← Quay lại trang sách

BIỆT THỰ BORGHESE

Tôi đến biệt thự Borghese luôn luôn và có thể đến đó hàng ngày, ít ra cùng để ngắm nhìn Rome lấp lánh ánh điện từ chỗ ngoặt của con đường.

Đó không phải là những lời trống rỗng. Rome quả thực lấp lánh từ đằng xa, như cẩm thạch vàng lấp lánh dưới ánh mặt trời. Mặt trời mùa thu trước lúc chiều tối thắp sáng trong khoảng không bao la mát rượi những ngọn lửa đồng, cháy trên mái vòm nhà thờ thánh Peter và đỉnh cao của các tòa nhà cồ kính.

Đã là tháng mười rồi, nhưng không nghe thấy tiếng lá rụng xào xạc như ở nước Nga ta thường thấy. Chỉ có một âm thanh duy nhất ngự trị trong các thửa vườn buồn bã và vắng vẻ của biệt thự Borghese - tiếng nước chảy từ một đài phun nước cao. Dòng nước xanh như nước biển đổ vào bể đá cầm thạch. Khách du lịch, đôi khi có lẽ đã thành tập quán, ném vào đó những đồng hào bạc như họ quen ném vào đài phun Trevi. Nước trút xuống làm lay động những đồng bạc. Gương mặt phỏng dụ của các nữ thần - tượng trưng cho các đất nước tươi đẹp: Pháp, Italy, Hy Lạp, in trên đồng hào - có vẽ buồn bã vì bị ném xuống đáy bể một đêm nọ trong nước lạnh.

Tôi ngồi lên một ghế đá gần đài phun. Không một lần nào, không có một ai lại ngồi gần bên tôi. Chỉ có một chú bé mặc quần soóc kẻ sọc thỉnh thoảng lại trượt pa-tanh vùn vụt trên đường nhựa qua chỗ tôi rồi khuất sau biệt thự Borghese.

Thật lạ lùng, nhưng tôi cảm thấy đài phun nước thật đơn độc, thậm chí tôi thấy thương nó như một ông già bị bỏ rơi. Cuộc sống của nó chỉ có một việc đơn điệu là phun nước rì rào suốt đêm cho tới khi bình minh mờ sương ngát xanh trên thành Rome. Chúng ta biết rõ những đêm mất ngủ nặng nề thế nào đối với người già. Hãn hữu một ngôi sao không tên nhấp nhánh trên trời xa. Ánh sáng yếu ớt của nó rung động trong bể nước lạnh của đài phun. Và đây là cuộc gặp gỡ duy nhất trong đêm của đài phun và một vật sống.

Những đêm ở Rome tôi thấy nặng nề hơn nhiều những đêm ở Moskva. Đã mấy lần trong đêm tối thức dậy vì tiếng chuông ngân, ngồi dậy trên giường mà không dám đứng lên, mặc quần áo, rời khách sạn "Nazionale" bước vào Rome ban đêm, bước ra, đi thẩn thơ trên những đường phố vắng ngắt bí ẩn, không có mục đích, chỉ gặp lính tuần tra mang tiểu liên. Bao giờ họ cũng đi với nhau từng đôi một và nghe rõ tiếng gươm của họ va lách cách.

Hoặc trong đêm đi giữa Rome, vượt qua Tiber ở quãng Trastevere, vào những khu phố tối tăm, đến những nơi mà hàng tháng không nghe thấy đâu một câu tiếng Nga. Vì thế một nỗi buồn dâng lên và tưởng chừng như ta rơi vào một cái bẫy vô vọng, lạc giữa đám nhà đen và nâu. Ngồi một lát bên cái đài phun nước cũ kỹ trong vườn hoa thuộc biệt thự Borghese và tạm biệt nó, tôi bước lên theo cầu thang chính rộng rãi, vào phong trưng bày tranh Borghese. Bước vào phòng thứ nhất, tôi ngồi ngay xuống cái ghế dài - phải để cho đôi mắt quen dần với ánh sáng hồng hồng từ các bức tranh trên trần hắt lại, hòa lẫn với hào quang vàng rực. Dường như mặt trời vừa lặn xuống gian phòng cao rộng bao la này. Ánh sáng đỏ tỏa xuống từ các bích họa của họa sĩ Giovanni Margeti và Domenico De Angelis.

