← Quay lại trang sách

SỰ RA ĐỜI CỦA MỘT TRUYỆN NGẮN

Ngày mùa đông ở ngoại ô Moskva không sao thức dậy được sau đêm dài vẫn lim dim ngủ. Đây đó trong các nhà nghỉ vẫn sáng ánh đèn. Tuyết lác đác rơi.

Nhà văn Muravyev ra đầu toa mở cửa hồi lâu, nhìn mùa đông lướt qua ngoài con tàu.

Không đúng hẳn là mùa đông - mà là một ngày u ám, hơi gió ẩm lướt từng đợt ào qua, tuyết như sắp sửa tan đến nơi và những giọt nước đầu tiên sẽ rơi xuống khỏi các cành cây có tuyết tan. Trong những ngày như vậy. Trong các khe rừng nước đầu nguồn đã thận trọng róc rách dưới mặt băng. Chúng cuốn theo mặt nước những bong bóng không khí. Những chiếc bong bóng vội vã trôi thành những chuỗi bạc, bám vào những đám cỏ mục ở dưới nước. Một con chim hồng tước nào đó có bộ ngực hồng hồng ngồi vắt vẻo trèn cành cây đầu ngọn suối, chăm chú nhìn những bọt bong bóng lướt qua, khẽ kêu lên chiêm chiếp rũ tuyết ra khỏi mình. Có nghĩa là mùa xuân sắp đến rồi!

Có những ngày ta thấy cuộc đời thật đặc biệt trong sáng và êm đẹp. Ngày hôm nay đối với Muravyev cũng như vậy.

Trong thời gian xa xưa, các nhà văn thường hay đặt ra cho độc giả những câu hỏi.

Vậy thì tại sao các nhà văn hiện đại lại không sử dụng tới thủ thuật đó? - Muravyev nghĩ, - Tại sao không thể bắt đầu một truyện ngắn chẳng hạn như sau:

"Bạn đọc thân mến! Bạn có bao giờ được biết cái cảm giác của niềm hạnh phúc không tránh khỏi, đột nhiên chiếm lĩnh lấy con người một cách vô cớ không? Bạn đang đi ngoài phố và tim bạn bỗng nhiên đập rộn ràng vì sự tin chắc rằng vừa có một điều gì tuyệt vời xảy ra trên trái đất. Điều đó có xảy ra với bạn như vậy không? Tất nhiên là đã từng xảy ra. Bạn đã tìm hiểu lý do của trạng thái đó chưa? Chưa chắc. Nhưng thậm chí linh cảm về hạnh phúc, dù có lừa dối bạn, trong đó vẫn chứa đựng bao sức mạnh giúp bạn vui sống."

"Suy nghĩ và tìm ra nguyên do những tâm trạng mơ hồ nhưng tốt đẹp của con người – là công việc của nhà văn, - Muravyev nghĩ. -Đó là một phần trong công việc chúng ta."

Giờ đây công việc lao động tràn đầy chung quanh ta. Những đoàn tầu chở hàng ngàn tấn, hơi bốc ngùn ngụt đang phóng qua ầm ầm. Đó là lao động. Máy bay đang ì ầm bay thấp là là trên đồng bằng phủ tuyết. Đó cũng là lao động. Những cột điện bằng thép phủ đầy hạt nước, tải dòng điện mạnh đi trong bóng tối. Cả đó cũng là lao động.

"Đất nước vĩ đại gồm hàng triệu con người phủ dưới tuyết, làm việc vì lẽ gì? - Muravyev nghĩ.- Ta làm việc cuối cùng để làm gì?".

Vì cuộc sống? Vì những giá trị tinh thần cao quý? Để con người luôn đẹp đẽ, giản dị và thông minh? Và cuối cùng để tình yêu tràn đầy những năm sống của ta với hơi thở trong lành của nó? Phải, vì điều đó!

Trong những câu thơ như ca hát của mình Pushkin hỏi "Ai đã trồng những bông hồngTheocritusdịu dàng trên mặt tuyết? Trong thế kỷ sắt thép, ai đã đoán ra thế kỷ vàng?".

