← Quay lại trang sách

Mỏng manh chiếc lá bồ đề

Hàng ngày tôi vẫn quen đi bộ thể dục buổi sáng trong khuôn viên của ngôi chùa cổ ngoại ô. Có một sáng cuối xuân trời còn se lạnh, ngôi chùa nằm tĩnh lặng trong sương khói, khẽ khàng những chiếc lá rơi. Lá của cây bồ đề. Tôi chợt se lòng nhớ một câu thơ ngời trong trí nhớ:

Em xa dần như chuông chùa phía trước

Cúi nhặt lá bồ đề anh thả xuống dương gian

Đó là câu thơ của nhà thơ xứ Nghệ, người anh kính mến của tôi: nhà thơ Võ Thanh An. Tôi được hạnh ngộ nhà thơ Võ Thanh An vào những năm 90 của thế kỷ trước, khi ông làm biên tập thơ của tuần báo Văn Nghệ – Hội Nhà văn Việt Nam. Ngày ấy, tôi mới tập làm thơ và được nhà thơ Định Hải đưa đến thăm ông để giới thiệu. Chúng tôi thả bộ từ khu Giảng Võ sang nhà ông ở Đê La Thành vào một tối mùa hè đầy gió. Bác Định Hải tâm sự: “Ông An này hay lắm, trực tính, sống với bạn bè thật lòng, làm biên tập có tâm.”

Hồi ấy, những người viết ở tỉnh lẻ như tôi ra Hà Nội được đến 17 Trần Quốc Toản còn rụt rè, huống chi lại diện kiến một người làm biên tập của báo thì quả là vinh dự lắm. Sắp gặp Võ Thanh An, tôi mừng và hồi hộp, vì nghe nói ông là người kỹ tính trong biên tập. Cái gì có thể xuê xoa nhưng với thơ thì không thể đùa. Nhà ông gần ngôi đình nhỏ. Căn phòng khách hơn mười mét vuông kê bộ tràng kỷ cũ, xung quanh xếp đầy sách, báo, chiếc quạt tai voi loạch xoạch phả gió. Cầm bản thảo của tôi, ông đọc chăm chú, trán nhíu lại, lấm tấm mồ hôi. Ông nói vang vang chẳng câu nệ, như nói với người thân quen: “Biết làm thơ, nhưng câu chữ còn thừa. Bài thơ phải có ý, cảm xúc thật, câu thơ phải nổi hình tượng. Chưa dùng được.”

Tôi hơi buồn. Lần gặp ấy đã gây một ấn tượng mạnh trong tôi về người biên tập thơ của một tuần báo uy tín. Sau này anh em đã thân quen, tôi còn nhiều lần được ông “quát” thẳng vào mặt về một chữ dùng ẩu. Tôi cũng biết nhiều người được ông góp ý thẳng thắn như vậy. Nhà thơ Phùng Ngọc Hùng kể: “Nghe ông An về quê công tác, làm việc với ủy ban, tôi ngập ngừng, mãi mới dám đến gặp, đưa thơ nhờ đọc. Cũng hoảng lắm khi ông nói oang oang về điểm yếu của bài thơ trước mấy ông quan tỉnh, ngượng chín cả mặt. Nhưng cũng từ đó, tôi bắt đầu có ý thức hơn khi cầm bút, để rồi trở thành một nhà thơ sau này.”

Võ Thanh An là người quyết liệt, yêu ghét đúng sai rõ ràng. Chính vì vậy mà có nhiều bạn bè thực sự hết lòng yêu quý, nhưng cũng làm không ít người mếch lòng bởi sự bộc trực của ông. Có lần trong quán bia ở Trần Quốc Toản chúng tôi ngồi nói chuyện văn thơ rôm rả. Có ông bạn ở miền trong nghe Võ Thanh An chê vài câu chữ của thơ mình mà tự ái, đỏ mặt bỏ đi. Sau này cũng không thấy ông bạn kia làm thơ nữa.

Hồi đó tôi hay lân la ngồi ở phòng mấy ông biên tập của báo Văn Nghệ, nghe các vị ấy góp ý cho các bạn viết mà học “lỏm” được nhiều điều. Trong căn phòng nhỏ hẹp của ban thơ, bản thảo gửi về dày cộm, các biên tập viên xoay mình đọc, vất vả mất công như đi cày vậy! Võ Thanh An đọc kỹ, soi từng câu, từng chữ, coi trọng câu từ, hình tượng. Nguyễn Quang Thiều thì thích cách viết mới về cảm xúc, phát hiện, cách tân, suy nghĩ lạ.

Hồi đó các nhà văn, nhà thơ ở báo Văn Nghệ là bà đỡ của nhiều cây bút. Ở ban thơ, ông An, ông Thiều đã giới thiệu nhiều cây bút mới, thành danh sau này như: Hoàng Trần Cương, Trần Anh Thái, Nghiêm Huyền Vũ, Mai Văn Phấn, Mạnh Lê...

