← Quay lại trang sách

BỐN

Buổi sáng chúng tôi được thông báo bà già mù đã cùng con chó trắng lên núi hái thuốc rồi. Thế là bọn trẻ trong xóm chúng tôi tập hợp nhau lại và quyết định đột nhập ngôi miếu hoang để khám phá xem bà già mù ăn loại côn trùng gì. Với bọn trẻ đây là một dịp may. Nhưng phải gần một tiếng đồng hồ chúng tôi mới tụ tập đông đủ. Chúng tôi tức tốc lên đường. Hôm nay là một ngày nhiều gió. Suốt ngày hôm qua chúng tôi không đi đâu ra khỏi sân nhà Phàn Phệch vì bận sửa chữa những con diều cũ và làm thêm một số diều mới. Năm nay chúng tôi có dự định tổ chức thi diều với bọn trẻ xóm trong. Trong khi làm diều thì câu chuyện chính của chúng tôi vẫn là kho báu trong núi và bà già mù. Bởi thế khi có được cơ hội đột nhập ngôi miếu là chúng tôi hành động ngay. Thật dễ dàng khi cửa ngôi miếu chỉ là một tấm cót. Chúng tôi chỉ cần đẩy nhẹ là có thể lách vào bên trong. Khi chúng tôi đẩy tấm cót thì nắng ùa vào ngôi miếu. Đây là lần đầu tiên chúng tôi bước vào bên trong ngôi miếu này. Tất cả đồ đạc trong ngôi miếu được xếp đặt gọn ghẽ. Gọi là miếu nhưng cũng chẳng khác gì một ngôi nhà nếu không kể đến một bệ thờ nhỏ có đắp nổi một đôi rồng. Trong miếu có kê một chiếc chõng tre đã cũ. Một góc nhà dùng làm bếp. Ngôi miếu vẫn toát ra một cảm giác kỳ bí.

Chúng tôi im lặng quan sát ngôi miếu và bàng hoàng nhận ra có không biết bao nhiêu mà kể những con giống bằng đất sét nung. Nào là chó, lợn, gà, chim, cá, trâu, bò... ôi, đây quả là một kho báu. Chúng tôi không biết làm sao mà bà già mù lại có nhiều con giống bằng đất sét nung đến vậy. Tất cả bọn trẻ chúng tôi rón rén đến bên những con giống. Chúng tôi ngồi xuống và ngắm nhìn chúng. Những con giống thật sống động. Tôi có cảm tưởng như nghe thấy tiếng chó sủa, tiếng gà gáy, tiếng cá quẫy...

- Tại sao bà ấy lại có nhiều thế nhỉ? Một đứa thì thào.

- Hay bà ấy lấy trong kho báu. Một đứa khác nói.

- Kho báu đựng vàng chứ ai lại để con giống đất nung. - Phàn Phệch nói có vẻ hiểu biết.

- Thế thì bà ấy lấy ở đâu?

- Hay là bà ấy nặn.

- Bà ấy mù thì làm sao mà nặn được.

- Sao lại không.

- Nhưng không đẹp như thế này. Cả lớp mình làm thủ công cũng chẳng có con nào đẹp như thế.

Chúng tôi cứ thế tranh cãi nhau. Phàn Phệch suỵt gió và nói: "Chúng mày nói to bà ấy nghe thấy thì có mà chạy lên giời". Nghe vậy, cả bọn nhớn nhác nhìn ra cửa miếu.

- Hay là bà ấy dùng phép gọi về.

- Mày dốt lắm. - Phàn Phệch nói. - Đây có phải là lợn gà thật đâu mà gọi được.

Bà ấy chỉ gọi được côn trùng thôi.

- Ôi, phải tìm xem bà ấy giấu côn trùng ở đâu, nhanh lên.