- Tất nhiên là chúng ta. - Muravyev tự trả lời. Tuyết bay vào cửa toa, chảy ra trên mặt. - Còn ai khác nữa, nếu không phải là chúng ta.

Muravyev viết cho một trong những tờ tạp chí của Moskva một truyện ngắn về lao động. Ông vật vã mãi mà không sao viết ra được. Có lẽ việc mô tả tỉ mỉ sự lao động đã gạt con người sang một bên. Mà không có con người, câu chuyện trở nên chán ngán không thể chịu được. Muravyev lại trưởhg câu chuyện không viết ra được vì cuộc sống tất bật ở Moskva - đủ mọi loại công việc, những hồi chuông điện thoại, khách khứa, họp hành, v.v.

Cuối cùng, Muravyev bực mình đi khỏi thành phố. Bạn bè ông có nhà nghỉ ở một làng ngoại ô Moskva. Muravyev định đến căn nhà nghỉ này và ở lại đó cho đến khi viết xong câu chuyện. Và

Tại nhà nghỉ đang sống những người họ hàng xa của bạn ông, nhưng ông không bao giờ gặp họ.

Tại ga Severny, đang đi trên ga ra tầu đi ngoại ô, tim ông bỗng nhiên đập thình thịch, và Muravyev nghĩ rằng - ông sẽ gặp may trong công việc. Thậm chí lúc này ông biết sự may mắn ấy chắc chắn sẽ có. Ông biết theo nhiều điểm chính xác- sự sảng khoái trong khắp cơ thể, sự xúc động dè dặt lòng, ông nhớ được một cách đặc biệt nhanh nhạy tất cả những gì diễn ra chung quanh, ý muốn nôn nóng đến mau căn nhà không quen biết kia, ngồi xuống bên mặt bàn, trong yên tĩnh, bên thếp giấy dầy sạch và cuối cùng vì một điều là trong trí nhớ ông luôn hiện lên những câu thơ yêu thích ngắt quãng: "Lòng ta cồn cào nói xúc động trữ tình, nó run rẩy ngân nga, mầy mò trong giấc mộng để cuối cùng được thoát ra vùng vẫy tự do..."[1].

Trong trạng thái xốn xang đó, Muravyev rời con tàu bước ra sân ga. Khu nhà nghỉ kéo dài trong cánh rừng thông. Trên sân ga không có một ai. Chỉ có những con chim sẻ xù lông đậu trên những thành lan can, nhìn con tầu không hài lòng. Thậm chí chúng không né tránh khi Muravyev đi bên cạnh chúng và tay áo suýt chạm vào người chúng. Chỉ có một con sẻ kêu quẹt quẹt gì đó vào lưng Muravyev. “Có lẽ nó rủa mình là thằng ngu", Muravyev nghĩ và quay lại con sẻ nói:

- Gớm ra vẻ ông tướng nhỉ?!

Con sẻ nhìn theo Muravyev hồi lâu, mắt hấp háy, vẻ coi thường.

Nhà nghỉ cách sân ga ba cây số. Muravyev đi trên con đường vắng vẻ. Đôi khi giữa những con đường rừng là một khoảng cánh đồng. Bầu trời màu hồng trải ra trên đầu.

- Chẳng lẽ đã chiều rồi ư? - Muravyev hỏi to và tự nhận ra rằng ở đây, xa thành phố, ông bắt đầu tự nói chuyện với mình.

Ngày tàn nhanh không một tia nắng sáng. Ánh mặt trời không sao lọt qua được bóng tối ken dầy, không ngả xuống các cành cây lạnh cứng, không lấp lóa trên đó ánh sáng nhợt nhạt và tỏa bóng yếu ớt xuống mặt tuyết.

Con đường chạy xuống khe núi qua một chiếc cầu lát gỗ. Suối róc rách dưới chân cầu.

- À! - Muravyev nói với một niềm vui khó hiểu và dừng lại. Trong vũng nước tràn ra dưới mặt băng thấy rõ nước đen đang chảy và dưới đó là mặt đá.

