← Quay lại trang sách

TÁM

Sang đến tháng thứ tư mà vẫn không có dấu hiệu gì của một trận mưa. Những cái cây trong làng tôi mỗi ngày một trở nên tàn lụi. Mẹ tôi nói trong đời mẹ tôi chưa bao giờ thấy hạn hán lại kéo dài như thế. Làng tôi rơi vào cơn đói. Có một số đứa bỏ học. Chúng theo những ông bố đi làm ăn ở tận vùng núi xa. Cánh đồng làng tôi xưa kia lúc nào cũng xanh bát ngát màu xanh của ngô lúa. Bây giờ cả cánh đồng như một sa mạc khô trắng. Con sông chảy qua làng tôi nước cũng vơi đi. Những năm trước đây, vào mùa hè con sông vụt lớn lên sau một trận mưa. Nước ngầu đỏ cuồn cuộn chảy. Thế mà bây giờ có khúc sông chúng tôi có thể lội qua. Lương thực chủ yếu của làng tôi lúc này là sắn. Hàng ngày, sau khi đi học về, bọn trẻ trong xóm lại đổ ra sông bắt hến. Phải nói rằng những năm tháng ấy hến đã cứu sống làng tôi. Trời phú cho con sông làng tôi có quá nhiều hến. Hến nằm dưới đáy sông như sỏi. Mẹ tôi là một người khéo tay nên làm được rất nhiều món ăn từ hến. Hến nấu cháo sắn, hến nấu canh sắn. Nước hến vô cùng ngọt. Chúng tôi chỉ có một món ăn là hến hết ngày này đến ngày khác. Khi nào có gạo nấu cơm thì mẹ tôi lại xào hến với khế chua. Gọi là xào nhưng chẳng có một giọt mỡ nào. Món canh hến mà tôi thích nhất là nấu với lá dâu non. Tôi thường bơi qua sông sang bờ bên kia hái lá dâu về cho mẹ tôi nấu canh hến. Mẹ tôi vò nát lá dâu cho mềm nấu với canh hến và ăn với cà muối nén. Thường cứ hai, ba ngày tôi mới được ăn một bữa cơm. Có lẽ vì thế mà bữa cơm ăn với canh hến nấu lá dâu là bữa cơm ngon nhất của tuổi thơ tôi.

Do hạn hán kéo dài nên đội thủy nông của làng tôi thử đào những chiếc giếng khơi ngay ngoài cánh đồng nhưng cũng chẳng được bao nhiêu nước. Không có nước nên không thể cấy lúa được. Làng tôi tập trung vào trồng sắn. Vì sắn có thể chịu hạn. Nhưng vì không đủ một lượng nước nhất định nên những củ sắn bé tèo teo, chỉ nhỉnh hơn ngón chân cái chúng tôi một chút. Sang mùa đông đất đồng làng tôi cứng lại như đá. Và một năm sắp trôi qua nhưng không một giọt mưa rơi xuống cánh đồng làng tôi. Có người nói rằng vì trên núi bị cháy nên thần núi đã bỏ đi và không còn ai nhờ trời làm mưa cho nữa. Có đêm mẹ tôi nằm mơ thấy mưa vội choàng dậy kêu to: "Mưa, mưa, có mưa rồi làng nước ơi". Nhưng đấy chỉ là cơn mơ của sự đợi chờ mưa xuống của mẹ tôi mà thôi.

Mùa đông năm nay đối với chúng tôi như lạnh hơn mùa đông năm trước. Chúng tôi vẫn thường tụ tập dưới gốc đa đầu làng vào buổi tối. Nhưng những lần tụ tập này chúng tôi thường im lặng hơn. Mùa đông năm nay bà già mù ốm rất nặng. Hầu như bà không ra khỏi chiếc chõng tre có đệm rơm. Chúng tôi hàng ngày vẫn ra thăm bà. Mẹ tôi cùng một vài người đàn bà trong xóm thường xuyên ra giúp bà cơm cháo. Trong góc miếu vẫn còn rất nhiều những cây thuốc bà già mù lấy trên núi làng tôi từ những năm trước. Chúng tôi bảo bà chỉ cho chúng tôi cách sắc thuốc để chúng tôi sắc cho bà uống. Nhưng bà nói với chúng tôi rằng bà không thể qua khỏi mùa đông này. Bà bảo đã đến lúc bà phải ra đi và không có thuốc gì có thể giữ bà ở lại thêm được nữa. Bà nói những đêm gần đây bà thường mơ thấy bà già mù mẹ bà chống gậy trở về bảo bà ra đi. Những lúc nghe bà nói vậy, chúng tôi ngồi im lặng nhìn bà. Và sau đó trên đường từ ngôi miếu về làng, chúng tôi thường dừng lại bàn tán với nhau về kho báu. Chúng tôi quả quyết rằng: nếu bà già mù ra đi mà không nói cho ai biết về con đường dẫn đến cái kho báu thì cái kho báu ấy sẽ vĩnh viễn nằm trong lòng núi.

