CÂY CÙ TÙNG
Nhà nghỉ ở trên một ngọn đồi mọc đầy những cây hoàn diệp liễu và tùng già. Dưới chân đồi trong một khe sâu rì rào con suối nhỏ Vertushinka[1]. Có cái tên ấy chắc là vì nó uốn lượn ngoằn ngoèo theo các khe hẻm. Những người an dưỡng đi đâu ra khỏi nhà cũng đều gặp con suối này chảy róc rách dưới băng.
Ở những chỗ ngoặt, nơi dòng suối chảy nhanh hơn, Vertushinka rửa sạch những hố băng. Nhìn qua mặt nước lay động thấy rõ đáy nước rải sỏi, còn sát mép băng, bao giờ cũng tụ lại và xoay tít như chiếc đu quay những gì dòng nước cuốn theo trong mùa đông - những chiếc lá đen đã ủng mục, những miếng vỏ cây, rêu, lông của những con chim sơn tước dứt ra trong những trận đánh nhau, hạt cây.
Nhiều hơn cả vẫn là hạt cây. Vertushinka cuốn theo đặc biệt nhiều những hạt cây trăn – những quả tròn xù xì đen sẫm.
Andrey Ivanovich Dubov là một cán bộ nghề rừng và chọn giống, đến nhà nghỉ của các nhà văn hoàn toàn tình cờ ngẫu nhiên, khi ở Viện nghiên cứu đưa anh tấm phiếu đến nhà nghỉ này. Dubov đồng ý ngay. Từ lâu anh đã muốn được sống giữa những người gọi là "nghề tự do".
Nhưng sau đó Dubov bắt đầu hoài nghi. Dù sao cũng là môi trường không quen biết. Các nhà văn, nghe nói, là những người từng trải thú vị, đa dạng, nhưng ồn ào và hay chế giễu.
Dubov là người chỉ biết một nghề rừng, có cảm tưởng rằng giữa các nhà văn, anh sẽ giống như một người rừng, không có một sự chuẩn bị nào, đi đôi ủng lông vụng về và mặc áo tu-lúp với ngay vào buổi hòa nhạc ở Cung lớn của Viện âm nhạc. Chung quanh anh người ta sẽ tranh cãi về các cuốn sách, về thơ ca, và những sự khúc mắc của nghề văn. Vậy anh có thể bàn góp được điều gì nếu trong văn học anh chẳng hiểu biết được tí gì?
Vì thế trong mấy ngày đầu ở nhà nghỉ, Dubov chỉ quan sát và yên lặng. Mỗi ngày, sau bữa trưa và tối, anh lại nghe được bao nhiêu câu chuyện đủ các loại - buồn, vui, hoang đường, biết bao chuyện sắc sảo, giai thoại và những cuộc tranh luận thú vị, sôi nổi đột nhiên nổ ra như một đám cháy - đến nỗi tối đến anh thấy nhức cả đầu.
Nhưng anh đã mau chóng thích nghi với những câu chuyện, đã hòa vào "sở thích" chung và chỉ một tuần sau anh đã nóng lòng chờ được nghe những câu chuyện mới. Anh không còn cảm thấy là một người xa lạ nữa.
Dubov thức dậy rất sớm, khi trời còn tối. Đang cuối tháng Chạp - những ngày ngắn nhất trong một năm. Thậm chí buổi trưa trên những khoảng rừng thưa thớt và những cánh đồng phủ tuyết phía chân trời cũng bao phủ bóng tối mờ mờ. Dường như đêm chỉ lùi ra một quãng - mà cũng không thích thú chút nào - để rồi sau đó lại quay lại.
Dubov mặc quần áo và đi ra Vertushinka. Đêm còn tối sẫm, không khí nhuộm màu lam nhạt, lát sau chuyển sang màu xám mềm mại Những cây tùng đen nặng nề đứng giữa bóng tối của buổi sớm, dường như được các bác thợ rèn rèn nên từ những mảnh gang xanh.
Trên bờ Vertushinka, Dubov gặp Nastya, con gái của một nhà văn, đang học lớp chín.
Cô nghỉ ở đây sau trận ốm, đi trượt tuyết nhiều và lần đầu tiên đọc “Chiến tranh và hòa bình".
