BẢY
Một mùa hè lại trôi đi. Nhưng với chúng tôi đấy là một mùa hè buồn bã. Đã hai năm kể từ khi ngọn núi bị cháy mà chẳng có mấy cái cây mọc lên ngoài một số bụi cây dại bơ phờ. Bà già mù cùng bọn trẻ cố gắng trồng từng cái cây một nhưng cũng muối bỏ bể. Chúng tôi đi đâu thấy bất kỳ cây con nào cũng đánh về trồng trên núi. Cũng có một số người làng hưởng ứng việc trồng cây của chúng tôi. Nhưng chỉ được một năm đầu rồi họ cũng bỏ cuộc. Cũng từ ngày đó, ngọn núi chẳng có bóng chim bay về. Chẳng bao giờ chúng tôi được nằm dưới những tán lá lớn trong buổi hoàng hôn để nghe tiếng đập cánh như có gió thổi của bầy chim trở về. Có lần nhớ bầy khỉ, chúng tôi đã rủ nhau vượt sông vào dãy núi bên kia tìm bầy khỉ, nhưng chúng tôi chẳng thấy bầy khỉ đâu. Rất nhiều những cái cây lớn sum sê mà mùa hè năm trước chúng tôi còn thấy khi đưa bầy khỉ đến thì giờ đã biến mất. Chúng tôi trèo lên núi và hú gọi bầy khỉ nhưng chẳng hề có tiếng chí chóe của chúng như những ngày xưa. Chúng tôi không biết bầy khỉ còn sống không và nếu còn sống thì chúng đang ở đâu. Mỗi năm đi qua và làng tôi lại thêm một năm đói kém. Những cánh đồng làng tôi và các làng bên cạnh khô trắng vì hạn hán. Người làng tôi phải gánh từng gánh nước dưới sông lên tưới ruộng. Nhưng gánh bao nhiêu nước để có thể tưới đủ cả cánh đồng mênh mông. Do gánh nước nhiều nên dạo này mẹ tôi hay kêu tức ngực. Suốt mùa hè nắng như thiêu như đốt mà không thấy một giọt mưa. Nhiều đêm gần sáng có chớp phía xa và tiếng sấm mơ hồ vọng lại. Nhưng hình như những cơn mưa bỏ làng tôi mà ra đi như bầy chim và bầy khỉ kia. Hai giếng nước làng tôi cũng cạn tận đáy. Người làng phải ra sông gánh nước về ăn. Tôi cũng phải gánh nước giúp mẹ. Chiếc đòn gánh tre như một thanh sắt nung đỏ làm bỏng rát vai tôi. Bọn trẻ chúng tôi ít gặp nhau hơn mọi năm. Thi thoảng chúng tôi mới gặp nhau ngoài gốc đa đầu làng. Chúng tôi đã bắt đầu chán những viên bi.
- Bà già mù có biết gọi mưa không nhỉ? - Một đứa hỏi.
Câu hỏi ấy đã được hỏi nhiều lần và lần nào nghe hỏi vậy Phàn Phệch cũng gắt:
- Bà ấy có phải phù thủy đâu mà biết gọi mưa.
Bỗng một sáng tỉnh giấc, chúng tôi thấy người làng xôn xao bàn tán ngọn núi làng tôi chứa rất nhiều vàng. Dưới chân núi xuất hiện những chiếc lán của những người đến đào vàng. Một số người làng tôi cũng bắt đầu tham dự cuộc truy tìm vàng này. Bọn trẻ chúng tôi vội vã tập trung dưới gốc đa đầu làng. Chúng tôi đoán rằng những người kia đã phát hiện ra kho báu trong lòng núi. Một đứa nói hay là bà già mù đã mách cho những người kia con đường vào kho báu rồi. Nghĩ vậy, chúng tôi liền đến ngôi miếu để tìm bà già mù. Khi chúng tôi đến thì bà già mù đang nằm trên chõng. Bà đắp một tấm chăn bông đã quá cũ. Giữa ngôi miếu có một đống lửa âm ỉ cháy. Năm nay mùa đông đến sớm hơn mọi năm. Ngày cuối cùng của mùa thu vừa ra đi thì những cơn gió lạnh của mùa đông đã tới tấp tràn đến. Bà già mù gượng ngồi dậy trên chiếc chõng tre để đón chúng tôi.
