Chương 13 Những mảnh vụn
“NGUYÊN LIỆU NHIỆT HẠCH, THƯA NGÀI, nhúng trong bột đất sét để tạo thành hồ...”
“Ta biết cách chế tạo một quả bom bụi, hạ sĩ Parker,” thị trưởng nói, đánh giá tổn hại từ lưng ngựa. “Điều ta không biết là làm sao một nhóm phụ nữ không được trang bị vũ khí lại có thể cài một quả bom trước mũi các binh lính thuộc quyền chỉ huy của ông.”
Chúng tôi thấy hạ sĩ Parker nuốt khan, thấy cổ họng ông ta chuyển động. Ông ta không phải là người đến từ thị trấn Prentiss cũ, hẳn ông ta đã được tuyển lựa dọc đường. Cậu đến nơi nào có quyền lực, Ivan đã nói. Nhưng phải làm gì nếu quyền lực muốn câu trả lời mà ta không thể cung cấp? “Có thể không chỉ là phụ nữ, thưa ngài,” Parker nói. “Người ta đang đồn đại về một thứ gọi là...”
“Nhìn này, Cứt Lợn,” Davy nói với tôi. Hắn đang cưỡi Deadfall hay còn gọi là Acorn đến một thân cây đối diện với cửa hiệu bị nổ tung.
Tôi thúc Angharrad, dùng cánh tay còn lành lặn điều khiển dây cương. Nó lách qua những mảnh gỗ, thạch cao, kính và thực phẩm vương vãi khắp nơi, như thể cửa hàng vừa hắt hơi sau một hồi nín nhịn. Chúng tôi lại gần Davy. Hắn đang chỉ vào một đống những mảnh vỡ có màu nhạt thếch thò ra khỏi thân cây.
“Vụ nổ lớn đến nỗi những mảnh vụn ghim thẳng vào thân cây,” hắn nói. “Lũ chó cái ấy.”
“Nó diễn ra vào đêm tối,” tôi đáp, chỉnh lại tay trong cái nẹp. “Họ không làm hại ai cả.”
“Lũ chó cái,” Davy lặp lại, và lắc đầu.
“Ông sẽ nộp lại số thuốc của mình, hạ sĩ,” chúng tôi nghe tiếng thị trưởng nói, đủ lớn để người của hạ sĩ Parker cùng nghe thấy. “Tất cả các người. Sự riêng tư là đặc quyền dành cho những người xứng đáng.”
Thị trưởng tảng lờ tiếng lẩm bẩm của hạ sĩ Parker, “Vâng, thưa ngài,” rồi quay sang nói khẽ và ngắn gọn với ông O’Hare và ông Morgan, rồi hai ông này bỏ đi theo các hướng khác nhau ngay sau đó. Thị trưởng lại gần chúng tôi, không nói thêm gì, mặt cau có như vừa bị tát. Morpeth ngạo nghễ nhìn ngựa của chúng tôi. Phục tùng, Tiếng Ồn của nó nói. Phục tùng. Phục tùng. Deadfall và Angharrad cùng cúi đầu rồi lùi lại.
Con ngựa nào cũng có chút điên khùng.
“Bố có muốn con đi săn bọn chúng không, bố?” Davy hỏi. “Săn lũ chó cái đã gây ra vụ nổ này?”
“Chú ý lời ăn tiếng nói,” thị trưởng đáp. “Cả hai đứa có việc phải làm.”
Davy liếc nhìn tôi và chìa chân trái của hắn ra. Phần dưới bị bó bột kín mít. “Bố?” hắn nói. “Nếu bố chưa để ý thì, con chẳng thể đi, còn thằng Cứt Lợn này thì đang phải buộc tay...”
Hắn chưa kịp nói hết câu thì một tiếng vút bay ra từ thị trưởng, nhanh hơn cả suy nghĩ, như một viên đạn làm từ Tiếng Ồn. Davy bật người ra sau, kéo dây cương mạnh đến nỗi làm Deadfall chồm lên trước, suýt hất Davy ngã phịch xuống đất. Davy lấy lại thăng bằng, thở nặng nhọc, mắt đảo vòng quanh.
Cái quái gì vậy?
“Hôm nay có giống ngày mà con có thể nghỉ làm không?” thị trưởng hỏi, ý nói đống đổ nát vương vãi trước mặt chúng tôi, khói vẫn đang bốc ở một số nơi.
Bị thổi tung.
(tôi đã giấu nó trong Tiếng Ồn, gắng hết sức để nén nó lại...)
(nhưng ở đâu đó, bị giấu kín, phập phồng bên dưới bề mặt...)
(là ý nghĩ về cây cầu từng bị thổi tung...)
Tôi ngoái lại và thấy thị trưởng đang nhìn mình chằm chằm nên buột miệng nói trước khi kịp suy nghĩ. “Không phải cô ấy,” tôi nói. “Tôi chắc chắn không phải là cô ấy.”
Ông ta chỉ tiếp tục nhìn. “Ta chưa từng nghĩ việc này là do cô bé làm, Todd ạ.”