Nhà thơ Võ Thanh An có tên khai sinh là Trần Quang Vinh, sinh năm 1942 ở Võ Liệt, Thanh Chương, Nghệ An, ông lấy tên quê ghép lại một bút danh. Đấy là vùng đất nghèo nhưng có truyền thống hiếu học và anh hùng. Tôi đã sống ở đấy những ngày là sinh viên trường Vinh đi đắp đê chống lũ sông Lam. Làng quê dọc sông nghèo, mái tranh thấp, cây tre, cây mít, cây chè đầy vườn. Cơm ăn có nhút và cà. Cứ đọc thơ ông An là thấy:

Ngôi nhà mẹ con ta chơ vơ bên bến nước

Ngôi nhà ấy nhìn sang hòn rú Nguộc

Vẫn đứng mong lấp ló sau hàng tre.

Tôi yêu mến con người xứ Nghệ biết tự vượt làm chủ cuộc đời mình. Rú Hồng đó, sông Lam đây, câu hò ví dặm níu đọng lòng người đã nuôi dưỡng bao danh tài. Lứa bạn bè thuở ông như Hồ Phi Phục, Nguyễn Trọng Tạo, Thạch Quỳ, Vương Trọng... cùng lớn lên từ nguồn mạch đó. Những năm 1970, Võ Thanh An công tác ở ban Tuyên truyền thi đua ở Bộ Điện – Than, lăn lộn cùng công nhân. Năm 1971, học lớp bồi dưỡng viết văn trẻ. Năm 1977, ông về làm biên tập thơ rồi trưởng ban thơ của báo Văn Nghệ cho đến ngày về hưu.

Trong dòng chảy thơ Võ Thanh An, ta dễ nhận thấy hai thời kỳ rõ rệt. Thời kỳ đầu như các nhà thơ, ông ca ngợi đất nước, quê hương, người chiến sĩ, người lao động. Những năm cuối thập kỷ 80 thế kỷ trước, đất nước có những đòi hỏi đổi mới về kinh tế, xã hội, thơ Võ Thanh An khởi sắc diện mạo mới. Đây là giai đoạn chính của thơ ông. Từ thơ tự sự ông đến với thơ thế sự, nhập thế vào đạo làm người. Ông đằm thắm hơn trong suy nghĩ và cảm xúc. Khởi đầu là Thằng Bờm và Gửi sao Thần Nông được bạn đọc đón nhận. Thơ được truyền tay trong nhân dân, trình đọc ở Hội trường, báo hiệu một bứt phá mới về đề tài thơ. Thơ viết về thân phận con người. Ông lắng nghe nhân dân:

Bờm rằng Bờm đã ngán rồi

Những câu ngon ngọt loại người phú ông

Nói như trao núi cho sông

Mà mảnh mo quạt thì ông cứ giành.

Nhân dân hỏi ông:

Mặt bán đất, lưng bán trời

Hai sương một nắng là đời nhà nông

Sang hèn hạt gạo ăn cùng

Người trồng lúa chịu đói lòng được sao?

Những câu thơ còn mang tính thời sự đến bây giờ. Đến Lá bồ đề thơ ông trữ tình trong thế sự. Ngay thơ tình của ông cũng thế sự, nhân bản. Ông đã đến với thơ Thiền, đến với bản ngã của tâm hồn người. Mấy chục năm rồi, ông hướng về đạo Phật, tìm trong kinh sách những điều răn dạy về sống chết, tồn vong của cõi người. Ngày rằm, mồng một, ông ăn chay, đi chùa, bạn với sư tăng để lắng đọng tâm hồn. Thơ ông đã nói được những điều con người cần lý giải trong cõi tham, sân, si đó. Ông chiêm nghiệm:

Ngửa bàn tay lên

Lật bàn tay lại

Mặt trắng, mặt đen hai phía cũng tay mình.

Ông thấm thía:

Dạ thưa thầy, con tin sự nhịn là cứu cánh

Bao giờ cuộc đời lành hơn.

Ông răn mình:

Sự đời lắm rối bời

Kiếp người thì ngắn quá!

Cái thiện và cái ác, cái đẹp và cái xấu đều có trong mỗi chúng ta. Ta phải làm chủ thể cho thiện thắng ác, đẹp lấn xấu. Đó là sự phấn đấu của mỗi cá nhân. Sự sống là tốt lành. Lòng nhân hậu là cội nguồn. Thiên nhiên tồn tại, vận động luân hồi theo lẽ tự nhiên, ông thanh thản chấp nhận nó:

Như đất trời chẳng nói gì

Bốn mùa cây lá đến thì phải hoa

Câu thơ đẹp như thơ thiền. Sinh và tử, được và mất, ham hố đua tranh làm gì cho mệt kiếp người.