Bố cô suốt ngày ngồi ở phòng khách và chơi cờ. Thỉnh thoảng Nastya lại chạy bổ vào phòng khách, kêu lên tuyệt vọng: "Bố ơi, công tước Andrey bị giết rồi!... - Rồi lại chạy ra để một giờ sau lại lao vào kêu lên, nhưng đã vui sướng - Bố ơi, hóa ra chàng không chết, chỉ bị thương thôi!"
Ông bố chỉ nhìn cô gái huơ tay.
Gặp Dubov, bao giờ Nastya cũng mỉm cười và trong nụ cười cởi mở, cô có biết bao vẻ đẹp thanh khiết của tuổi thiếu nữ, sự tươi mát và niềm hạnh phúc chưa ý thức được đến nỗi Dubov cũng mỉm cười đáp lại.
Không hiểu bằng những con đường mờ ảo nào, nụ cười đó gắn liền Dubov với những ý nghĩ tốt đẹp Đúng hơn, nó gợi ra những suy nghĩ về ý nghĩa đầy hạnh phúc của công việc anh làm, về tương lai và về mùa xuân chẳng còn bao lâu nữa sẽ đến.
Sự nhích lại của mùa xuân thậm chí cảm thấy rõ trong những trận gió ấm mang tới từ rừng mùi vỏ cây mục, theo những giọt nước, lấp lánh chảy xuống từ những chuỗi băng (dường như có hàng chục mặt trời nhỏ chiếu nghiêng trong không khí và biến đi trong tuyết xốp). Cuối cùng, theo tiếng chim sơn tước đang vui vẻ mổ những quả thông.
Nastya gần như bao giờ cũng trượt tuyết đến doi cát gần chỗ vũng nước Vertushinka tràn ra.
Hai bím tóc dài của cô từ sau lưng hất ra trước ngực, cô thở sâu vì đoạn đường trượt tuyết, má cô thoáng hồng, còn đôi mắt dưới hàng mi dài sáng rực lên, dường như trong hai con ngươi xanh chói lên hai ngôi sao nhỏ.
Mỗi lần Nastya lại tìm thấy ở dưới nước những thứ mới lý thú: khi thì một cành tùng đã vàng hoe (hóa ra nó bị bám gỉ), khi thì một vỏ đồ hộp sáng loáng như bạc dũa, khi thì một chiếc lá cây huệ nước đã tím lại vì giá rét và chết cứng. Thậm chí một lần cô nhìn thấy một con cá nhỏ dài như con thoi lướt qua ngách suối và cô tưởng đó là cá hương, nhưng ở ngoại ô Moskva đâu có cá hương.
Tìm được thứ gì Nastya lại hỏi Dubov: Tại sao lá cây huệ nước khi úa lại màu tím, còn lá thông thì vàng, có phải những con bọ dừa nước mùa đông không chết mà ngủ ở dưới đáy nước, dưới những hòn đá không? Những hạt cây theo nước quay tròn ở chỗ ngoặt con suối có thể mọc lên được không? Thật hay nếu thu lại những hạt cây ấy đem gieo để xem cái gì sẽ mọc lên. Có thể sẽ mọc lên cả một khu vườn từ những hạt cây trôi theo suối này.
Thoạt đầu Dubov trả lời rất chính xác, khoa học nhưng theo vẻ thất vọng thoáng qua trên nét mặt của cô, anh hiểu rằng cô chờ ở anh những câu trả lời khác.
Có lẽ tất cả những vật ở dưới nước này đã làm nảy sinh ra trong đầu óc Nastya cả một chuỗi những câu chuyện thần tiên. Có lẽ cô không phải chỉ muốn biết sựgiải thích khoa học cho những hiện tượng này, mà còn muốn nắm bắt cái chất thơ thầm kín khó truyền đạt được trong những chiếc lá rơi ấy, trong lớp băng mỏng, tiếng lanh canh của nó, trong những nắm tuyết xốp, trong không khí ngào ngạt của những rừng hoàn diệp liễu và trong tất cả những ngày mùa đông lim dim ngủ này.
