← Quay lại trang sách

Là lạ một Sơn Tùng

Tới dự buổi lễ trao tặng danh hiệu Anh hùng Lao động ngày 22 tháng 7 năm 2011 cho nhà văn Sơn Tùng, tại trụ sở Hội Nhà văn Việt Nam – số 9 Nguyễn Đình Chiểu, có Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết, Nhà thơ Hữu Thỉnh, Chủ tịch Liên hiệp các hội Văn học Nghệ thuật Việt Nam, Chủ tịch Hội Nhà văn Việt Nam, cùng đông đảo các nhà văn nhà thơ, bạn bè thân hữu, đại diện quê hương của nhà văn từ trong Nghệ An. Lên trao bằng công nhận danh hiệu Anh hùng Lao động cho nhà văn Sơn Tùng, Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết đã phát biểu bày tỏ tình cảm chân thành của mình đối với người đồng đội, người bạn, người anh Sơn Tùng. Chủ tịch nước cũng đánh giá cao những đóng góp cho văn chương và nỗ lực phi thường của nhà văn Sơn Tùng. Nhà văn Sơn Tùng quan niệm: “Đạo là gốc của văn. Văn nhân đích thị dấn thân hành đạo.” Chính vì vậy mà ông đã trở thành một tấm gương sáng về nhân cách và phẩm giá của một con người và của một nhà văn.

Có lẽ Sơn Tùng là chất liệu để làm nên sự dày dặn của những sách, phim ảnh bắt mắt, tất nhiên phải những tay viết có tài, tựa như quý vật phải gặp được quý nhân vậy! Một Sơn Tùng thương tật hạng một trên bốn (theo tiêu chuẩn nhà nước là phải có người nuôi) chỉ còn ba ngón tay với bao nghị lực gắng gỏi để vượt thoát tình trạng phế nhân và quên lãng, thành nhà văn có danh với hơn 10 đầu sách (Búp sen xanh hơn hai mươi lần tái bản với sáu mươi vạn bản). Cô y tá Phan Hồng Mai xinh xắn từng minh chứng tình yêu là có thật đã neo chặt cuộc đời của mình với anh thương binh Bùi Sơn Tùng từng lê lết bê bết giường cứt chiếu đái dằng dặc hàng chục năm giời. Đã đành là người xứ Nghệ ngang thẳng nhưng giữa thời buổi những nhố nhăng chụp giật, mà vẫn có một Sơn Tùng tiết tháo kiên quyết từ chối ngay căn nhà mà Thủ tướng Phạm Văn Đồng ngỏ ý tặng. Lý do thế này. Trong một lần tái bản Búp sen xanh, Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã viết lời tựa cho cuốn sách. Nhà văn Sơn Tùng bộc bạch rằng không muốn đeo mo cái tiếng vì viết sách về Bác Hồ mà lần đến cửa Thủ tướng xin nhà. Theo chân Bác thì được chứ chả nên ăn theo Bác!

Trận bom quái ác sáng ngày 15-4-1971 ở căn cứ R miền Đông Nam bộ, anh cán bộ văn phòng Sáu Phong Nguyễn Minh Triết khi phát hiện hầm của nhà báo kiêm bí thư chi bộ Bùi Sơn Tùng bị bom làm sập đã không quản nguy hiểm lao ngay sang bới tìm băng bó vết thương rồi xốc Sơn Tùng đi cấp cứu. Nếu chỉ chậm một chút vì mất máu và không được cứu chữa băng bó kịp thời thì chả có một nhà văn Sơn Tùng bây giờ. Đành một nhẽ cái ơn sinh tử lẫn chuyện cứu mạng người Việt mình trong hoạn nạn chiến tranh không hiếm. Nhưng cái tình đồng đội tình bạn tình anh em bền chắc có lẽ cũng hiếm được như giữa Sơn Tùng và Nguyễn Minh Triết. Ở những cương vị Bí thư TW Đoàn, Bí thư tỉnh ủy Bình Dương, Bí thư TP Hồ Chí Minh và sau này là Chủ tịch nước, ông Sáu Phong Nguyễn Minh Triết vẫn tranh thủ được thời gian lui tới với nhiều đồng đội những năm ở R nhưng nhiều lần hơn cả vẫn là đến thăm nhà văn thương binh Sơn Tùng. Những lần nhà văn bạo bệnh vì vết thương tái phát phải cấp cứu, Chủ tịch đều có mặt. Có lần, ở bệnh viện cấp cứu nhà văn Sơn Tùng, trong khoảng thời gian chuyện trò hiếm hoi, ông bộc bạch rằng với anh Sơn Tùng chúng tôi soi vào đấy nhiều lắm để giữ mình lẫn không thẹn với những người như anh Sơn Tùng... Có lẽ một trong những việc bấn bíu thời gian cuối nhiệm kỳ Chủ tịch nước, mới đây ngày 17-7- 2011, Chủ tịch nước đã đến căn hộ xập xệ ở ngõ Văn Chương, thăm Sơn Tùng, mừng nhà văn phục hồi tàm tạm sau cơn tai biến, thứ nữa cũng là đến mừng ông anh của tôi (từ dùng của Chủ tịch nước) vừa được nhà nước phong tặng danh hiệu Anh hùng Lao động!