Chúng tôi chợt nhớ ra mục đích của cuộc đột nhập này. Thế là cả bọn nháo nhác nhìn ngó xung quanh. Ngay lập tức, chúng tôi phát hiện ra một dãy chum lọ sành và những cái nồi, niêu đất ở góc miếu. Phàn Phệch nhanh chóng bước lại và mở nắp vung một cái nồi. Cả bọn xúm vào xem. "Sắn luộc". Chúng tôi khẽ kêu lên. Trong chiếc nồi đất là những khúc sắn luộc nở bung trắng ngần. Tôi vội nuốt nước miếng. Đúng hơn đó là cái niêu đất để nấu cơm. Chúng tôi thấy trong niêu còn dính những hạt cơm. Một đứa nói: "Có lẽ bà ấy ăn hết côn trùng rồi". Nhưng ngay sau đó Phàn Phệch mở tiếp vung một cái niêu đất khác. Tất cả cùng kêu lên: "Côn trùng". Phàn Phệch bưng cái niêu ra gần cửa nơi có một luồng ánh sáng chiếu vào. Tất cả lại kêu lên: "Châu chấu". Đúng là những con châu chấu. Phàn Phệch đưa chiếc niêu lên gần mũi khịt khịt và nói: "Châu chấu rang với lá chanh thơm lắm chúng mày ạ, ăn thử mà xem". Phàn Phệch đưa chiếc niêu về phía bọn trẻ. Đứa nào cũng xua tay và nói: "Tớ không ăn". Phàn Phệch nói "Không ăn thì tớ ăn" và lấy tay nhặt một con châu chấu trong niêu và bỏ vào miệng nhai ngon lành.

- Như thế là không phải bà ấy ăn côn trùng à? - Một đứa băn khoăn hỏi.

- Châu chấu là côn trùng chứ là gì? - Tôi nói.

- Nhưng bà ấy có phép gọi châu chấu bay về - Đứa khác chen vào.

Đúng thế đấy, bọn mình chẳng nhìn thấy bà ấy phù phép gọi châu chấu về đêm vừa rồi đấy.

- Có thể đó là cách bắt châu châu của bà ấy thôi - Tôi giải thích.

Thực ra món châu chấu rang lá chanh chẳng có gì xa lạ với bọn trẻ con làng tôi. Hơn ai hết, chúng tôi chính là những chuyên gia bắt châu chấu. Vào những ngày hè có mưa rào, bọn trẻ trong làng thường mang một chiếc vỏ chai chạy ra những thửa ruộng ven chân núi bắt châu chấu. Mưa làm cho cánh châu chấu nặng thêm không bay nhanh và xa được. Bọn trẻ đuổi bắt châu chấu và hò hét trên cánh đồng mưa mù trắng. Với lũ trẻ thôn quê chúng tôi, công việc gì chúng tôi cũng thấy vui như ngày hội. Những con châu chấu cái vào mùa lúa chín béo tròn, vàng óng. Mẹ tôi lấy nước sôi dội vào chai cho châu chấu chết. Sau đó mẹ tôi vặt cánh và chân châu chấu rồi đổ nước muối cà, thái nhỏ lá chanh và rang khô. Châu chấu rang ăn với cơm gạo thì ngon biết chừng nào. Tôi hỏi mẹ tôi sao không rang châu chấu với muối mà lại rang với nước muối cà. Mẹ tôi bảo làm như thế thì thịt châu chấu sẽ rắn lại ăn rất ngon. Trẻ con ở làng tôi những năm tháng ấy ăn tất cả những gì có thể ăn được. Một đứa trẻ lên mười ở làng tôi trong ba tháng nghỉ hè có thể là người kiếm tìm thực phẩm chính cho gia đình. Chúng tôi biết hàng chục loại rau dại mọc trên cánh đồng, ven chân núi, dọc bờ sông. Chúng tôi biết móc cua, tát giòn, đặt lờ rô, kéo te, cào hến ngoài sông bằng giậm, câu cá sông khi mùa nước lên. Hầu như mọi thứ sống dưới nước và mọc trên bờ đều có thể nuôi sống chúng tôi. Và công việc kiếm thức ăn khổ cực lại trở thành niềm vui bất tận của tuổi thơ chúng tôi.