Bất kỳ ai vào gian phòng này đều được chiếu sáng bởi ánh sáng đỏ hồng của chúng. Gương mặt mọi người trở nên dịu dàng và xinh đẹp vì ánh sáng ấy. Đặc biệt gương mặt của những thiếu nữ và trẻ em. Cả gương mặt kín đáo như bằng sứ của người phụ nữ Nhật trẻ tuổi. Tôi đã gặp cô vài lần ở biệt thự Borghese. Cô đi lại trong các phòng tranh hết sức thận trọng và đầu hơi nghiêng xuống như bông hoa đầu cành. Đôi mắt đen nhánh nhìn vào những bức tượng của nhà điêu khắc Bernini - một bậc thầy kỳ lạ. Dưới bàn tay ông, đá cũng trở nên dễ bảo và ấm áp như cơ thể con người. Điều đó đặc biệt thấy rõ trong nhóm tượng "Cuộc bắt cóc Proserpina"[1], trên đùi Proserpina còn hằn sâu chỗ lõm những ngón tay của tên bắt cóc Pluto.

Trong một lần đến biệt thự Borghese. tôi nhận thấy cô gái Nhật măng trẻ nhìn mãi Proserpina, sau đó quay lại, những ngón tay thon dài nắm chặt lấy cánh tay để trần đến tận vai của mình. Và ở bả vai cũng có chỗ lõm như ở đùi Proserpina.

Tôi mỉm cười. Cô gái Nhật nhận ra cái nhìn của tôi, thoáng đỏ mặt, hàm răng đều đặn vuông vắn lóe sáng qua đôi môi hé mở. Gần như phẫn nộ, nụ cười đó bắt tôi phải đưa cái nhìn sang nơi khác và ngay tức khắc đi sang phòng khác

Ở đó, Pauline Bonaparte bằng cẩm thạch dịu dàng nằm trên ghế xô-pha do Canova tạc. Ở đó mỗi nếp gấp của xô-pha, mỗi nếp nhầu đều được nhà điêu khắc gọt dũa tới hoàn mỹ. Từ tấm đệm nhiều nếp gấp nhầu này vươn lên thân hình thiếu nữ mảnh mai của Pauline, tấm lưng cân đối và bộ ngực trinh bạch của nàng. Tôi nhìn thấy những tu sĩ thỉnh thoảng lạc vào biệt thự Borghese cố tình lảng tránh tầm mắt khi đi qua Pauline. Nhưng từ gian bên cạnh bao giờ họ cũng quay lại nhìn nàng và bối rối mỉm cười.

Đứng lâu trong bảo tàng Borghese người đâm mệt. Những Đức mẹ đồng trinh tư lự và các vị thánh chăm chú trên tranh mặc lễ phục nặng nề và sang trọng. Họ ngồi trên các ghế tựa tạc từ đá, còn những ngọn đồi ngoài cửa sổ phủ một lớp cỏ úa chỉ để cho cừu non gặm.

Ở Judea, ở những thành Bethlehem và Nazareth[2]đó rõ là thiếu không khí. Hàng bao thế kỷ qua, có lẽ nó đã bị nóng lên vì ánh nắng chói chang nặng nề của vầng mặt trời trên tranh đã ngả dần xuống hoàng hôn chậm chạp đến thế. Bất gác tôi nín thở và tôi mong muốn một trận mưa rào xối xả trút xuống đất nước của kinh thánh khô cằn này. Nhưng điều đó không xảy ra và cứ mỗi lần tôi rời Borghese, trên Rome trải rộng vẫn một buổi chiều tà ngột ngạt và nó hứa trước một đêm ngột ngạt mất ngủ nữa.