Nhưng Dubov đã không thể truyền đạt cho cô biết được quyền lực khó hiểu ấy của mùa đông. Anh biết rằng Nastya ưa thích chuyện thần thoại "Nghĩ ra các chuyện thần thoại là việc của các nhà văn. - Anh tự nói với mình. - Tất nhiên mình cảm thấy vẻ đẹp của mùa đông, nhưng không thể diễn tả nổi, không có đủ lời lẽ. Và có lẽ cả trí tưởng tượng nữa. Mình bị khô héo trong công việc khoa học".
Một buổi tối nọ, một nhà văn đọc câu chuyện thành thoại vừa mới viết của mình trong phòng khách.
Nhà văn đã có tuổi, mang kính, bị bệnh khó thở và theo dõi rất ngặt nghèo để trong khi đọc không có một tiếng ồn ào.
Trong chuyện thần thoại nói đến loài cây khổng lồ. Trong những thân cây có những người tí hon sống. Họ đục trong thân cây những thành phố có công xưởng, trường học, cơ quan, đặt đường xe điện và xe điện ngầm. Với những người tí hon này xảy ra đủ mọi chuyện ly kỳ.
Sau buổi đọc, diễn ra cuộc thảo luận. Thoạt tiên mọi người chuyện trò còn loạc choạc nhưng sau đó sôi nổi hẳn lên. Người ta khen câu chuyện, nhưng cũng có người cho rằng nó chưa được thật, rằng thậm chí chuyện thần thoại cũng phải rút ra từ thực tế, từ những trường hợp có thực, lý thú của cuộc sống.
Nhà văn im lặng, nhưng chắc là ông không đồng ý. Có thể vì trong câu chuyện nhắc đến loại cây khổng lồ, nhà văn quay về phía Dubov và hỏi:
- Nào, anh nghĩ thế nào? Anh là một chuyên gia sành sỏi, người của rừng xanh mà?
- Tôi biết nói thế nào? - Dubov trả lời. - Tôi thích câu chuyện. Nhưng vấn đề là ở chỗ trên trái đất có những loài cây thần kỳ hơn cả loại đồng chí đã mô tả cơ.
- Thế chứ, vậy anh kể ra đi – một nhà thơ trẻ xoa tay nói. - Chắc là anh không thích câu chuyện thần thoại.
- Tôi cũng không biết nữa, - Dubov ngập ngừng hói. - Vấn đề là ở chỗ theo tôi chuyện thần thoại phải hoang đường hơn.
- Nhưng anh muốn nói đến loài cây nào cơ chứ? - Nhà văn thần thoại gạn hỏi.
- Đấy, đồng chí nói là những cây của đồng chí cao đến nổi mây vướng vào đó. - Dubov nói, vì sao đó bực bội. - Vấn đề ở đây không phải là chiều cao của cây, mà ở chiều cao của mây. Có những đám mây thấp đến nỗi chúng chạm cả vào ngọn những cây thông. Còn loại cây tôi nói với đồng chí là cây cù tùng ma mút. Một loại thông khổng lồ. Nó có thể mọc cao tới một trăm năm mươi mét! Chiều rộng của nó mới thật khủng khiếp, tới mười lăm mét! Loài cây sống lâu nhất trên trái đất. Từ thời Homer chúng đã lớn rồi, còn đến thời Colombus thì trở thành những cây khổng lồ.
- Nào nào, anh kể tiếp đi, kể đi! - Nhà thơ lại nói, nhưng lúc này không có vẻ đắc ý nữa.
- Thế đó, vấn đề là ở chỗ loại cây tuyệt vời này mọc tốt ở Liên Xô chúng ta. Trong vườn bách thảo Nikitsky ở Crimea có mấy cây cù tùng còn trẻ. Trẻ, nhưng thực sự khổng lồ. Cao hơn những cây thông cao nhất tới hai lần.
- Vậy sao anh không gây những khu rừng cù tùng? - Bố Nastya nghiêm nghị hỏi.
- Vấn đề là ở chỗ đó, - Dubov trả lời, - Cù tùng là loại cây thoái hóa. Nó chết dần. Đó là tàn dư của quá khứ. Ở Mỹ, cù tùng không còn khả năng sinh sản nữa. Những cây có ở đó là những cây cuối cùng. Không có những cây mới nữa.