Bọn trẻ con như có vẻ thất vọng về cuộc thám hiểm ngôi miếu. Bởi lũ côn trùng mà bà già mù ăn lại là một trong những món ăn chính của làng tôi những năm đói kém. Nhưng chúng tôi cũng nhanh chóng quên đi những con côn trùng bí ẩn của bà già mù và quay lại với những con giống. Khi chúng tôi đang say sưa nói về những con giống thì có tiếng chó sủa sau lưng. Chúng tôi kinh hãi quay lại. Bà già mù và con chó trắng đã đứng ngay cửa miếu. Chúng tôi đã mải mê với những con giống đất nung mà không biết bà già mù về từ lúc nào. Chúng tôi hoảng hốt nhìn xung quanh tìm đường chạy thoát nhưng chẳng còn đường nào nữa. Nếu chỉ có bà già mù thì chúng tôi sẽ liều sống chết lao ra cửa. Nhưng án ngữ cái lối đi duy nhất lại là con chó trắng. Đây là lần đầu tiên chúng tôi ở cách con chó quá gần. Chính vì thế mà chúng tôi thấy con chó trắng quá to lớn như một con ngựa bạch. Một đứa trong bọn định chạy ra cửa nhưng vội lùi ngay lại vì con chó trắng đã nhe hàm răng nhọn hoắt ra đe dọa. Cả bọn trẻ chúng tôi tụm vào nhau sợ hãi. Bà già mù hướng đôi mắt đục trắng về phía chúng tôi im lặng. Một lúc sau bà hỏi: "Các cháu vào nhà bà làm gì?". Không một đứa nào trong chúng tôi cất tiếng trả lời bà.

- Các cháu sợ bà lắm phải không?

Bà hỏi và mỉm cười. Tôi nhận thấy nụ cười của bà quen thuộc làm sao. Hình như tôi đã gặp nụ cười kia ở đâu rồi.

- Các cháu nghĩ bà là một mụ phù thủy chứ gì? Bà lại hỏi.

Vẫn không đứa trẻ nào lên tiếng:

- Nói đi, các cháu nghĩ bà là phù thủy, có đúng thế không?

- Không... không ạ. - Phàn Phệch lại là người lên tiếng trước tiên.

- Các cháu nối dối. Nhưng bà không giận. Các cháu vào đây để xem có phải bà ăn côn trùng không chứ gì?

Sau câu nói ấy của bà già mù. Tất cả chúng tôi giật mình. Sao bà lại biết được việc làm của chúng tôi. Bà là bà bói mù hay là bà tiên tri như chị tôi nói.

- Bà ăn châu chấu. - Một đứa lên tiếng.

- Bà ăn châu chấu. - Bà già mù mỉm cười, giọng nhẹ nhàng. - Các cháu có đồng ý với bà là châu chấu rang với lá chanh rất thơm và ngon không. Bà biết các cháu bắt châu chấu giỏi hơn bà nhiều.

- Làm thế nào mà bà gọi được châu chấu bay về? Phàn Phệch hỏi.

- Bà có cách, ai cũng làm được. Các cháu còn làm giỏi hơn bà đấy.

- Chúng cháu không gọi được châu chấu bay về và chui vào niêu. - Phàn Phệch bắt đầu hào hứng.

- Nếu các cháu muốn, bà sẽ dạy các cháu. Bây giờ thì các cháu không còn sợ bà nữa chứ. Nào các cháu ngồi xuống đi. Bà muốn nói chuyện với các cháu.

Có lẽ lúc này, chúng tôi cảm thấy phấn khích hơn cả khi đột nhập vào ngôi miếu. Bà già mù từng bước khoan thai về phía chiếc chõng tre và ngồi xuống. Con chó trắng bước theo bà. Nó ngồi xuống bên chân bà và lừ lừ mắt quan sát chúng tôi. Mặc dù con chó trắng thôi gầm gừ, nhưng chúng tôi vẫn ngại ngồi gần nó. Như đọc được ý nghĩ của chúng tôi, bà nói: "Các cháu đừng sợ, con chó này khôn lắm. Nó biết các cháu là khách của bà". Rồi bà chỉ tay vào góc miếu và nói: "Cháu nào bưng hộ bà cái thúng ở góc miếu ra đây". Chúng tôi bưng cái thúng có phủ kín lá chuối khô đặt trước mặt bà. Bà mỉm cười nói: "Bà mời các cháu ăn chuối. Cháu nào muốn ăn bao nhiêu thì ăn. Mở ra đi, các cháu". Chúng tôi rụt rè gỡ lớp lá chuối khô phủ bên trên. Những nải chuối chín vàng hiện ra. Bà lần tay lấy ra một nải chuối đưa về phía chúng tôi và giục chúng tôi ăn. Phàn Phệch đón nải chuối từ tay bà và chia cho chúng tôi. Không biết từ lúc nào, nỗi sợ hãi của chúng tôi về bà đã vơi đi nhiều lắm. Chúng tôi chậm rãi bóc chuối và ăn. Vừa ăn chúng tôi vừa nhìn bà không chớp. Rồi chỉ một loáng sau, chúng tôi đã ăn hết hai nải chuối. Bà im lặng đợi chúng tôi ăn xong mới nói:

- Tại sao các cháu lại sợ bà. Bà cũng như mọi người làng mà thôi. Các cháu cũng biết là bà không có con cháu gì. Nhiều lúc bà rất muốn các cháu đến chơi. Bà không nhìn thấy các cháu, nhưng bà biết các cháu rất ngoan và thông minh.

Quê bà ở đâu? - Một đứa rụt rè hỏi.

- Bà cũng không biết.

Bà già mù nói và ngước đôi mắt trắng đục ra phía cửa. Tôi nhận ra đôi môi khô héo của bà run run. Và cũng lúc này tôi nhận ra bà có mái tóc đẹp làm sao. Những sợi tóc trắng trong ánh sáng chiếu từ cửa vào lấp lánh như những tia ánh sáng nhỏ. Bà nội tôi cũng có một mái tóc như thế. Nhưng những năm tháng nằm ốm liệt giường, tóc bà tôi có rất nhiều chấy. Bố tôi phải cắt mái tóc bà. Bố tôi lấy một vuông vải trắng bọc chặt mái tóc bà tôi mà mang chôn xuống cánh đồng ven chân núi. Buổi chiều tôi theo bố tôi đi chôn tóc bà, tôi hỏi bố tôi vì sao phải làm như vậy. Bố tôi nói: "Cắt tóc của người đang ốm thì phải mang chôn. Phong tục của làng mình là thế, con ạ". Sau này nơi chôn tóc bà tôi cỏ mọc lên bời bời. Tôi đã nhiều lần đi qua đó và đứng lại trước ngôi mộ tóc nhỏ như một cái úp nón. Và có lần tôi đã khóc.

Bà già mù im lặng rất lâu mới nói:

- Mẹ bà cũng là một người mù đã đón bà về nuôi. Bà mồ côi cha mẹ từ thuở lên hai tuổi. Bà chỉ biết đi ăn xin. Một lần bà bị ốm và mù mất đôi mắt. Mẹ nuôi bà gặp bà và đưa bà về đây. Ba không biết quê bà ở đâu và ai sinh ra bà.

- Thế bà sống một mình ở đây, bà không sợ à? - Một đứa hỏi.

- Bà quen rồi. - Bà già mù mỉm cười. - Mà có gì phải sợ đâu các cháu.

- Bà không sợ ma chó à? - Phàn Phệch lên tiếng.

- Có phải con ma chó này không?

Bà nói và vỗ nhẹ tay lên đầu con chó trắng. Con chó rên ư ử và dụi đầu vào bàn tay bà.

- Có phải bà biết đường đến với kho báu trong núi không? - Tôi rụt rè hỏi.

- Chỗ nào cũng chứa kho báu các cháu ạ. Cả quả núi làng ta cũng là một kho báu. Trên đó có bao muông thú, cây cối và rất nhiều thuốc quý để chữa bệnh. - Bà già mù nói. - Nhưng các cháu nói đúng. Trong lòng quả núi làng mình có một kho báu.

- Sao bà biết? Ai mách bà?

Cho đến lúc này, câu chuyện về kho báu đã làm chúng tôi quên đi tất cả nỗi sợ hãi và e dè về bà già mù và con chó trắng to như một con ngựa bạch. Chúng tôi lao nhao hỏi bà:

- Mẹ bà mách cho bà biết. - Bà nói. - Rồi đến một lúc nào đấy, bà sẽ mách cho một người khác.

- Bà sẽ mách ai? Bà sẽ mách ai?

Bà già mù không trả lời ngay. Bọn trẻ chúng tôi như nín thở chờ đợi. Bà đưa đôi mắt trắng đục nhìn lướt chúng tôi. Lúc đó, tôi cảm tưởng đôi mắt mù của bà nhìn thấy tất cả chúng tôi. Hình như bà đang nhìn chúng tôi để chọn lựa đứa nào sẽ được bà mách cho biết con đường dẫn đến kho báu. Khi đã nhìn kỹ tất cả chúng tôi, bà mỉm cười, bà nói:

- Có thể các cháu là người mà bà sẽ chỉ cho biết con đường dẫn đến các kho báu.