- Bà ốm hở bà? - Một đứa hỏi.
- Bà thấy trong người không được khỏe.
Bà già mù vừa vấn lại mái tóc bạc trắng vừa nói với chúng tôi. Giọng bà yếu ớt. Con chó trắng thấy bà ngồi dậy thì tỏ ra rất mừng. Nó ngoáy đuôi và ư ử kêu.
- Có rất nhiều người đến đào vàng trong núi, bà ạ.
Một đứa lên tiếng. Nhưng bà già mù vẫn im lặng như không nghe thấy câu nói ấy. Bà bước từng bước đến bên đống lửa và ngồi xuống. Bà hơ hai bàn tay xương xẩu trước ngọn lửa rồi xoa lên mặt.
- Bà mách những người kia đường đến kho báu à? - Phàn Phệch như không chịu nổi sự im lặng cất tiếng hỏi.
- Họ chỉ là những người đi đào vàng, các cháu ạ. - Bà già mù nói. - Bà biết dãy núi bên kia có cả ngàn người đến đào vàng. Bây giờ thì họ đến đây. Có lẽ tất cả những ngọn núi sẽ bị đào tung lên mất.
- Ngọn núi này có vàng hở bà?
- Bà không biết là có hay không.
- Họ không biết được kho báu trong núi chứ bà?
- Không. - Bà đưa đôi mắt mù nhìn về phía một đứa vừa nói. - Chỉ có các cháu mới được biết.
- Làm sao chúng cháu biết được.
- Sẽ có người chỉ đường cho các cháu.
- Bà phải không?
Bà già mù không trả lời câu hỏi đó. Bà mỉm cười. Chúng tôi đã ngồi xuống bên bếp lửa quanh bà từ lúc nào. Ngọn lửa và câu chuyện về kho báu làm cho chúng tôi thấy người rực nóng.
- Các cháu lấy giúp bà bó lá treo ở góc miếu.
Theo hướng tay bà chỉ, tôi bước đến và lấy cho bà một bó lá cây khô treo ở góc miếu. Bà già mù bẻ một ít lá cho vào cái nồi đất dùng để sắc thuốc bắc lên bếp lửa.
- Bà đun cái này để làm gì?
- Đây là lá thuốc. Bà đang ốm phải uống thuốc. Nhưng lá thuốc này rất quý. Nó có thể cứu sống được con người.
- Bà lấy những cái lá này ở đâu?
- Trên núi làng mình. - Bà khẽ thở dài. Nhưng bây giờ thì không còn nữa. Hai năm nay, cứ vài ngày bà lại lên núi xem những cây thuốc này có mọc lại không. Nhưng bà chẳng thấy gì ngoài đá.
- Bà ơi. - Một đứa hỏi. - Lỡ những người đào vàng tìm thấy kho báu thì sao?
- Kho báu ấy ở trong một cái hang dẫn vào lòng núi. - Bà già mù nói. - Nếu không có người chỉ đường thì họ không thể tìm thấy cửa hang.
- Chúng cháu đã thấy một cái hang.
- Trên núi có ba cái hang. - Bà già mù nói. - Nhưng đấy không phải là cái hang dẫn đến kho báu.
- Bà biết cái hang dẫn đến kho báu chứ? - Một đứa hỏi.
- Bà chỉ nghe mẹ bà kể lại. - Bà già mù kể. - Khi nào nghĩ đến cái hang đó thì nó lại hiện ra trước mắt bà.
- Bà đã bao giờ đến cửa hang ấy chưa? - Phàn Phệch hỏi.
- Bà đến đó một lần. - Bà già mù đáp. - Lúc đó bà còn nhỏ như các cháu bây giờ. Từ đó đến nay bà chưa quay lại đó.
- Nhỡ bà quên mất thì sao? - Phàn Phệch lại hỏi.