Vv... và vv...

Là lạ có lẽ là cách nói khác đi về những bí ẩn. Mà giải mã những bí ẩn của Sơn Tùng, hình như chưa tận bờ sát góc và rốt ráo gì nhiều? Tỷ như việc viết tiểu sử danh nhân, xứ mình không hiếm không thiếu người viết lẫn tác phẩm. Nhưng dường như Sơn Tùng có cách riêng hơi bị lạ để giải mã để dân mình thân gần hơn một lãnh tụ một chính khách Hồ Chí Minh. Sơn Tùng không lẫn vào đám đông để hô thật to thật vang những khẩu hiệu. Tuân thủ ngặt nghèo cách riêng và lạ ấy, một Sơn Tùng lê lết thương tật những năm bao cấp khốn khó đã cùng bà vợ gom góp những đồng bạc dành dụm bạc mặt lui tới ở nhiều tỉnh phía Nam, lâu nhất vẫn là Nghệ An, rồi xa hơn là Phan Thiết, Đồng Tháp. Những chuyến đi ấy ông đã gặp gỡ hàng trăm người, ghi chép cẩn thận trong hàng chục cuốn sổ lọc ra đâu là nhân chứng đích thực đâu là hóng hớt và mang máng tỉnh táo chọn lựa chi tiết. Những chi tiết nhân văn lôi cuốn bắt mắt để bầu nên giá trị những cuốn sách viết về Bác Hồ như Búp sen xanh, Bông sen vàng, Hoa râm bụt... Xa hơn, điều chi mách bảo mà từ năm 1950, trong một chuyến đi công tác, anh cán bộ Đoàn Nghệ An Bùi Sơn Tùng đã rẽ qua Nam Đàn thăm người chị của Bác Hồ, bà Nguyễn Thị Thanh mà nhà văn gọi là o, cùng người anh cả của Bác là cụ Nguyễn Sinh Khiêm. (Mãi sau này qua nhà văn hóa giáo sư Phan Ngọc, chứ không phải nhà văn Sơn Tùng kể, tôi mới được biết, bà nội nhà văn Sơn Tùng là cháu họ bà nội Bác Hồ. Em trai ông nội nhà văn đỗ tú tài cùng khoa với em trai cụ Hoàng Xuân Đường ông ngoại Bác.)

Người anh cả của Chủ tịch Hồ Chí Minh đương ốm nặng nhưng vẫn tỉnh táo để bắt chuyện với người cháu là Bùi Sơn Tùng mà cụ rất quý... Không biết cụ đã ký thác với Sơn Tùng những gì mà lần gặp đó là lần cuối. Chuyến đi công tác miền Tây Nghệ An ấy lúc trở về, Sơn Tùng không còn gặp được Bác Cả Nguyễn Sinh Khiêm. Cụ từ trần ngày 25 tháng Tám (âm lịch) Canh Dần, tức là ngày 6-10-1950. Đến ngày 9-11-1950, Bác Hồ mới biết tin anh Cả qua đời, Bác chuyển lời đau buồn thống thiết về họ Nguyễn Sinh: Than ôi tôi chịu tội bất đệ trước linh hồn anh và xin bà con nguyên lượng cho một người con đã hy sinh tình nhà vì phải lo việc nước...