Trong phòng ăn mờ tối ảm đạm của khách sạn, người ngồi bên tôi - một người Croatia ở Zagreb - mỉm cười như có lỗi, báo cho tôi hay là sẽ đến một đêm đại hạn đối với những người bị bệnh hen, vì sẽ có gió Sirocco thổi.

Không phải chỉ người Nam Tư và tôi bị bệnh hen. Hầu như đêm nào cô gái Nhật trẻ tuổi cũng đi xuống gian tiền sảnh được che bớt ánh sáng và vắng vẻ của khách sạn, ở đây dù sao cũng vẫn sáng hơn trong các phòng ngủ. Người Italy dùng điện rất dè xẻn.

Người gác mang chiếc ghế tựa nhỏ ra hẳn mặt phố, ra nơi thoáng khí, đặt nó ở trên hè, ngay gần các cửa kính quay của khách sạn và cô gái Nhật ngồi trên chiếc ghế đó rất lâu, gần như suốt đêm, chừng nào ngoài phố vẫn còn yên tĩnh và mát mẻ.

Người gác kể với tôi là bà khách này nom bề ngoài có vẻ trẻ vậy, chứ thực ra đã gần bốn mươi tuổi rồi. Bà đã bị nạn trong cuộc ném bom nguyên tử xuống Nagasaki, sống sót, nhưng từ đó luôn hoảng hốt, không dám ở đâu chỉ có một mình. Vì vậy suốt ngày bà đi lang thang trên các đường phố Rome, còn đêm nếu trời không mưa thì ngồi suốt trong chiếc ghế kế trên hè đường, bên cạnh cửa ra vào khách sạn. Sau lưng bà, trong gian tiền sảnh bao giờ cũng có người gác túc trực và hai, ba nhân viên phục vụ của khách sạn ngồi ở đó.

- Bà cần nhiều không khí - người gác nói thêm, - và ngoài điều đó ra, sao cho không có tiếng người nói. Khi đó thì bà bình tĩnh. Chúng tôi đã quen với bà rồi. Lính tuần tra cũng thế, nên họ không hỏi han gì hết. Họ chỉ chào và theo dõi không cho ai quấy rầy bà.

- Một người phụ nữ rất mực buồn bã, - tôi nói. - Và rất xinh đẹp.

- Yes! - Người gác đồng ý, lật lật quyển sách dày ghi tên những khách trọ thường xuyên, thở dài và nói: - Bà từ Singapore tới.

- Bà ấy là ai?

- Khai là nhà báo. Mỗi người đều có thể ghi cho mình bất cứ một nghề gì hợp pháp.

Nếu gặp người nào đó luôn luôn thì dần dần sẽ mất đi những nét khác thường ta nhận thấy ở họ. Người phụ nữ Nhật phá vỡ quy luật này trong sự giao tiếp giủa người với người. Càng ngày càng thấy chị khó hiểu và bí ẩn hơn. Điều bí ẩn đó tưởng chừng cũng vô đáy như chiều sâu thăm thẳm của đại dương.

Mỗi buổi tối tôi lại mấy lần đến gần cửa sổ phòng mình nhìn xuống hè đường bên dưới. Ở đó trên chiếc ghế thấy rõ bím tóc trắng mờ và mùi chiếc giày nhỏ. Chị không ngủ. Cảm thấy có người nhìn mình, chị lập tức trở nên rất bình tĩnh ngay.

Người phụ nữ trẻ này, hạt cát trong đại dương thế giới, đã bị đợt sóng nổ vũ trụ đưa qua cả trái đất tới đây, tới Rome cổ kính và đặt ngay trước ngưỡng cửa khách sạn Nazionale. Và cũng làn sóng ấy sẽ cuốn chị đi vĩnh viên trong chớp mắt khi có dịp, dù ta có muốn kéo dài thêm cuộc sống của chị ở đây, dù chỉ trong khoảnh khắc nhỏ xíu. Điều đó không xảy ra. Chị sẽ hòa tan, vẫn trang nhã và nhỏ nhắn, dường như muốn bay lên như thế, trong sự hỗn độn của các thủ đô hàng triệu người và đông đặc như Rome, như Tokyo thân thuộc của chị. Trong những thành phố nặng nề như vậy, sự cô đơn chỉ cảm thấy trong đêm sâu lặng lẽ và do sự bất trắc xấu xa của nó - trong nỗi sợ tên sát nhân đang lén đến bên mình mà trong đất nước thậm chí không còn biết gọi ai đến cứu giúp này nữa.