- Bà không thể nào quên được.
- Thế sao bà không mách cho ai đó để họ đến lấy những báu vật trong hang? - Tôi rụt rè hỏi.
- Nếu ai đó vào hang chỉ để lấy vàng bạc thì cái kho báu ấy chẳng có ý nghĩa gì. - Bà già mù nói. - Trong hang còn một thứ quý giá hơn tất cả vàng bạc có trong đó.
- Cái gì thế bà? - Bọn trẻ nhao nhao hỏi.
Bà già mù chợt im lặng. Vừa lúc đó có ba gã đàn ông bước đến trước cửa ngôi miếu. Chúng tôi đều nhìn ra. Bà già mù cũng nhìn về phía những người đàn ông lạ. Ba gã đàn ông quần áo bẩn thỉu, mặt hốc hác, râu ria lởm chởm, trông thật dữ tợn. Họ lừ lừ mắt nhìn chúng tôi. Một gã hỏi:
- Bà là bà già mù phải không?
- Tôi đây. - Bà già mù nói khẽ.
- Chúng tôi muốn mua của bà một ít gạo.
- Các ông là ai? - Bà già mù hỏi.
- Chúng tôi là dân đào vàng.
- Tôi không có gạo bán. - Bà già mù đáp. - Các ông vào làng mà mua.
- Thôi được. - Gã đàn ông cau mày. - Chúng tôi muốn nói chuyện với bà.
- Chuyện gì các ông cứ nói. - Bà già mù đáp.
- Nhưng bà bảo lũ ranh này đi chỗ khác đi. - Gã đàn ông nói. - Chúng nó không được nghe chuyện này.
- Đây là các cháu trong xóm. - Bà già đáp. - Các ông đừng ngại. Có gì quan trọng đâu.
- Có chuyện quan trọng chúng tôi mới tìm bà. - Gã đàn ông nói với vẻ khó chịu.
- Tôi nghĩ chắc các ông lầm chứ tôi là một bà già mù có chuyện gì quan trọng đâu.
Gã đàn ông tỏ vẻ khó chịu, phẩy tay, nói: "Tối chúng tôi quay lại". Rồi gã ra hiệu cho hai gã cùng đi rời khỏi ngôi miếu. Khi ba gã đàn ông đi khuất, bà già mù nhìn chúng tôi và hỏi:
- Các cháu có đoán được những người này muốn nói chuyện gì với bà không?
- Chuyện gì thế bà?
- Chắc chắn họ muốn hỏi bà về cái hang chứa kho báu.
- Họ cũng biết cái hang ấy à? - Chúng tôi hỏi.
Chuyện cái hang chứa kho báu ở ngọn núi này có từ thuở xa xưa. - Bà già mù kể. - Cụ kỵ các cháu đã được nghe về cái hang đó. Ông bà các cháu được nghe. Bố mẹ các cháu cũng được nghe và bây giờ đến các cháu. Câu chuyện này không chỉ mình người làng các cháu biết mà thiên hạ nhiều người biết. Bởi thế mà đời nào cũng có những kẻ tham vàng bạc tìm đến ngọn núi này. Bà được kể lại rằng, cụ nhà bà đã bị một nhóm người đến tìm kho báu giết chết vì không chịu mách cho chúng cái hang chứa kho báu ở đâu. Trước đây đã hai lần có người đến gặp bà hỏi về cái hang chứa kho báu ấy. Nhưng tất cả những người này không bao giờ được quyền biết cái kho báu ấy. Bà già mù là người đàn bà mù cuối cùng trông coi kho báu ấy.
Sau bà thì ai sẽ trông coi? - Bọn trẻ gần như đồng loạt hỏi.
- Bà linh cảm rằng: Bà là người cuối cùng giữ bí mật về kho báu. Cái hang chứa kho báu sẽ được mở. Nó cần được mở để giúp con người.