Việc nước? Tôi lẩn thẩn nghĩ đến thời điểm cụ Cả mất, Bác Hồ đang sắp huề trượng đăng sơn quan trận địa (chống gậy lên non xem trận địa) trong chiến dịch Biên giới nhằm thay đổi cục diện chiến trường?

Nhà văn rủ rỉ với tôi như đã từng nói và sẽ nói với bất cứ người nào khi đến nhà ông muốn tìm hiểu về những công trình ông đã đang và sẽ viết về Bác Hồ những điều mộc mạc như thế này: Tôi đi tìm cái vĩ đại của Bác qua những việc bình thường... Cuộc đời Bác Hồ không phải phân kỳ mà là bện quện của những tráng ca, hùng ca, bi ca... trong một vĩ nhân!

Những chuyện nhà chuyện nước chuyện chung chuyện riêng, những tư liệu này chỉ mỗi Sơn Tùng sở hữu? Cái gánh ấy, kho báu ấy, hình như Sơn Tùng mới chỉ san sẻ phần nào cho bạn đọc mà thôi?

Nói từ những ngày xa ấy, Sơn Tùng có ý thức để sau này viết tiểu sử về Chủ tịch Hồ Chí Minh có lẽ cũng đúng. Nhưng tôi cứ mang máng hình như là cái duyên? Mà duyên ấy không phải chia đều và ai cũng gặp được.

Một cái duyên nữa với Đại tướng Võ Nguyên Giáp.

Có lẽ một dịp thích hợp sẽ dẫn ra chuyện sơ kiến của nhà văn Sơn Tùng với Đại tướng. Mà cũng như là cái duyên? Trên vách Chiếu Văn căn hộ xập xệ của Sơn Tùng có bức ảnh nhà văn Sơn Tùng thân ái trong vòng tay của Đại tướng. Tác giả bức ảnh, người một thời gian chuyên chụp Đại tướng, nghệ sĩ nhiếp ảnh Trần Hồng. Lần ấy Trần Hồng đã kể tôi nghe, Đại tướng đã khóc khi gặp Sơn Tùng...

Chúng tôi bệt trên Chiếu Văn, chất giọng Nghệ trầm ấm, nhà văn kể lại những buổi làm việc của nhà văn với Đại tướng tại nhà riêng phố Hoàng Diệu từ những năm đầu chín mươi của thế kỷ trước.

Buổi làm việc? Nghe tôi hỏi lại, nhà văn cười nhẹ, nhắc lại làm việc chứ không phải lên chơi. Có buổi từ sáng xuyên sang cả chiều. Mà việc gì phải thông tầm vậy? Nhà văn cười, cũng là đề tài về Bác Hồ mà ông dùng cụm từ hơi bị lạ là cái vốn nguyên tủy của mình. Có cái nhà văn rất cần thông tin từ Đại tướng và cũng có thông tin Đại tướng cần... Không người giúp việc, không ghi chép. Giữa Đại tướng và nhà văn chỉ có một chiếc máy ghi âm. Cuối buổi làm việc, ý chừng để kiểm tra lại trí nhớ của nhà văn, bao giờ Đại tướng cũng hỏi lại những con số những sự kiện này khác. Đại tướng hài lòng vì Sơn Tùng ít quên...

Có lần Đại tướng giữ lại ăn cơm. Ông đã thực sự ngạc nhiên khi chứng kiến cái mâm vẹo vọ, đúng hơn là cái mâm bị méo. Võ Đại tướng mà dùng cái mâm này sao? Chừng như đọc được nét băn khoăn lẫn ngạc nhiên của Sơn Tùng, Đại tướng cười nói sang việc khác: bữa nay có Sơn Tùng nên bà Hà ưu tiên cho đĩa thịt bò xào. Để ý suốt buổi, Đại tướng đã có cái cà mèn đựng muối vừng. Như Đại tướng cho biết là bà vợ bao giờ cũng chuẩn bị sẵn. Chợt nhớ bữa cơm chiều năm nào Thủ tướng đãi hàn sĩ xứ Nghệ Sơn Tùng là một đĩa rau dền tía luộc đầy có ngọn. Một đĩa cá kho. Đĩa thịt rim mặn. Và một bát nước rau! Còn phần của Thủ tướng là củ khoai luộc chẻ tư cùng với ít cơm nếp.