Hôm nay lúc trời tối, tôi đi ngang qua người phụ nữ Nhật. Chị nhìn tôi đầy vẻ hoang mang, đến nỗi cái nhìn ấy làm tôi lo lắng. Tôi thấy rõ rằng chị đang gắng hiểu và không sao hiểu được cái thành phố xa lạ có lịch sử hàng nghìn năm, khó hiểu và không thú vị gì đối với chị này là cái gì, tại sao chị lại ở đây và chị làm gì trong cuộc sống đầy hờ hững này. Trong cuộc sống mà mỗi người lái xe đều biết rõ lái chiếc xe của mình đi đâu, còn mỗi bông hoa giấy bám vào các bức tường đều biết rõ chức năng mình phải thực hiện, rằng nó không phải chỉ có một mình. Bông hoa giấy nở trên những đường phố lát đá giản dị và dịu dàng như ngọn lửa dù sao cũng hợp cảnh hơn là chị! Tại sao nó lại nở ở đây, bên khách sạn này?

Bên cửa vào gian tiền sảnh, một người lạ đột ngột đứng sững lại. Bộ mặt y trắng đục với đôi mắt dữ tợn nhăn nhó, tuồng như được vẽ lại từ các tờ quảng cáo phim về tất cả những tên ác ôn của điện ảnh toàn thế giới. Y chìa cả hai tay về phía người phụ nữ Nhật đòi chị đứng lên, nhưng chị không nhúc nhích.

- Được, đợi đấy! - Hắn nói rít qua hàm răng. - ta sẽ bẻ gãy cổ mi ra chỉ một nhát thôi.

Người phụ nữ Nhật không hiểu, chị mỉm cười điềm tĩnh và hơi ngạc nhiên như vẫn mỉm cười trước ánh sáng hồng và vàng rực của những bức tranh trần ở biệt thự Borghese. Người gác thong thả ngẩng bộ mặt hiền hậu, đầy đặn, mang kính lên khỏi trang sách. Anh tháo cặp kinh, thong thả bước ra hè đón gặp người lạ mặt có đôi mắt nhăn nhó.

- Để quý bà yên - Người gác nói với tên lạ mặt, nhưng nói khẽ. - Nếu không, tao sẽ tống này đến quận cảnh sát, mà có thể còn hơn, hơn nhiều thế nữa.

Người gác bình tĩnh rút ra khỏi túi ngực chiếc nan hoa xe đạp mài nhọn hoắt, một thứ vũ khí đáng sợ khó nhìn thấy trong những đêm khuy khoắt ở thành phố. Ở một đầu nan hoa có gắn tay cầm bằng gỗ. Chiếc nan hoa lóe lên dữ dội trong tay ngườì gác như một con rắn nhỏ trườn nhanh. Tên có đôi mắt nhăn nhó vội lùi lại ra giữa đường rồi rảo bước chuồn thẳng. Người gác đi theo hắn, cố đuổi kịp.

- Trời! - Tên mắt nheo bỗng kêu lên man rợ, nhảy sang một bên, bỏ chạy. - Trời!

- Pronto, mày thấy rồi đó! - Người gác nói, đút chiếc nan hoa vào túi, quay vào gian tiền sảnh. Anh mệt mỏi lau mồ hôi trên trán và tôi nghĩ rằng nghề nghiệp của người gác khách sạn nói chung không phải là yên tĩnh và an toàn như chúng ta thường nghĩ.