Không mất quá lâu để chữa cánh tay cho tôi sau khi ông ta kéo tôi qua quảng trường đến phòng khám nơi những người đàn ông mặc áo choàng trắng buộc nó lại và tiêm cho tôi hai mũi thuốc nắn xương khiến tôi bị đau còn hơn cả lúc gãy tay, nhưng đến lúc ấy ông ta đã bỏ đi với lời hứa rằng tôi sẽ được gặp lại Viola vào tối ngày hôm sau (tối nay, tối nay) và đi xa khỏi tầm với của hàng triệu câu hỏi về việc tại sao ông ta lại ôm cô và gọi tên cô một cách thân thiết đến vậy và tại sao cô lại làm bác sĩ hay gì đó và tại sao cô phải về dự tang lễ và...
(và bằng cách nào tim tôi lại nổ tung trong lồng ngực khi nhìn thấy cô...)
(và nỗi đau trở lại vẹn nguyên khi cô rời đi...)
Rồi cô quay về với cuộc sống của riêng mình bằng cách nào đó cô đã sống tiếp khi không có tôi rồi chỉ còn tôi cùng cánh tay của mình trở về nhà thờ lớn để uống những viên thuốc giảm đau mạnh khiến tôi buồn ngủ đến mức ngã lăn xuống đệm mà không biết trời đất gì.
Tôi không tỉnh dậy khi thị trưởng Ledger trở về cùng Tiếng Ồn xám xịt đầy những lời ca thán sau một ngày lượm rác của ông ta. Tôi không tỉnh dậy khi bữa tối được mang đến và thị trưởng Ledger đã ăn sạch cả hai suất. Tôi không tính dậy khi chúng tôi bị nhốt lại vào cuối ngày cùng tiếng cạch ồn ào.
Nhưng tôi đã tỉnh dậy khi một tiếng BÙM! đánh thức cả thành phố.
Và mặc dù tôi đã ngồi dậy trong bóng tối, cảm thấy nôn nao vì số thuốc ngủ trong người, dù không biết tiếng BÙM ấy là gì, hay nó từ đâu đến, tôi cũng biết tình hình đã lại thay đổi, rằng một lần nữa thế giới lại chuyển mình.
Quả vậy, mặt trời chỉ mới ló dạng, thị trưởng và tôi cùng Davy và người của ông ta đã cưỡi ngựa ra ngoài, tiến thẳng đến nơi bị đánh bom. Tôi nhìn ông ta trên lưng Morpeth. Bình minh rọi xuống sau lưng, phủ bóng của ông ta lên vạn vật.
“Tối nay tôi vẫn được gặp cô ấy chứ?” tôi hỏi.
Sự im lặng kéo dài khi ông ta chỉ nhìn tôi chằm chằm.
“Ngài tổng thống?” hạ sĩ Parker gọi, trong lúc người của ông ta gỡ một miếng gỗ dài bị ghim vào một thân cây khác.
Có thứ gì đấy được vẽ lên thân cây bên dưới.
Dù không biết cách...
Chà, dù không biết nhiều, tôi cũng biết nó là cái gì.
Một chữ cái độc nhất, được phết lên thân cây bằng mực xanh.
C là chữ cái ấy. Chỉ một chữ C.
“Tao không thể tin được là ông ấy bắt chúng ta trở lại đó, chỉ một ngày sau khi chúng ta vừa trấn áp một vụ tấn công,” Davy lầm bầm trong lúc chúng tôi vượt qua quãng đường dài đằng đẵng tới tu viện.
Nói thực, tôi cũng không tin được. Davy gần như chẳng thể dùng một bên chân và mặc dù thuốc nắn xương đang mang lại hiệu quả, cũng phải mất vài ngày nữa mọi thứ mới trở lại bình thường. Tôi đã gập được tay nhưng chắc kèo là không thể dùng nó để chống trả một đội quân Xú Vật.
“Mày có nói với ông ấy rằng tao đã cứu mạng mày không?” Davy hỏi, nhìn có vẻ vừa giận dữ vừa bẽn lẽn.
“ Mày chưa nói ông ta sao?” tôi hỏi.
Davy mím môi, khiến bộ ria mép tí hon đáng buồn của hắn càng mỏng hơn nữa. “Ông ấy không chịu tin mỗi khi tao kể những chuyện như vậy.”
Tôi thở dài. “Tao đã nói với ông ta. Đằng nào thì ông ta cũng có thể thấy nó trong Tiếng Ồn của tao.”
Chúng tôi cưỡi ngựa trong im lặng trước khi Davy lại lên tiếng, “Ông ấy có nói gì không?”
Tôi ngập ngừng. “Ông ta đã nói, Tốt cho nó. ”
“Chỉ vậy thôi sao?”
“Ông ta đã nói tốt cho cả tao nữa.”
Davy cắn môi. “Chỉ có vậy hả?”
“Chỉ có vậy.”
“Hiểu rồi.” Và hắn không nói gì thêm, chỉ thúc Deadfall chạy nhanh hơn một chút.
