánh ướt sũng, con ong cầm chắc cái chết trong tay. Chung quanh những con cá chép vây đỏ bơi lượn. Con ong mới van lơn: “Cứu tôi với, - nó nói. - Tôi sẽ trả ơn các bạn". "Người được cái việc gì? - Cá chép vây đỏ trả lời. - Chúng ta không ăn mật''. Con ong chỉ biết thở dài. "Họ nói đúng – nó nói. - Còn biết làm thế nào nữa". Vừa lúc nó thấy con ếch bơi qua: "Hãy cứu tôi, - nó van lơn. – Tôi sẽ không vô ơn đâu.” “Ta không thể chịu được mùi mật", - con ếch đáp. Con ong hết sức buồn rầu. Lúc đó có con sáo bay qua, nó lại cầu xín. "Được, để ta cứu cho - con sáo nói. - Vì người mang lại mật cho con người, còn người làm tổ cho ta".

- Và nó cứu chứ? - Người trẻ hỏi.

– Nhất định rồi. Những con vật có ích phải giúp chứ.

- Nastyusha, - em bé gái nói với người bạn đường - Phải giúp nhà không cần mật ấy chứ.

- Đúng thế, cháu ạ, - Tikhon Petrovich nhận xét. Cô bé yếu đuối mắt to này không hiểu vì sao không gây cho ông sự thương hại mà một cảm giác nôn nao trong lòng thế nào ấy. - Đấy cháu thử hỏi mẹ xem, mẹ cũng sẽ nói như vậy.

- Không phải mẹ cháu đâu - em gái trả lời - Chị cháu đấy.

Tikhon Petrovich xin lỗi cô gái.

- Bác cứ câu nệ thế, cháu không dám ạ - cô gái trả lời.

- Thế hai chị em đi chu du thiên hạ à? – Tikhon Petrovich hỏi.

- Chúng cháu đến Razgovorovo, – cô gái do dự.

Trong bóng tối Tikhon Petrovich không nhìn thấy mặt cô, nhưng đồng thời cũng dường như nhìn thấy đôi mắt rụt rè của cô, cũng như tay cô đang mân mê chiếc khăn choàng rộng có tua, choàng lên đầu.

- Các cháu đi thăm người nhà à?

- Dạ, không - cô gái trả lời. - Cháu được cử làm giáo viên ở Razgovorovo. Và cháu cùng... em gái đi đến đây, cùng Masha đây. Chúng cháu chỉ có hai chị em. Bố cháu phục vụ ở Viễn Đông. Còn mẹ cháu năm bốn hai ở Leningrad...

- Rõ cả rồi, - Tikhon Petrovich không chờ cô gái nói hết, chêm vào, rồi im lặng.

Cô gái cũng im lặng.

Tikhon Petrovich kéo cái giỏ cây giống ra khỏi chân và vì sao đó vuốt ve những cành cây ươm. Những chiếc lá hơi héo đi, ấm áp như tay người, nhưng còn sống. "Chúng sẽ sống" - ông ngẫm nghĩ, im lặng, lát sau quay vào phía cô gái nói.

- Cô chẳng nên tìm nhà trong làng làm gì. Chỉ mệt người thêm vô ích. Nhà ở Razgovorovo tìm được không phải chuyện dễ đâu. Còn nhà tôi vắng lắm. Tôi để cô ở một phòng, một phòng khác dành cho các thực tập sinh. Mùa hè họ vẫn đến chỗ tôi. Tôi dậy họ nghề làm vườn.

- Cháu không dám làm phiền bác, - cô gái phản đối yếu ớt.

- Cô đừng khách khí, - Tikhon Petrovich nóng nảy nói. - Cô đến chỗ tôi mà ở. Ở cả trăm năm cũng được.

Con tầu kéo còi. Trên bờ người ta vẫy những chiếc đèn báo ra hiệu chỗ cho tầu đỗ. Những người thợ cưa đứng dậy ném những mẩu thuốc ra xa xuống mặt nước đen. "Dừng lại!" - một giọng nói to từ trên cầu thuyền trưởng vọng xuống. Yên lặng lập tức tràn ngập khắp chung quanh. Trong tĩnh mịch chỉ còn nghe thấy một tiếng động khe khẽ - tiếng nước rì rào gần chân vịt con tầu.

Tikhon Petrovich dành cho những người khách trọ bất ngờ của mình một trong những phòng ở tầng dưới. Cả hai phòng được bày biện những đồ mộc từ thời ông cha. Tất cả chỉ có hai phòng, nhưng hành lang, đường đi lối lại, những buồng kho, phòng xếp, buồng chứa cỏ và cửa ra vào nhiều đến nỗi thời gian đầu Masha bị lạc trong đó như ở trong rừng và nó luôn tuyệt vong kêu lên:

- Nastya, chị ở đâu? Em không biết ra thế nào, chị Nastya?

Cứ thấy Masha, Tikhon Petrovich lại bối rối. Ông thấy ngượng với ý nghĩ là Na-xchia-a và Masha coi ông là ông chủ. Ông chủ! Cái từ mới khó chịu làm sao!

Cuối cùng, ông không chịu được và nói với Nastya:

- Anastasia Mikhailovna, hãy sống tự nhiên như ở nhà nhé. Cứ coi như không có tôi. Nếu không tôi sợ rằng hai chi em cô không được thoải mái lắm. Đấy, cô chẳng buồn ra vườn tôi gì cả, mà Masha dường như không được phép ra.