- Mùa đông mà bạn lấy đâu ra nhiều nước thế? - Muravyev hỏi.

Tất nhiên con suối không trả lời. Nó tiếp tục rì rào lúc thì lắng xuống, lúc cất cao tiếng reo. Nước bẻ gẫy những miếng băng và xô chúng vào nhau.

Muravyev đi xuống suối và lấy chiếc gậy chọc băng. Con suối quay tròn miếng băng vỡ và sủi bọt.

"Phải giúp đỡ mùa xuân tí chút mới phải" - Muravyev nghĩ, tự cười mình và ngoái nhìn lại. Trên cầu một cô gái mặc quần áo trượt tuyết màu xanh đang đứng và cắm chiếc gậy vào tuyết, chăm chú nhìn Muravyev.

Muravyev bối rối. Cô gái này nghĩ gì về ông? "Ông già lẩn thẩn làm chuyện vớ vẩn". Tất nhiên cô không thể nghĩ gì khác. Nhưng cô gái cúi xuống tháo vội thanh trượt tuyết ra và kêu lên với Muravyev:

- Bác đợi tí! Đập băng bằng gậy trượt tuyết tốt hơn. Đầu nó bằng sắt. - Cô chạy xuống suối đưa chiếc gậy trượt tuyết cho Muravyev. Hóa ra đập băng bằng gậy trượt tuyết để hơn thật.

Hai người cùng đập chăm chú và yên lặng, Muravyev thấy nóng và cởi găng tay ra. Tóc xòa ra dưới chiếc mũ len đan của cô gái.

Sau đó không biết từ đâu xuất hiện một chú bé đội mũ lông, tai mũ vểnh lên. Muravyev nhận ra chú bé khi chú ta thở khụt khịt, say sưa chen vào, luẩn quẩn dưới chân.

- Có lẽ đủ rồi! - Muravyev nói và đúng thẳng dậy.

Hoàng hôn dày đặc đã phủ lên mặt đất. "Mà thời gian trôi qua nhanh thật", - Muravyev nghỉ rồi nhìn cô gái cười. Cô gái phủi tuyết khỏi đôi giăng tay và mỉm cười với ông, mắt không ngước lên.

Khi đi từ dưới khe lên con đường rừng. Muravyev nói chuyện với cô gái. Chú bé lẽo đẽo theo sau một lúc, thở hổn hển khụt khịt.

Té ra cô gái sống cùng với bố ở ngay ngôi nhà nghỉ mà Muravyev đang đi tới.

- Vậy ra cô là bà con xa của các bạn tôi! - Muravyev vui mừng nói tên mình.

Cô gái rút chiếc găng tay ướt ra và chìa tay cho Muravyev.

- Tên cháu là Zhenya, - cô nói giản dị, - cháu và ba cháu đợi bác đã hai ngày rồi. Cháu sẽ không làm phiền bác. Quả thực bác đừng nghĩ rằng... Ngày mai là ngày nghỉ đông cuối cùng của cháu. Cháu sẽ trở về trường đại học ở Moskva. Duy có ba cháu...

- Ba làm sao? - Muravyev dè chừng hỏi.

- Ba cháu là nhà thực vật và hay chuyện lắm. -Zhenya nói. - Nhưng hôm qua ông đã hứa là sẽ không quấy rầy bác bằng những cuộc chuyện trò. Có điều không biết được ba cháu có giữ đúng lời hứa không? Khó mà kìm được lắm.

- Tại sao vậy?

Zhenya đi bên cạnh Muravyev. Cô vác thanh trượt tuyết trên vai và nhìn thẳng trước mặt mình. Ánh sáng yếu ớt lấp lánh trong mắt cô và chỗ bọc nhôm trên thanh trượt tuyết. Muravyev ngạc nhiên – ánh sáng đó từ đâu ra? Trên khắp cánh đồng bóng tối đã ngả về đêm. Sau đó Muravyev nhận ra đó không phải là ánh tuyết hắt lại như ông thoạt nghĩ mà là ánh đèn từ cửa sổ được chiếu sáng của một tòa nhà nghỉ lớn hai tầng. Họ đã tới gần đó.