Sơn Tùng cũng để ý đến cái toa lét xập xệ, đường nước dẫn nhiều đoạn đã gỉ sét trong tư gia Đại tướng...

Tôi nhớ có lúc ông trầm ngâm, người ta hay nói nhiều đến chữ nhẫn, đến phẩm chất nhẫn của Đại tướng. Nhưng vị nhân tướng này điều bất biến là dĩ công vi thượng chứ không hẳn là nhẫn? Một lần trong thời gian làm việc ở nhà riêng Đại tướng, phu nhân đại tướng có kể lại chuyện này. Bữa họp Hội đồng Bộ trưởng quyết định trao việc mới cho Đại tướng là Chủ tịch Ủy ban dân số và sinh đẻ có kế hoạch. Người giúp việc của Đại tướng ý chừng bức xúc về nói lại với phu nhân Đại tướng. Bà Hà cũng mang tâm trạng ấy ngỏ ngay với Đại tướng. Chỉ có hai vợ chồng với nhau, ông ung dung treo mũ áo rửa mặt rồi bình thản cười chuyện chi mà nghiêm trọng thế? Thế tôi với bà ở đâu ra? Các con mình ở đâu ra? Việc sinh việc dưỡng là việc lớn... Việc chi nhỏ mà lợi cho dân đều phải hết sức làm! Đại loại vậy, ông ấy đã nói thế thì còn nói thế nào nữa?

Lại một cái duyên của Sơn Tùng với Võ Đại tướng qua một chuyện.

Có một sĩ quan bộ đội tên lửa những năm miền Bắc tơi bời bom đạn. Người sĩ quan ấy là Nguyễn Ngọc Tân, trung úy kỹ sư trung đoàn 238 Bộ đội Tên lửa. Nhà văn Sơn Tùng biết Nguyễn Ngọc Tân cũng là tình cờ. Năm đó, phóng viên báo Tiền Phong Sơn Tùng tìm gặp những sinh viên tốt nghiệp xuất sắc ở các trường đại học mà bây giờ quen gọi là đỗ thủ khoa... Năm ấy Nguyễn Ngọc Tân là thủ khoa Hóa của Đại học Bách khoa xung phong vào bộ đội. Nguyễn Ngọc Tân lấy vợ nhưng không có tuần trăng mật vì đơn vị anh phải tức tốc lên đường về phía Nam để mật phục B52. Vợ anh là Thúy Lan, giáo viên trường Nguyễn Văn Trỗi lại sang khu sơ tán của trường tận Nam Ninh, Trung Quốc.

Xong trận mật phục ấy, từ chiến trường, Trung úy Nguyễn Ngọc Tân được lệnh trở lại Hà Nội để làm nhiệm vụ huấn luyện tiếp cho một đơn vị khoảng hơn một tuần. Nhớ người vợ mới cưới nhưng chưa bén hơi quen tiếng, Tân đánh liều điện sang Nam Ninh mong em về dù chỉ gặp nhau một phút... Nhớ vợ mà liều điện vậy chứ trung úy Tân không dám hy vọng. Nhưng ba ngày sau thì có một chiếc xe Vonga đen đỗ xịch trước cổng đơn vị Tân đang làm nhiệm vụ huấn luyện. Thì ra khi nhận được điện, cô giáo Thúy Lan bối rối lên gặp Ban giám hiệu. Cô không biết về Hà Nội bằng cách nào để kịp gặp được chồng? Một ông cán bộ tốt bụng mách cho cô giáo Lan cái tin mật là Đại tướng Võ Nguyên Giáp đi công tác đặc biệt sang Trung Quốc ghé Nam Ninh, sắp đến thăm trường và cũng sắp về nước bằng chuyên cơ.

Cô giáo mảnh mai Thúy Lan ấy đã đánh liều gặp... Đại tướng! Thúy Lan nói cháu có chồng mới cưới là kỹ sư của Bộ đội Tên lửa. Hòm thư là... Chồng cháu ra Hà Nội công tác đánh điện cho cháu... Không đợi cô giáo Thúy Lan nói hết, Đại tướng xúc động: “Cháu đi lấy hành lý rồi cùng về với chú...”