Một buổi chiều mẹ tôi đi làm về và nói với tôi bà già mù muốn gặp bọn trẻ con trong xóm. Nghe vậy tôi chạy như bay đi báo cho lũ bạn. Chúng tôi nhanh chóng đến ngôi miếu.

- Bà có gì cần chúng cháu giúp phải không? - Phàn Phệch hỏi.

- Bà muốn các cháu múc cho bà một lọ nước sông. - Bà già mù nói.

- Vâng ạ, chúng cháu sẽ đi múc ngay. - Bọn trẻ đáp.

Hai đứa trẻ được Phàn Phệch phân công xách một chiếc lọ sành xuống sông múc nước. Khi hai đứa trẻ mang lọ nước sông về. Bà ngồi dậy và lấy khăn rửa mặt bằng lọ nước sông chúng tôi múc về. Bà bảo chúng tôi bỏ thêm củi vào bếp lửa giữa nhà. Rồi bà ngồi xuống bên đống lửa. Tôi cảm tưởng bà chưa bao giờ ốm. Gương mặt bà thanh thản bà nói:

- Các cháu hãy ngồi xuống cả đây.

Chúng tôi lần lượt ngồi xuống quanh đống lửa. Bà đưa đôi mắt mù như cố gắng nhìn vào từng gương mặt chúng tôi. Một lúc sau bà nói:

- Bà gọi các cháu đến đây vì bà biết bà không còn sống được lâu nữa. - Bà nói với một giọng dịu dàng và thanh thản. - Chỉ nay mai là bà sẽ ra đi khỏi mặt đất này. Bà không còn được gặp các cháu nữa. Bà đã làm xong tất cả các công việc của một đời người. Bây giờ chỉ còn một việc cuối cùng mà thôi. Đó là bà phải nói về con đường dẫn đến kho báu trong lòng núi.

Nói đến đó bà ngừng lại. Chúng tôi như nghẹt thở. Điều bí mật mà chúng tôi nghe nói lâu nay là một sự thật ư? Có kho báu trong lòng núi làng tôi thật ư? Lâu nay, chúng tôi vẫn tin có kho báu ấy một cách mơ hồ giống như bao điều kỳ lạ trong các câu chuyện cổ tích mà chúng tôi đã được nghe. Nhưng đến lúc này chúng tôi mới hoàn toàn tin kho báu ấy không phải là chuyện cổ tích. Tất cả bọn trẻ chúng tôi ngồi như bất động nhìn bà. Tim chúng tôi đập vang lên. Tôi cảm giác như những trái tim trong lồng ngực bọn trẻ chúng tôi đang đập vang như tiếng trống trong ngôi miếu. Cũng như lần trước, bà già mù lại đưa mắt trắng đục nhìn một lượt chúng tôi. Bà cầm lấy bàn tay một đứa ngồi bên cạnh bà. Bà hỏi:

- Các cháu có biết ai sẽ được chỉ con đường đến kho báu không?

- Chúng cháu không biết.

Chúng tôi trả lời bà mà như không thành hơi. Chúng tôi đang ngạt thở vì chờ đợi. Ai trong chúng tôi sẽ được bà già mù mách cho con đường dẫn đến kho báu.

Phàn Phệch hay là một đứa nào đấy hay là tôi?

- Các cháu sẽ là những người được chỉ cho con đường đến kho báu.

Đúng là bà già mù đã nói như thế. Bà nói từng tiếng một rõ ràng. Tai tôi chợt ù đi. Tôi nhận thấy một biến động kỳ lạ trên những gương mặt trẻ thơ.

- Chúng cháu ư, bà? - Phàn Phệch hỏi lại, giọng run rẩy.

- Chính các cháu chứ không phải bất kỳ ai. Các cháu có quyền được biết kho báu ấy. Bà vô cùng hạnh phúc khi bà đã tìm được người để trao lại toàn bộ kho báu ấy trước lúc ra đi vĩnh viễn. Bà hạnh phúc vì sứ mệnh quan trọng nhất của đời bà đã được thực hiện.