- Ừ, tại sao không kìm được? Những cuộc nói chuyện nào? - Muravyev lại hỏi.

- Biết nói với bác thế nào, - Zhenya ngập ngừng đáp. - Chiếc tàu thủy được chế tạo như thế nào. Hay những mảnh vải mỏng chạy ra dưới những ngón tay của người thợ dệt cháu có thể hiểu được. Những cuốn sách được viết như thế nào thì cháu không hiểu được. Và ba cháu cũng không hiểu được điều đó.

- Phải, - Muravyev ngẫm nghĩ. - Chuyện đó không thể nói chốc lát được.

- Thế bác có định viết về điều đó không? Zhenya rụt rè hỏi và Muravyev hiểu rằng nếu không vì sự e thẹn thì cô gái đã đơn thuần yêu cầu ông viết về điều đó. Những người khác cũng viết về công việc của mình đó thôi.

Muravyev dừng lại, nheo mắt chăm chú nhìn Zhenya.

- Mà cháu giỏi thật! Sao cháu đoán ra được là bác viết, đúng hơn, đang định viết về sự lao động văn chương của mình?

- Dạ, cháu không đoán và được, Zhenya kinh hãi nói - Cháu chỉ nói vậy thôi. Quả thực cháu rất muốn biết những người như Katyusha Maslova[2]hay Telegin trong “Con đường đau khổ" tự nhiên ở đâu xuất hiện ra và sống mãi hàng thế kỷ. Vì thế cháu mới hỏi.

Nhưng Muravyev không còn nghe thấy cô nói nữa. Quyết định viết về công việc của mình đã đến với ông ngay lập tức! Sao trước đây ông không đoán ra điều đó! Sao ông đã có thể viết một cách uể oải và lạnh lùng về điều ông không biết, không trải qua? Viết và cảm thấy ngôn ngữ cứng nhắc, nhưng lại không vang lên, không gợi ra sự phẫn nộ, nước mắt, suy nghĩ và tiếng cười mà kêu lên như những chiếc thùng rỗng. Thật xuẩn ngốc!

Ngay tối hôm đó, Muravyev không chút hối tiếc nào đã vứt cả vào lò sưởi nơi những thanh gỗ bạch dương khô đang cháy rào rào tất cả những gì ông đã viết trong những ngày qua ở Moskva.

Tập giấy dầy sạch sẽ nằm trên bàn. Muravyev ngồi vào bàn và viết lên trang đầu tiên:

"Nhà thực vật già - người gầy khô, sôi nổi và nhanh nhẹn - tối nay vừa kể cho tôi nghe về cuộc sống của cây cỏ dưới tuyết. Những bông hoa dì ghẻ đâm lên từ từ qua tấm thấm như thế nào, còn những bông hoa điểm tuyết lạnh lẽo nở ngay trên mặt tuyết. Ông hứa ngày mai sẽ đưa tôi vào rừng, thận trọng gạt lớp tuyết bên trên ở bất kỳ cánh đồng nào, cho tôi xem tận mắt những bông hoa mùa đông còn nhợt nhạt này.

Tôi đang viết một truyện ngắn hay ký sự - tự tôi cũng chưa biết gọi những thứ sinh ra dưới ngòi bút của tôi là gì, - về hiện tượng còn chưa được ai nghiên cứu có cái tên hơi cao đẹp trong sáng tác. Tôi viết về văn xuôi.

Nếu chúng ta tìm hiểu những mẫu mực đẹp đẽ nhất của văn xuôi thì sẽ thấy rõ chúng tràn đầy ý thơ và tính hội họa.

Những người ngây thơ và cả một số nhà thơ có cặp mắt trong, đầy mơ mộng huyền ảo, cho đến nay vẫn cho rằng trên trái đất càng ít bí ẩn thì sự tồn tại của chúng ta càng thêm buồn tẻ. Đó là điều vớ vẩn! Tôi khẳng định thơ ca chủ yếu sinh ra do sự hiểu biết. Số lượng thơ ca tăng lên hoàn toàn tương ứng với số lượng kiến thức của chúng ta. Càng ít điều bí ẩn, trí tuệ con người càng hùng mạnh. Con người càng cảm thụ mạnh mẽ và truyền cho người khác chất thơ trên trái đất.