Gặp lại Sơn Tùng tại Hà Nội, niềm hạnh phúc vẫn tươi rói trên khuôn mặt dạn dày sương gió của chàng sĩ quan Bộ đội Tên lửa ấy. Anh Sơn Tùng ơi, nhờ Đại tướng mà bọn em đã có một tuần trăng mật tuyệt vời. Chỉ có vị Tổng Tư lệnh của bộ đội Cụ Hồ mới có tâm hồn và tình thương đó!

Chàng sĩ quan Bộ đội Tên lửa người Hà thành ấy đã hy sinh trong một trận đánh B52 ở Vĩnh Linh mùa hè năm 1968.

... Nghe Sơn Tùng kể lại chuyện trên, Đại tướng ngồi lặng. Hồi lâu ông nói rằng không biết được người sĩ quan bộ đội tên lửa ấy đã hy sinh!

Cầu cho nhà văn Sơn Tùng sau lần bạo bệnh mau bình phục. Bởi chẳng thể để dở dang một tiểu sử về Đại tướng Võ Nguyên Giáp phải không nhà văn yêu quý? Mong nối tiếp một duyên lành của đời viết!

Xuân Ba

Nhà văn Sơn Tùng

• Tên khai sinh: Bùi Sơn Tùng

• Ngày sinh: Sinh ngày 8 tháng 8 năm 1928

• Quê quán: Làng Hoa Lũy, xã Diễn Kim, huyện Diễn Châu, tỉnh Nghệ An

• Đời hoạt động: Năm 1944 tham gia Việt Minh tại quê nhà – Diễn Châu – Yên Thành – Quỳnh Lưu. Sau 1945 công tác Đoàn Thanh niên, viết báo phục vụ kháng chiến chống Pháp. 1955 là đại biểu thanh niên sinh viên Việt Nam dự Đại hội liên hoan thanh niên, sinh viên thế giới lần thứ V tại Vácsava, Ba Lan. Công tác giáo vụ Đại học Nhân Dân. 1960 làm báo Nông Nghiệp, Tiền Phong. 1965 là phóng viên chiến tranh vùng Thanh – Nghệ Tĩnh – Quảng Bình – Vĩnh Linh và vượt Trường Sơn vào Nam bộ... 1971 bị thương nặng tại miền Đông Nam bộ, thương binh hạng 1/4, năm 1972. Từ bấy đến nay tự khổ luyện để tàn mà không phế và viết.

• Các tác phẩm chính: Chim én mùa xuân (diễn ca, 1962); Mười hai cô gái nông trường (truyện thơ, 1963); Bà mẹ làng Kim (truyện thơ, 1964); Xuân Lỗ Khê (ký, 1964); Đề tài Bác Hồ: Nhớ nguồn (tập truyện, 1974); Kỷ niệm tháng năm (truyện, 1976); Búp sen xanh (tiểu thuyết, 1982); Bông sen vàng (tiểu thuyết, 1990); Trái tim – quả đất (tiểu thuyết, 1990); Mẹ về (tập truyện, 1990); Hẹn gặp lại Sài Gòn (kịch bản phim, 1990); Từ làng Sen (truyện tranh, 1990); Hoa râm bụt (tập truyện, 1999); Bác về (truyện ký, 1990); Sáng ánh tâm đăng Hồ Chí Minh (2004); Bác ở nơi đây (ký, 2005); Nguyễn Ái Quốc trong ký ức bà mẹ Nga (tập truyện, 2007); Chung một tình thương Bác (tập truyện ngắn, 2008). Đề tài chiến tranh: Bên khung cửa sổ (tập truyện và ký, 1974); Lõm (tiểu thuyết, 1994); Vườn nắng (truyện vừa, 1997). Đề tài nhân vật lịch sử: Con người và con đường (truyện, 1976); Trần Phú (truyện, 1979); Nguyễn Hữu Tiến, người vẽ cờ Tổ quốc (truyện, 1981); Anh họa sĩ mù (truyện, 1981).

• Các giải thưởng: Giải thưởng đặc biệt cho tác phẩm Búp sen xanh.