- Thật đáng tiếc cho chúng ta, cho cả nước Nga! - Một nhà thơ châm biến nổi tiếng nói.
- Anh không nghĩ được câu gì sắc sảo hơn à? - Một nhà thơ trữ tình hỏi lại ông ta với vẻ lễ phép lạnh như băng.
– Các anh khẽ chứ nào! – Ông bố Nastya kêu lên với họ. – Đừng ngắt lời nữa!
- Vâng... Câu chuyện là thế này. Vấn đề là... - Dubov nói và bối rối. Anh nhận ra là mình đã nhắc lại tới ba hay bốn lần cái câu "Vấn đề là ở chỗ" bất lực đó. - Vấn đề là ở chỗ tôi đã nghiên cứu mấy năm để chiết giống được loại cây cù tàng. Và giờ đây tôi được nghỉ ngơi giữa các đồng chí hoàn toàn chính đáng, vì tôi đã hoàn thành kết quả công trình này. Ở ngoại ô Moskva đã gây được những vạt rừng cù tùng đầu tiên. Quả thực chúng chưa lớn lắm. Nhưng sau...
– Sau bảy nghìn năm, - nhà văn châm biếm nhắc.
- Này thôi, anh đừng châm chọc vớ vẩn nữa! - Nhà thơ trữ tình lại bực dọc nói với ông ta, nhưng nhà văn châm biếm không phật ý.
- Không, không phải qua bẩy nghìn năm sau, mà sớm hơn nhiều, ở nước ta sẽ mọc lên những khu rừng cù tùng có vẻ đẹp và sức mạnh như trong thần thoại. Không nên quên rằng chúng tôi còn nghiên cứu làm tăng tốc độ lớn của chúng.
Mọi người đều yên lặng dường như ngẫm nghĩ về câu chuyện của Dubov.
- Đấy mới là một câu chuyện thần thoại thực sự! - Nastya đột nhiên nói. Cô ngồi trong góc phòng sau chiếc đàn dương cầm, trước tiếng reo đó không ai nhận ra cô.
Lúc đó, tác giả của câu chuyện thần thoại mới làm một việc dũng cảm và theo Nastya là đúng đắn. Ông đứng dậy và trước mắt mọi người xé vụn bản thảo của mình, ném vào lò sưởi đang rực cháy. Sau đó, ông lại gần Dubov, bắt tay anh... và điềm nhiên đi ra khỏi phòng khách, tuồng như không có chuyện gì xảy ra. Và không hiểu sao, mọi người đều nghĩ rằng giờ đây có lẽ ông sẽ viết một câu chuyện thần thoại thực sự lý thú, chói sáng như những ngôi sao giữa đêm đông.
Dubov bối rối. Anh thương tác giả của câu chuyện và ngượng vì do anh mà sức lao động của nhà văn bị phí hoài.
Buổi chiều, Dubov đến gần Vertushinka, Nastya đuổi kịp anh ở giữa đường. Tuyết bắt đầu rơi, những hạt lớn, nghiêng nghiêng và hoàn toàn im lặng, dường như trong khi bay nó đang nhớ tới điều gì đó.
- Anh có yêu mưa tuyết như thế này không, Andrey Ivanovich? - Nastya hỏi.
- Có, - Dubov trả lời. - Nhưng tôi yêu hơn cả là tuổi trẻ. Như tuổi trẻ của em vậy.
- Còn em yêu Lermontov hơn cả, - Nastya bất ngờ nói. Nghĩ rằng có lẽ mình đã nói không đúng điều cần nói trong những lúc như thế này. Cô bối rối đến nỗi nước mắt trào ra khóe mắt.
Qua những giọt nước mắt đó, cô cảm thấy tuyết quả là chuyện thần tiên. Thậm chí cô cảm thấy mỗi tinh thể tuyết bông xốp trong khi bay đã đua nhau nở thành những bông hoa nhỏ hoàn toàn trắng, tan ra trong hơi thở của cô và giống như những bông hồng.
(Nguyên tác:Секвойя, 1953)
Ghi chú
[1]Từ chữ вертеть (vertet), trong tiếng Nga có nghĩa là quay.