Một thí dụ cho điều đó – là câu chuyện của nhà thực vật già về đời sống của cây cỏ mùa đông. Có thể viết cả một thiên trường ca tuyệt đẹp về điều đó. Nó phải được viết nên bằng những câu thơ cũng lạnh lẽo và trắng muốt như những bông hoa điểm tuyết.

Sự hiểu biết là cái rễ. Từ đó mọc lên những bông hoa vĩnh cửu chưa ai từng được biết của trí tưởng tượng.

Tôi mong được tha thứ vì sự so sánh bóng bẩy này, nhưng tôi cảm thấy đã đến lúc phải quên đi những thành kiến "văn hóa cao", luôn phê phán sự bóng bẩy và những thứ khác không kém tốt đẹp hơn. Vấn đề là chỗ sử dụng chúng cho đúng lúc và đúng mức mà thôi"

Muravyev viết không ngừng. Ông không dám đặt bút xuống dù chỉ một phút vì sợ làm dừng lại dòng chảy của những suy nghĩ và lời văn.

Ông viết về công việc lao động của mình, về sự tuyệt vời và sức mạnh của tiếng Nga, rằng thế giới trong tất cả sự đa dạng lạ lùng của nó phải được tái hiện trên trang giấy sát với hiện thực, nhưng đã qua lăng kính của trí tuệ và trí tưởng tượng của nhà văn, vì thế - sẽ được nhận thức rõ ràng hơn trong thực tế ồn ào.

Ông viết như say. Ông vội lắm. Trong vệt sáng nhỏ hẹp hắt ra từ cửa sổ nơi ông, tuyết lác đác rơi nghiêng nghiêng giữa các cây thông. Tuyết hiện ra trong bóng tối và lập tức hòa vào bóng tối.

"Lúc này ngoài cửa sổ tuyết đang bay theo gió - Muravyev viết, - Những tinh thể tuyết đang bay. Tất cả chúng ta đều biết hình dáng phức tạp và tuyệt đẹp của chúng. Người nào nghĩ ra được hình dáng như những tinh thể này ắt phải giành được vinh quang to lớn. Nhưng không có gì thiếu bền vững và thoảng qua nhanh hơn như những tinh thể này. Muốn hủy chúng đi, chỉ cần một hơi thở của trẻ con.

Sự hào hiệp của thiên nhiên thật vô tận, nó không tiếc sức lực của mình. Chúng ta, những con người có nhiều điều phải học hỏi ở thiên nhiên. Trước hết là sự hào hiệp đó. Mỗi một công trình của chúng ta, dù là một truyện ngắn nhỏ nhất, ta phải hiến dâng tất cả con người mình, tất cả sức lực - tất cả những gì tốt đẹp nhất trong tâm hồn ta. Ở đây không có chỗ cho sự dè xẻn và tính toán.

Cần phải mở ra hết các đập ngăn, như các kỹ sư thường nói. Và không bao giờ sợ cái cảm giác trống rỗng mà nó nhất thiết sẽ đến sau khi hoàn thành công việc - bạn sẽ cảm thấy rằng bạn không thể viết được một dòng nào nữa, rằng bạn bị vắt kiệt như một quả chanh - đó là một trạng thái giả tạo. Một tuần lễ trôi qua và bạn đã muốn cầm bút rồi. Trước tầm nhìn trí tuệ của bạn, thế giới sẽ lại lên tiếng.

Như con sóng vứt lên bờ cái vỏ ốc bay chiếc lá mùa thu rồi lại rút đi, làm những viên sỏi kêu lên rào rào se sẽ, kiến thức của bạn cũng sẽ mang tới và đặt vào trang giấy trước mặt bạn lời đầu tiên của công trình mới".

Muravyev viết đến sáng. Khi ông viết đến những chữ cuối cùng thì ngoài cửa sổ đã ngả mầu xanh. Trên những cánh đồng mờ tối, trong sương giá, bình minh đã sáng lên.