Ông là người sống hiếu nghĩa. Ông coi trọng chữ tín với bạn bè. Nhà thơ Đoàn Xuân Hòa kể chuyện ông hơn bốn mươi năm tìm lại người bạn sẻ chia tấm áo ấm cho ông thời đi học. Rồi ông tìm được mời bạn ra Hà Nội chơi, hai bạn già ôm nhau khóc. Ân nghĩa trả đền như chuyện cổ dân gian vậy. Do đó, ông có nhiều thơ viết về mẹ, về bạn đằm thắm, ơn nghĩa. Thơ viết về mẹ ở ta có nhiều, nhưng tôi quý trọng hai bài thơ vào loại hay, đó là Bờ sông vẫn gió của nhà thơ Trúc Thông và Vắng mẹ sợ chính nhà mình của ông An. Bài thơ ứa ra từ trái tim đau đáu nỗi đau khi mẹ không còn nữa.

... Đã bao đêm con nằm trằn trọc

Muốn về quê nhưng sợ gặp nhà mình

Không phải sợ gặp nhà mình đâu! Mà sợ gặp kỷ niệm về mẹ, về cội gốc đời mình. Bài thơ đọc rớt nước mắt nhưng trong trẻo cõi tâm cho người ta lớn dậy.

Thơ Võ Thanh An chặt chẽ câu tứ, đẹp câu chữ, chọn lọc hình tượng. Mỗi bài thơ, câu thơ, chữ thơ của ông đều găm vào trí nhớ bạn đọc. Chữ ông dùng đắt lắm, nó chính là hồn cốt thơ ông. Ông nhìn chóp đầu hương cháy trong đền thờ Mị Châu:

Như máu yêu kêu oan

Đầu mũi tên nức nở.

Ông ở giữa không gian để soi vào lòng mình:

Bốn bề thin thít lặng thinh

Buồn vui thế thái nhân tình đều suông.

Chữ “thin thít” sống động có hồn. Ông đón gió trước cửa thiền để trong lắng tâm mình và chỉ ông có hình tượng hoa đẹp, ấm cúng này:

Gió

tàn rồi

chùm hoa xòe hình bếp lửa

Khi ông viết:

Xanh đó và vàng đó

Đất se mặt lặng im.

Một từ “se mặt” ông đã thổi hồn vào mặt đất vô tri thành Mẹ đất bao dung, nhân hậu. Câu thơ lưu mãi ở người đọc.

Bây giờ nhà thơ Võ Thanh An đã ở tuổi bảy mươi, ông dành hết thời gian đọc kinh sách nhà Phật. Ông là người ít xê dịch, không đi xe máy, không dùng điện thoại di động. Đi đâu ông cũng đi xe ôm. Vì vậy mới có chuyện người xe ôm trở thành bạn thân của ông trong bao năm qua. Buổi sáng nào ông cũng thắp nén hương trên bàn thờ tổ tiên để tĩnh tâm răn mình không làm điều ác, tích việc thiện. Con cháu thành đạt, khỏe mạnh là niềm yên lành của ông giữa gia đình, bè bạn, xóm phố. Có một điều ấm lòng bạn bè vẫn thăm chơi, tặng sách, nhờ ông góp ý cho bài thơ mới. Tôi nhớ hàng năm trước cữ Tết âm lịch, nhà ông có giỗ, bạn bè quây tụ ấm cúng. Họ đọc thơ, nhắc về quê hương, bàn cả chuyện thời cuộc. Giờ ông chỉ ngồi nghe nhiều hơn. Nhân quả là vậy, ở hiền gặp lành, phải không ông anh của tôi!

Sau rằm tháng giêng năm Nhâm Thìn, tôi đến thăm ông. Ông đốt một lát trầm thơm, châm một ly trà nóng. Gặp tôi ông vui lắm và lại nói to oang oang như hồi còn trẻ vậy. Ông ít bình luận về sự đổi mới của thơ, các trào lưu của văn chương. Ông chỉ dặn tôi: “Thơ là tâm, không đùa cợt với tâm được.”

Nguyễn Ngọc Quế

Nhà thơ Võ Thanh An

• Tên khai sinh: Trần Quang Vinh

• Sinh năm 1942

• Quê quán: Xã Võ Liệt, huyện Thanh Chương, Nghệ An

• Từng công tác tại Bộ Điện Than, Tuần báo Văn Nghệ

• Tác phẩm đã xuất bản: Hoa trăm miền (thơ in chung), Thỏ bay vào hội (thơ thiếu nhi, viết chung với Phạm Tiến Duật, 1978), Thác điện (thơ, 1982), Những con chim báo mùa (thơ, 1990), Hành trình lên cạn lên cao (truyện thiếu nhi, 1996), Lá bồ đề (thơ, 1999).