Nói đến đó bà ngừng lại. Chúng tôi nhìn bà không chớp mắt. Giọng nói của bà mỗi lúc một vang lên đầy huyền bí. Trong ánh lửa chập chờn, bà giống như một pho tượng cổ. Bà đưa tay rờ lên đầu một đứa bên cạnh. Bà xoa đầu nó âu yếm và tin cậy. Rồi bà rờ tay lên mặt lên tóc chúng tôi. Chúng tôi ngồi bất động với một cảm giác kỳ lạ để đón nhận hành động của bà. Những ngón tay gầy guộc và yếu ớt của bà lại truyền vào cho chúng tôi một sức mạnh. Và tôi im lặng như chỉ có tiếng reo của lửa, chúng tôi bỗng nghe thấy bà nói. "Ôi, các con của ta". Đấy là lần đầu tiên chúng tôi như vậy.
Đêm ấy tôi thao thức mãi. Tôi nghe thấy tiếng con chó trắng sủa miên man theo gió từ cánh đồng ven chân núi vọng về. Nhưng rồi tôi thiếp đi. Sáng sau tỉnh giấc, tôi nghe mẹ tôi nói: "Không hiểu vì sao mà con chó của bà sủa và tru suốt đêm". Linh tính như báo với tôi có chuyện chẳng lành. Tôi nhặt vội củ sắn luộc còn nóng bỏng và chạy sang nhà Phàn Phệch. Tôi nói với Phàn Phệch về chuyện con chó tru suốt đêm qua. Chúng tôi rủ thêm mấy đứa và cùng chạy ra miếu. Con chó trắng thấy chúng tôi mừng rỡ kêu rồi lại chạy vào trong ngôi miếu như mách chúng tôi một chuyện gì đấy. Chúng tôi bước vào ngôi miếu. Bà già mù nằm bất động trên chiếc chõng tre. Chúng tôi lại gần bà và nhận ra mặt mũi bà tím bầm.
- Bà ơi, bà làm sao thế này? - Chúng tôi vội hỏi.
Bà già mù gượng xoay người về phía chúng tôi. Đôi mắt mù đục trắng của bà như cố mở to hơn để nhìn chúng tôi. Rồi bà nói trong hơi thở đứt quãng.
- Những gã đào vàng tối qua đến tìm bà.
- Chúng đã làm gì bà? - Phàn Phệch lo lắng hỏi.
- Chúng bắt bà phải nói cho chúng biết cái hang chứa kho báu ở đâu. Bà nói với chúng đó chỉ là chuyện hoang đường. Chúng không tin. Khi chúng biết không thể nào hỏi được bà chuyện ấy thì chúng đánh bà.
- Bọn chó! - Phàn Phệch kêu lên - Chúng cháu sẽ ra chân núi tìm chúng.
- Đừng, đừng, các cháu. - Bà già mù vội can chúng tôi. - Các cháu chẳng làm gì được chúng đâu.
- Chúng cháu không sợ. - Chúng tôi cùng nói.
- Bà biết các cháu là những cậu bé dũng cảm. - Bà già mù nói. - Nhưng bà nhờ các cháu một việc.
- Bà nói đi, việc gì chúng cháu cũng làm được. - Phàn Phệch sốt sắng.
- Các cháu có biết cây gạo không? - Bà già mù hỏi.
- Chúng cháu đứa nào mà chả biết. - Phàn Phệch đáp.
- Bà nhờ các cháu lấy giúp bà một ít vỏ cây gạo nhé.
- Để bà làm gì? - Phàn Phệch hỏi.
- Cứ lấy giúp bà về đây rồi bà nói cho các cháu nghe.