Nói đến đó bà già mù khóc. Phàn Phệch bật khóc theo. Và chúng tôi cũng nấc lên tức tưởi. Chúng tôi không thể ngờ rằng chúng tôi lại được bà già mù tin cậy đến như vậy. Chúng tôi không ngờ trong đói khổ chúng tôi lại được nhận về mình một sự kiện thiêng liêng đến thế.

Sau khi mọi người đã im lặng, bà già mù bắt đầu nói cho chúng tôi biết cách vào cái hang chứa kho báu. Rồi bên ánh lửa chập chờn trong ngôi miếu vào một buổi tối mùa đông giá lạnh, bà già mù kể cho chúng tôi câu chuyện về kho báu.

Từ lâu lắm rồi, không rõ tháng năm nào, có một đoàn người đi trên một đoàn thuyền sơn son thếp vàng qua khúc sông làng tôi. Đến khúc sông trước ngọn núi, đoàn thuyền dừng lại và quyết định cập bờ. Đoàn người dọn tất cả đồ đạc từ dưới thuyền lên ngọn núi và sống ở đó. Ngày ấy, làng tôi chỉ vẻn vẹn có mươi gia đình. Người làng không hiểu tại sao đoàn người giàu có kia lại lưu lại ngọn núi làng tôi. Sau này có người bảo đấy là một ông vua mất nước cùng đám tùy tùng chạy trốn. Cũng có lời đồn đó là những người nhà trời. Chẳng thế mà sau này, bến sông nơi những con thuyền rực rỡ neo lại trong một đêm và sáng sau người làng không nhìn thấy đâu nữa được gọi là bến Thiên Thuyền. Bà nội tôi bảo bến Thiên Thuyền là bến để thuyền nhà giời đậu. Người làng tôi nhìn thấy đoàn người đó nhưng chẳng có ai dám đến gần vì thấy lúc nào trong tay họ cũng có gươm giáp tuốt trần và quanh người họ hào quang tỏa ra lấp lánh. Chỉ có một cô bé chăn bò trên núi là dám đến gần họ. Một ông già râu tóc bạc phơ đẹp như một ông tiên nói với cô bé chăn bò là ông và đoàn tùy tùng đến từ một nơi rất xa mà nếu cô bé đi bằng những con thuyền bình thường sẽ chẳng bao giờ tới được. Cô bé nhận thấy trong những chiếc lều của họ chất đầy những đồ vàng bạc châu báu. Cô chưa bao giờ nhìn thấy cái đẹp như thế. Cô mê mẩn ngắm nhìn những đồ vàng bạc châu báu đó. Ông già liền lấy một dây ngọc đeo vào cổ cô, lấy chiếc trâm vàng cài lên tóc cô, lấy gấm vóc quấn lên người cô. Rồi ông già phẩy tay thì một chiếc gương lớn hiện ra trước cô. Cô kinh hãi nhận ra trong gương có một cô gái đẹp lộng lẫy. Cô hỏi ông già cô gái đang đứng trước cô là ai. Ông già cười lớn và nói đó chính là cô bé chăn bò. Khi cô bé đã tin cô gái đẹp trong gương chính là mình thì cô không rời khỏi chiếc gương cho đến khi bóng tối đổ xuống. Cô quay lại trước ông già đang ngồi bên đống lửa và tháo vòng dây ngọc, chiếc trâm vàng trả lại cho ông già.

Ông già hỏi cô: "Con thấy những thứ này có đẹp không?".

Cô bé trả lời: "Đẹp lắm. Cháu chưa thấy cái gì đẹp như thế".

Ông già lại hỏi: "Con có thích những thứ này không?".

Cô bé xúc động đáp: "Cháu thích lắm".

Ông già cười: "Vậy ta cho con".

Cô gái nói: "Cháu cám ơn ông. Nhưng cháu không lấy".

Ông già vẻ ngạc nhiên: "Vì sao?".

Cô gái thưa: "Vì những thứ này không phải là của cháu. Cháu chỉ được dùng những gì do cháu làm ra".

Ông già xúc động, lại hỏi: "Vậy sao cháu lấy cây rừng làm củi, lấy quả rừng làm thức ăn? Những thứ đó cháu đâu có làm ra?".

Cô gái lại lễ phép thưa: "Cha cháu dạy: của trời thì được lấy, của người thì không".

Ông già xúc động đến lặng người.

Ông già hỏi: "Cha cháu đâu? Ta muốn gặp cha cháu".

Cô gái đáp khẽ: "Cha mẹ cháu mất lâu rồi. Cháu mồ côi cha mẹ và đi chăn bò thuê".