Người phụ nữ Nhật rời khỏi chỗ mình trên hè đường vào ngồi trong phòng điện thoại mở ngỏ, và khóc. Chị nhìn ra phía trước mà khóc. Các giọt lệ của chị to nom như những giọt lệ nhân tạo. Người hầu phòng mang lại cho chị cốc nước muối khoáng.

Tôi bỏ về căn phòng không ấm cúng của mình, nhưng mãi không sao chợp mắt được. Mấy lần tôi cứ tự nói thầm với mình: "Thật là một thế giới lạ lùng và khó chịu!". Trước đó chưa bao giờ tôi có một cảm giác thiếu yên ổn đến như thế từ thế giới bên ngoài. "Một thế giới lạ lùng và khó chịu!". Không, không lạ lùng mà đáng sợ – người gác có thể đâm chiếc nan hoa vào tim tên kia và làm như vậy cũng là đúng thôi.

Giữa đêm, mưa lộp độp rơi trên các mái nhà, các ống dẫn nước kêu vu vu giọng khàn. Sức nặng đè lên ngực đã biến mất, dường như ai đó đã gỡ ra nắm tay bóp chặt quả tim hồi lâu. Lúc đó tôi hiểu rằng, có lẽ gió Sirocco đã ngừng thổi - chính vì nó mà máu trong người mới chảy chậm lại và tất cả đều mang dấu vết ảm đạm của trí não bị mệt mỏi.

Buổi sáng tôi lại đến biệt thự Borghese. Những vũng sâu đầy nước trong vắt sau trận mưa đêm, khói lan nhẹ trên mặt chúng. Người phụ nữ Nhật ngồi trên bức tượng Daphne. Trông thấy tôi, cả gương mặt chị mỉm cười - đôi môi hơi hé, thậm chí hàng mi và đôi mắt âu yến màu tro xám như của phụ nữ Âu châu. Bên cổng vào biệt thự có bán hoa. Tôi mua một bông hồng nhỏ màu huyết dụ lại gần người phụ nữ Nhật và đặt bông hoa lạnh và ẩm lên đầu gối chị.

Chị cười to khanh khách nghe như có ai lăn những quả cầu pha lê trên những mặt sàn trung cổ lát đá cẩm thạch và chúng lăn tới sau những chiếc đi-văng, ghế tựa và cười đùa, dỡn tôi.

Người phụ nữ Nhật đứng dậy, sờ vào cổ tay tôi và cúi chào rất thấp theo kiểu Nhật rồi bỏ đi. Và sau đó, tôi còn cảm thấy tại chỗ tay chị chạm vào còn để lại vết lõm như ở bức tượng của Bernini. Chị đi rồi, một làn gió nóng cuốn theo chị qua khắp phòng, yên tĩnh lắng xuống. Chị đi về phía Rome đang lim dim trong không khí vàng như đồng thau.

Tôi nhìn theo lưng chị giống như mặt chiếc đàn vĩ cầm quý giá, nhìn chuyển động thoăn thoắt của bộ đùi trong tà áo váy bó chặt, cho đến khi chị quay lại nhìn tôi và mặt trời của đất nước xa xôi ngoài đại dương lóe lên trong đôi mắt dài của chị. “Không, - tôi nghĩ, - thế giới không đáng sợ mà chỉ lạ lùng và tôi biết ơn nó vì hàng ngàn chuyện vụn vặt luôn luôn mang lại cho ta những cảnh giác mờ ảo và hạnh phúc”.

- Đây chính là cô bé ấy đấy, - người đánh giầy già nói với người bạn ngồi bên, - một thiếu niên, cả hai ngồi ở cổng vào biệt thự, – cô bé đã bị bom nguyên tử đấy.

Và cả hai trìu mến mỉm cười dõi theo chị, dường như muốn bằng nụ cười ấy giữ gìn cho cả cuộc sống sau này của chị.

(Nguyên tác: Вилла Боргезе, 1966)

Ghi chú

[1]Proserpina: nữ thần sinh sản bị Pluto bắt cóc mang xuống đất.

[2]Tên những thành phố ở Palestine. Bethlehem, quê hương của Chúa Jesus.