Những việc như thế này đối với bọn trẻ xóm tôi thật quá dễ. Chúng tôi kéo nhau ra cây gạo mọc gần chân núi. Chúng tôi lấy dao đẽo vỏ cây gạo. Chúng tôi chẳng biết bà già mù dùng vỏ cây gạo để làm gì mặc dù cây gạo quá quen thuộc với bọn trẻ chúng tôi. Hàng năm cứ vào mùa cây gạo có quả là chúng tôi lại ra đó lấy quả ăn. Vì cây gạo quá cao nên chúng tôi không thể trèo lên như trèo ổi. Chúng tôi chặt những đoạn cành cây to bằng cổ tay để ném quả gạo. Quả gạo còn non to bằng quả dưa chuột, ăn hơi nhớt nhưng rất ngon. Có lẽ đối với bọn trẻ con chúng tôi cái gì ăn được cũng trở thành những món ăn tuyệt hảo. Chúng tôi ăn quả gạo, quả vú bò, quả tóc tiên. Đến quả mây chát như thế mà chúng tôi cũng thấy ngon. Chúng tôi ăn cả lá phù dung chấm muối, ăn cả ngọn tầm xuân, búp ổi, vỏ cây ổi, lá chua me, rau má, lá sấu non... tuổi thơ chúng tôi gắn liền với những câu chuyện cổ tích, chuyện ma và các thứ rau, quả dại. Vào mùa những quả gạo già nở bông. Bông gạo nở trắng theo gió bay khắp làng. Ngày bà nội tôi còn sống, bà thường bảo tôi đi nhặt bông gạo về cho bà nhồi gối. Những cái gối bông gạo mềm biết nhường nào. Bà tôi đã tự dệt cho tôi một cái áo bông gạo. Vỏ áo là những mảnh vải nhiều màu từ những chiếc áo rách của bà và mẹ tôi. Đấy là chiếc áo ấm nhất của tuổi thơ tôi trong những mùa đông giá rét. Những chiếc gối nhồi bông của bà tôi bây giờ vẫn còn. Khi nào có nắng, mẹ tôi thường gỡ bông gạo trong gối ra phơi.
Chúng tôi mang những miếng vỏ cây gạo về cho bà già mù. Bà bảo chúng tôi giã nát những miếng vỏ cây ấy cho bà và bỏ vào chiếc nồi đất. Sau đó bà bảo chúng tôi đi tiểu vào và lấy một ít nước cho vào đó và xao nóng lên. Bà nói với chúng tôi đó là một vị thuốc rất hiệu nghiệm để chữa vết thương khi bị ngã hay bị đánh đập. Chúng tôi đùn đẩy nhau nhưng không đứa nào dám đi tiểu vào cái nồi đất ấy. Cuối cùng thằng Phàn Phệch tức quá nói "để tao" và nó vạch quần đi tiểu. Nhưng nó cứ đứng mãi mà chẳng són ra giọt nào. Chúng tôi không nhịn được phá lên cười. Phàn Phệch cũng buồn cười quá mà hóa ra lại đi tiểu được. Chúng tôi nhóm lửa xao nóng nồi vỏ gạo cho bà già mù. Bà bọc vỏ gạo vào một miếng vải và bóp vào những vết sưng tím trên mặt. Từ hôm đó, hàng ngày chúng tôi đều ra thăm bà và giúp bà những gì bà cần. Chúng tôi quét dọn ngôi miếu. Chúng tôi gánh nước đổ vào hai chiếc chum để ngoài sân cho bà. Chúng tôi nấu cơm cho bà. Buổi tối thì có một bà già trong làng vốn là bạn của bà ra miếu ngủ với bà. Sau ba ngày bóp vỏ gạo xao nước tiểu thì những vết sưng tím trên mặt bà biến mất. Chúng tôi ngờ rằng bà phải có một thứ thuốc tiên nào đó cho vào. Tôi đem chuyện này nói với mẹ tôi, mẹ tôi cười và nói: "Bà nội con ngày xưa cũng làm như thế".
Suốt mùa đông năm đó những kẻ đào vàng đào tan hoang một phần chân núi làng tôi. Nhưng hình như họ cũng chẳng tìm được bao nhiêu. Trong thời gian đào vàng, có bao nhiêu chuyện đánh nhau, tranh cướp nhau xảy ra. Nhưng rồi những kẻ đào vàng cũng không kiên trì được nữa. Họ dần dần bỏ đi để lại những cái hang đất dọc chân núi. Và chúng tôi cũng chẳng có thời gian để ý đến chuyện đào vàng nữa. Hàng ngày chúng tôi đi học một buổi và một buổi giúp cha mẹ lo đủ thứ việc nhà.