Sau lần nói chuyện đó, ông già vô cùng yêu quý cô bé. Ngày ngày, trong lúc chăn bò, cô bé lượm củi mang đến cho ông già để đốt đêm cho đỡ lạnh. Cô hái những quả rừng ngon mang đến cho ông. Một ngày, ông dẫn cô bé theo một con đường bí mật không thể ngờ tới đến trước vách đá. Trên vách đá có một khe nhỏ chỉ đủ lách một bàn tay vào. Cô vô cùng ngạc nhiên là ông già có thể đi qua được cái khe đá nhỏ ấy. Từ sau tấm đá lớn tiếng ông già vọng ra. Ông bảo cô bé cứ nhắm mắt lại và đi qua cái khe đá nhỏ ấy. Cô bé làm theo và đi được vào bên trong. Khi đã vào bên trong, cô kinh hãi nhận ra phía trong sau vách đá đó là một chiếc hang rộng lớn. Ông già nói: "Đây là một kho báu. Ta thấy con là một cô bé trung thực và trong sáng hơn cả những viên ngọc, nên ta muốn cho con biết". "Rồi ông dẫn cô bé đi sâu vào lòng hang. Cô bé nhìn thấy những tùy tùng của ông đang xếp bao nhiêu là vàng bạc châu báu trong hang.

Cô hỏi: "Ông giấu nhiều vàng bạc châu báu như vậy để làm gì?".

Ông già nói: "Ta để lại cho những người nào vào được cái hang này".

Cô bé hỏi: "Họ là ai?".

Ông già đáp: "Là những cậu bé có tâm hồn trong sạch như con nhưng chưa ra đời. Những cậu bé ấy sẽ tìm thấy chiếc hang này và cứu được cộng đồng của chúng".

Cô bé lại hỏi: "Tại sao ông lại phải từ xa đến đây để cất giấu vàng bạc cho người mà ông không hề biết?".

Ông già trầm ngâm: "Vì cuộc đời đã định đoạt như thế. Nhưng bây giờ, con có thể lấy bất cứ thứ gì trong hang này mà con thích".

Cô gái nói: "Cháu chẳng lấy thứ gì cả. Nhưng từng này vàng bạc có thể cứu sống tất cả mọi người hở ông?".

Ông già lắc đầu: "Không. Một núi này vàng bạc châu báu cũng không cứu sống được tất cả, cháu ạ. Ta để vàng bạc châu báu ở đây để thử lòng người, còn thứ quý hơn cả vàng bạc châu báu ở cuối hang. Nếu kẻ nào tham vàng bạc sẽ không bao giờ biết bí mật ở cuối hang. Bí mật kỳ diệu ấy chỉ giành cho những người không tham lam và có lòng nhân ái mà thôi. Chỉ những con người đó mới cứu được cộng đồng của mình".

Sau đó, ông già dẫn cô bé đi sâu vào trong hang. Càng vào sâu, ánh sáng trong hang càng trở nên rực rỡ. Và bất chợt, trước mắt cô hiện ra một hồ nước rộng ngập tràn ánh sáng. Cô bé khẽ kêu lên. Cô không tin ở mắt mình nữa.

Cô bé: "Sao lại có một hồ nước ở trong lòng núi thế này hở ông?".

Ông già: "Đây là hồ nước không bao giờ cạn. Có một nguồn nước vô tận trong lòng đất chảy vào đây. Hồ nước này có một cửa thông ra cánh đồng làng cháu".

Cô bé: "Nhưng cháu không thấy nước từ lòng núi chảy ra bao giờ".

Ông già: "Đường nước đó đã bị đóng. Ta sẽ cho cháu xem".

Ông dẫn cô bé đến bên một tảng đá hình một con quỷ dữ tợn đang đứng. Ông chỉ con quỷ và nói: "Chỉ cần đẩy đổ con quỷ này thì nước sẽ tuôn chảy ra cánh đồng. Đến một ngày, các dòng sông sẽ vơi đi rất nhiều nước và có khi hàng năm không có một giọt nước mưa. Con người sẽ lâm vào cảnh đói khát và bệnh tật. Dòng nước này sẽ cứu sống dân làng. Nó vừa làm cho ngũ cốc tươi tốt vừa như một thứ nước thần chữa bệnh cho con người. Ta đã nói hết bí mật về cái hang này cho con rồi".