Tim tôi như dừng lại. Tôi nghĩ những đứa khác cũng mang cảm giác giống tôi. Tôi nhớ mẹ tôi đã nói có thể sau này tôi là người được biết kho báu ấy. Tôi vừa nghĩ vừa chăm chú nhìn vào gương mặt lúc này như bất động của bà.

- Nhưng các cháu biết có chuyện gì đang xảy ra trên núi không? Bà trầm giọng xuống hỏi.

- Chuyện gì hở bà? Bọn trẻ như cùng hỏi.

- Có một số người đang phá hại ngọn núi.

Sau đó bà kể cho chúng tôi biết có một số người đang chặt trộm cây trên núi. Bà nói họ chặt cây để bán lấy tiền. Bà lên núi và sờ thấy quá nhiều cây cổ thụ mọc trên núi đến cả vài ba trăm năm đã bị chặt. Đêm đêm bà nghe thấy tiếng cây đổ và tiếng kêu hốt hoảng của bầy chim và lũ khỉ. Nếu không ngăn chặn họ lại thì một ngày gần đây quả núi sẽ không còn cây nữa. Muông thú sẽ không còn nơi sống. Và những chuyện khủng khiếp sẽ xảy ra. Bà nói với chúng tôi rằng bà đã gặp ông chủ tịch xã báo tin đó, nhưng hình như ông chủ tịch không để ý đến nỗi lo sợ của bà. Ông ấy nói với bà rằng: "Mù lòa như bà để ý đến chuyện của người sáng mắt mà làm gì". Bà nói chúng tôi hãy nói chuyện cho người lớn ngăn chặn ngay việc chặt cây trên núi lại.

Trước khi chúng tôi rời ngôi miếu, bà đã cho chúng tôi toàn bộ những con giống bằng đất nung. Chúng tôi hỏi bà vì sao mà bà nặn nhiều con giống như vậy. Bà bảo bà yêu những con vật. Những lúc cô đơn, bà lại lấy đất và lần mò nặn những con giống còn đọng trong ký ức ấu thơ của bà. Và một điều thật kỳ diệu là không biết bằng cách nào mà bà nặn những con giống đó mỗi khi thổi thì tiếng kêu của con vật nào đúng với con vật đó. Chỉ riêng những con cá là không có chỗ thổi phát ra tiếng kêu. Chúng tôi hỏi bà tại sao bà không làm lỗ thổi cho con cá. Bà cười và bảo cá là những con vật không có tiếng kêu như mèo hay chó. Giọng nói của bầy cá chính là sự im lặng. Chúng tôi rời ngôi miếu với hai túi áo nặng trĩu những con giống. Cuộc thám hiểm xem bà già mù ăn loại côn trùng nào của chúng tôi thất bại nhưng chúng tôi lại phát hiện ra những điều kỳ lạ khác. Về đến cây đa đầu làng, chúng tôi bầy những con giống trên mặt cỏ. Cả một thế giới những con vật sống động hiện ra. Rồi không ai bảo ai, chúng tôi cùng nhìn về ngọn núi kín cây.

Làm sao người ta chặt được hết cây trên núi nhỉ. - Một đứa nói. - Tớ cuộc với các cậu đấy.

- Cuộc gì nào? - Đứa khác hỏi.

- Gì cũng được.

- Cậu sẽ thua.

- Chắc không?

- Chắc.

- Vì sao?

- Vì tớ thấy bà già mù biết tất cả. Tớ tin bà ấy nói.

Sau câu nói ấy, chúng tôi im lặng. Một sự im lặng hiếm hoi của lũ trẻ. Lâu sau mới có một đứa nào đấy nói khẽ: "Nếu ngọn núi hết cây thì sao nhỉ?". Câu hỏi bâng quơ ấy vang lên mà chẳng có đứa nào trả lời. Đúng ra là chúng tôi chẳng biết trả lời. Chúng tôi còn nhỏ quá. Chúng tôi không thể tiên cảm được những gì sẽ xảy ra. Và đấy là điều làm cho tâm hồn ngây thơ và trong sáng của chúng tôi sau này bị tổn thương nặng nề.