Như thấy rõ ở tầng dưới tiếng lửa cháy bập bùng trong lò sưởi vừa đốt và tiếng của lò bằng gang ken két được mở ra.

Muravyev viết nốt những câu cuối:

"Gorkynói rằng không thể viết được trong khoảng không trống rỗng. Khi làm việc phải lấy rõ những gì tốt đẹp nhất trong con người yêu quý mà ta muốn kể ra, ta ấp ủ trong tâm hồn, trong trái tim ta. Khi đó những lời lẽ mạnh mẽ tươi mát sẽ tự đến với ta.

Chúng ta hãy cảm ơnGorkyvề lời khuyên giản dị vĩ đại đó."

Buổi sáng, Muravyev rửa mặt hồi lâu trong nước lạnh. Những miếng băng trong nổi lềnh bềnh trong xô nước. Một cành tùng chĩu xuống vì tuyết treo ngang cửa sổ căn phòng rửa mặt nhỏ. Chiếc khăn mặt bông mới, xốp, toát ra mùi gió.

Tâm hồn nhẹ bẫng và trống trải – thậm chí dường như có gì ngân vang trong khắp cơ thể.

Đến trưa, Muravyev tiến Zhenya về trường đại học của mình ở Moskva.

- Thực tình mà nói, - Muravyev nói với Zhenya, khi hai người tiến gần sân ga lát gỗ ở trong rừng, - bác đã có thể trở về Moskva rồi. Nhưng bác sẽ ở lại đây hai, ba ngày để nghỉ ngơi.

- Ở đây không tốt sao? - Zhenya kinh hãi hỏi.

- Không. Ở đây tuyệt vời. Chẳng qua là bác đã gần như kết thúc truyện ngắn của bác rồi.

Muravyev bất giác nói "gần như". Và sau đó, ông bỗng thấy ngượng khi nói thật ông viết xong truyện ngắn chỉ trong một đêm.

Ông muốn nói với Zhenya rằng, ông đã rất vội để kịp đọc cho cô nghe truyện ngắn này trước khi cô về Moskva, nhưng ông đã không đọc, không dám. Ông muốn nói với Zhenya, viết truyện ngắn này ông đã nghĩ đến cô, rằng Gorky hoàn toàn có lý, rằng ông thật cảm ơn cô, mộr con người gần như không quen biết, vì cô sống trên trái đất này và gợi ý muốn kể cho cô nghe những gì ông ấp ủ trong tâm hồn.

Nhưng Muravyev không nói gì với Zhenya. Ông chỉ xiết chặt tay cô lúc chia tay, nhìn vào đôi mắt ngượng ngùng của cô và cảm ơn vì sự giúp đỡ.

- Vì sự giúp đỡ nào cơ ạ? - Zhenya ngạc nhiên.

Trước khi tầu đến, tuyết dày rơi xuống. Xa sau chiếc đèn hiệu, con tầu hân hoan huýt hồi còi dài. Con tàu bỗng nhiên lao tới từ tuyết, phả khói lên khu rừng.

Cũng như lúc ở trên sân ga Severny ở Moskva, ông lại thấy trái tim đập dộn dịp. Cái cảm giác rằng ngay lúc này đây, ở đâu đó bên cạnh, trên mảnh đất đang lặng đi dưới trận mưa tuyết bay bề ngoài tưởng như nhẹ nhàng này vừa xảy ra một điều gì đó thật tốt đẹp và ông, Muravyev, liên quan đến điều đó như một người trong cuộc.

- Thật tốt đẹp. - Muravyev nói. - Không được sống xa tuổi trẻ.

Muravyev đi theo cầu thang phủ băng từ sân ga xuống con suối nhỏ - phá băng. Ông đã mang theo chiếc gậy trượt tuyết.

(Nguyên tác:Рождение рассказа,1954)

Ghi chú

[1]Một bài thơ của Pushkin nói về cảm hứng khi làm thơ.

[2]Katyusha Maslova: Nhân vật trong tiểu thuyết "Phục Sinh" của Lev Tolstoy