Sau khi đã cất hết vàng bạc châu báu vào hang thì những người tùy tùng của ông già lần lượt lâm bệnh và chết. Cuối cùng chỉ còn lại một mình ông già. Trong những ngày ông già đau ốm, cô bé luôn ở bên ông. Cô đã chăm sóc ông như cháu gái chăm sóc ông nội của mình. Trước khi mất, ông già nói với cô gái rằng ông muốn cô là người trông coi kho báu ấy để đến một ngày nào đó sẽ cứu dân làng. Nhưng nếu cô chấp nhận xứ mệnh ấy thì cô sẽ trở thành một người mù. Và khi đã già, cô phải tìm một người mù khác để trông coi kho báu. Ông nói cô có quyền được từ chối. Vì nếu cô nhận lời, cô sẽ phải chịu một mất mát vô cùng to lớn là không bao giờ có thể nhìn thấy được nữa. Nói xong, ông già tắt thở. Cô gục đầu khóc bên thi thể ông già. Khi cô ngước mắt lên thì thi thể của ông già không còn ở đó nữa. Và dấu vết của đoàn tùy tùng đã từng ở đó cũng không còn lại một chút gì. Tất cả chỉ còn lại ngọn núi và cây cối im lìm đầy bí ẩn.

Những ngày sau đó, khi đi chăn bò cô bé thường ghé qua nơi ông già cùng đoàn tùy tùng hạ trại. Cô hy vọng có thể gặp lại ông già. Cô không tin là ông già đã chết. Cô nghĩ ông vẫn ẩn khuất đâu đây trên ngọn núi. Nhưng năm tháng lặng lẽ trôi qua. Cô bé đã lớn lên thành một cô gái xinh đẹp. Cô vẫn sống trong đói nghèo. Cô vẫn đi chăn bò thuê và kiếm củi. Có đôi lần, vì nghèo quá mà cô đã tìm đến trước hang. Cô có ý định lấy một vật gì đó để bán. Nhưng lạ thay mỗi lần đến bên khe núi vào kho báu, người cha đã khuất của cô lại hiện ra và nói: "Đừng để lòng tham hoen ố tâm hồn con. Lần sau cùng, cô đã quỳ xuống trước người cha khóc và xin cha tha thứ cho cô. Và cô quyết định chỉ khi nào dân làng cần cô cứu giúp cô mới bước vào cái hang mà thôi. Cô ngước mắt về phía đỉnh núi thề với ông già sẽ nhận lấy sứ mệnh của ông mong muốn. Lời thề vừa dứt, hai mắt cô bỗng tối sầm và không nhìn thấy gì nữa. Cô nhận ra lời thề đã linh nghiệm. Sau giây phút bàng hoàng, lòng cô bỗng thanh thản vô cùng. Nhưng cũng ngay lúc đó, cô thấy người cô ngập tràn ánh sáng. Dân làng vô cùng ngạc nhiên khi biết cô bị mù mà không hề ốm đau hay bị ai đánh đập gì cả. Nhưng điều làm họ ngạc nhiên hơn là tuy mù nhưng cô gái như nhìn thấy mọi vật rõ hơn. Đêm đêm, trong giấc ngủ, cô thấy ông già trở về và dạy cho cô nghề hái thuốc trên núi để cứu giúp những người bệnh tật và nuôi sống mình. Rồi khi đã già, cô bé chăn bò lại tìm một đứa bé mù về nuôi và truyền lại bí mật về kho báu. Cứ thế, đời này qua đời khác, dưới chân núi này luôn có một người đàn bà mù sống và làm nghề hái lá thuốc. Và bà già mù bây giờ là người đàn bà mù cuối cùng.

Câu chuyện về kho báu đã được kể xong. Nhưng tất cả bọn trẻ chúng tôi vẫn bất động trong một niềm hạnh phúc vô bờ. Chúng tôi nhận thấy chúng tôi đã lớn lên rất nhiều và chúng tôi đang mang trên vai mình một sứ mệnh diệu kỳ mà người lớn trong làng không thể nào nghĩ tới. Tối ấy, chúng tôi ở lại với bà già mù trong ngôi miếu cho đến khi bà già mù giục chúng tôi mới ra về. Trước khi chúng tôi ra về, bà già mù còn nói cho chúng tôi biết cái cửa hang ở ngay chỗ cây vả cổ thụ. Mặc dù vụ hỏa hoạn mấy năm trước đã thiêu cháy cây vả, nhưng cái gốc khổng lồ của cây vả vẫn còn. Với cây vả, bọn trẻ xóm tôi đứa nào cũng thuộc từng cái cành của nó. Chúng tôi bước ra khỏi ngôi miếu và đứng trong gió rét đang thổi nhìn ngọn núi. Trong đêm mùa đông mờ mờ ánh sao, chúng tôi cảm thấy như đỉnh núi làng tôi chạm tới các vì sao xa xôi.