- Dạ, không phải thế đâu ạ. - Nastya vội vã trả lời và mỉm cười như có lỗi.

Nhưng ngay sáng hôm sau đã thấy Masha ra vườn. Có nghĩa là Nastya đã ngăn cấm nó thật.

Buổi sáng trước khi vào nhà kính, Tikhon Petrovich bao giờ cũng làm việc ở trong vườn. Buổi sáng hôm đó ông đang tưới cho những cây con mới trồng.

Trời còn sớm lắm, sớm tinh mơ đến nỗi mặt trời chưa mọc trên những bụi cây kim ngân và trong vườn vẫn còn mát mẻ. Những kia nắng đài, hẹp, đã vươn qua những kẽ rào và những gì được chúng chiếu sáng đều trở nên kỳ lạ hết sức.

Ánh nắng đổ lên bụi tử đinh hương khiến ta thấy rõ những giọt sương long lanh trong những đài hoa dường như đang hồng xẫm lên vì xấu hổ. Những đám rêu trên những chiếc ghế gỗ cũ nom như đồng nung chảy vừa nguội đi. Trên những chiếc lá đoạn nổi lên ngang dọc những đường gân mong manh đến nỗi khó mà tin được rằng nhựa cây chảy theo những mao mạch nhỏ như tơ nhện đỏ.

Cụ Arkhip, người giúp việc của Tikhon Petrovich đang vun đất thành luống. Từ mặt đất được xới hơi nước bốc lên tan ra trong không khí. Những con sẻ đậu trên bụi cây phía trên đầu cụ Arkhip nghiêng đầu hết bên nọ sang bên kia nhìn xuống đất. Nhưng không thấy một con giun nào. Giun bò ra lúc này hãy còn sớm.

- Các bạn sẻ quý mến, - Cụ Arkhip nói với bầy chim sẻ, – các bạn nên bay ra chuồng ngựa nông trường thì tốt hơn. Không phải sống năm đầu trên đời mà chả biết điều gì cả. Mà đòi hỏi ở các bạn điều gì được - óc nhỏ như hạt đậu ấy mà.

Nhưng những con sẻ không nghe lời ông cụ. Chúng vẫn đậu trên cây, thậm chí dường như còn quèn quẹt cãi nhau với cụ Arkhip nữa.

Arkhip là một cụ già không biết ngồi yên. Đối với cụ không có tai họa nào xấu hơn là không có người để chuyện trò. Vì vậy, cụ đằng hắng, suy nghĩ rồi nói với Tikhon Petrovich

- Nắng ở trong vườn chú ít quá.

Tikhon Petrovich im lặng.

- Tôi nói ít là nói chung, - cụ Arkhip nói lại. - Không như ở nhà kính.

Nhưng Tikhon Petrovich không trả lời sự thách thức đó.

"Chú ấy phật ý, - cụ Arkhip nghĩ, và tự thấy phật ý. - Hai ngày hôm nay, Tikhon Petrovich có vẻ là lạ thế nào ấy, không sao hiểu được".

Một tia nắng hồng nhẹ rọi xuống đất bên cạnh Arkhip.

- Mình kêu ít nắng thật vô ích, – cụ Arkhip lầu bầu. - Vừa nói nó đã đến ngay đây rồi.

Cụ Arkhip ngẩng đầu lên và lặng người đi với chiếc xẻng trong tay: đứng sau lưng cụ là một em gái lên sáu tuổi mặc áo váy hồng, đuôi sam buộc nơ, mặt rửa sạch sẽ bằng nước lạnh đến nỗi má nó sáng bóng lên-sáng hơn cả đôi mắt xám.

Cụ Arkhip cắm chiếc xẻng vào đất, đặt tay lên trán nhìn cô bé như nhìn một vệt nắng. Tikhon Petrovich cũng vườn thẳng người nhìn Masha.

- Thế nào bác Arkhip, - Tikhon Petrovich hỏi và nheo mắt lại. - Ở vườn tôi không có nắng hả?

- Nói không làm gì? - Arkhip trả lời và quanh mắt cụ cũng như ở Tikhon Petrovich nổi lên những vết nhăn nâu. - Vườn chú nhiều nắng lắm, Tikhon Petrovich! Chú kiếm đâu ra cái cây giống này thế? Nó mà lớn lên thì tha hồ mà ngắm chứ chả chơi!

Tất nhiên Masha không hiểu Tikhon Petrovich và cụ Arkhip nói gì với nhau và ngượng nghịu hỏi:

- Thế cái vườn này tên là gì?

- Vườn Masha, - Tikhon Petrovich trả lời.

Masha nhìn ông, nhăn trán lại, không hiểu gì. Còn cụ Arkhip ấn mạnh lưỡi xẻng lật lên một miếng đất có cỏ mọc từ năm ngoái, thong thả xới nó ra và bảo:

- Thế đó, không sao biết được con người thấy gì, mất gì ở đâu. Cuộc đời của chúng ta có khi xoay chuyển như thế đó.

Những con sẻ nhìn thấy bên chân Arkhip một con giun duy nhất và lập tức rào rào đâm bồ xuống tranh nhau mổ. Còn Masha nhìn chúng, xòe hai cánh tay ra mỉm cười.

(Nguyên tác: Маша, 1950)