Dù chỉ có một tòa nhà bị nổ tung trong đêm, trông cả thành phố vẫn thật khác lạ lúc chúng tôi cưỡi ngựa qua. Đám lính tuần bỗng đông hơn, diễu qua những con phố và những con hẻm thật nhanh như thể đang chạy. Họ đứng cả trên sân thượng, rải rác khắp nơi, tay cầm súng trường, lăm lăm đăm đăm chăm chăm giám sát.
Những người đàn ông không thuộc đội quân thì vội vàng đi thật nhanh từ nơi này đến nơi khác, trốn tránh phiền phức, đầu không ngẩng lên.
Sáng nay tôi không thấy bất kỳ người phụ nữ nào. Dù chỉ một người.
(không thấy cô)
(cô đang làm gì với ông ta?)
(có phải cô đang nói dối ông ta?)
(ông ta có tin lời cô?)
(cô có liên quan gì tới vụ nổ?)
“ Ai có liên quan gì đến vụ nổ?” Davy hỏi.
“Im mồm đi.”
“Thử bắt tao im coi,” hắn nói. Nhưng hắn không thực sự muốn cãi cọ.
Chúng tôi cưỡi ngựa qua đám lính đang áp giải một người đàn ông trông có vẻ như vừa bị đánh đập với hai tay trói chặt vào nhau. Tôi ép cánh tay đang quấn băng vào ngực rồi tiếp tục thúc ngựa. Mặt trời đã lên cao khi chúng tôi vượt qua đỉnh đồi có tòa tháp kim loại và vòng khúc cua cuối cùng dẫn đến tu viện.
Chẳng thể trì hoãn việc đến đó nữa.
“Chuyện gì xảy ra sau khi tao bỏ đi?” tôi hỏi.
“Bọn tao đánh chúng,” Davy nói, thở phì phò khe khẽ vì cơn đau đang lớn dần lên ở chân, cơn đau mà tôi có thể nhìn thấy trong Tiếng Ồn của hắn. “Bọn tao đã đánh chúng một trận ra trò.”
Một thứ gì đấy đậu xuống bờm của Angharrad. Tôi phủi nó đi, rồi một thứ khác lại đậu lên tay tôi. Tôi ngẩng lên nhìn.
“Cái quái gì vậy?” Davy hỏi.
Tuyết đang rơi.
Tôi chỉ được nhìn thấy tuyết một lần duy nhất trong đời, khi còn quá nhỏ để biết tôi sẽ gần như không bao giờ nhìn thấy tuyết rơi lần nữa.
Các bông tuyết trắng xóa rơi qua những rặng cây và rớt xuống mặt đường, bám lên quần áo và đầu tóc. Chúng rơi trong im lặng, và cách mà chúng khiến vạn vật trông cũng im lặng theo mới thật kỳ quái, như thể chúng đang tìm cách nói cho ta nghe một bí mật, một bí mật khủng khiếp.
Nhưng mặt trời đang rạng rỡ.
Và đây không phải là tuyết.
“Tro,” Davy nhổ nước miếng khi một bông tuyết đậu gần miệng hắn. “Họ đang đốt xác.”
Họ đang đốt xác. Đám lính vẫn đứng trên bờ tường, tay cầm súng, bắt những Xú Vật còn sống chất xác của những kẻ đã chết. Đống xác to bự chảng, cao hơn Xú Vật cao kều nhất, và nhiều cái xác khác vẫn được đám Xú Vật đang cúi gằm mặt, miệng nín thinh, khiêng đến.
Tôi nhìn một cái xác bị ném lên đỉnh của đống xác ấy. Nó viên xeo rớt xuống rồi lăn sang một bên, qua những cái xác khác, qua đống lửa, cho đến khi rớt xuống đám bùn bên dưới và dừng lại, ngửa mặt lên trời, ngực đầy những lỗ, máu khô trên miệng vết thương...
(một Xú Vật chết thẳng cẳng, ngửa mặt lên trời giữa khu cắm trại...)
(một Xú Vật với con dao giữa ngực...)
Tôi thở khó nhọc và nhìn đi chỗ khác.
Ngoài một vài tiếng lách cách, đám Xú Vật còn sống vẫn không có Tiếng Ồn. Không có âm thanh của sự đau buồn hay giận dữ hay bất kỳ cảm xúc nào về tất cả mớ hỗn độn mà họ đang phải dọn dẹp.
Như thể có người đã cắt phăng lưỡi họ.
Ivan đang ở đó đợi chúng tôi, súng kẹp nách. Sáng nay ông ta im lặng hơn thường lệ và mặt thì cau có.
“Các cậu phải tiếp tục đánh số,” ông ta nói, đá chiếc túi đựng dụng cụ và vòng đánh số. “Dù con số đã giảm.”
“Chúng ta đã giải quyết được bao nhiêu?” Davy hỏi, miệng toe toét cười.
Ivan nhún vai, vẻ khó chịu. “Ba trăm, ba trăm rưỡi, không biết chắc.”
Tôi cảm thấy một cái véo khác giữa bụng khi nghe thấy những lời ấy, nhưng nụ cười, của Davy chỉ càng rộng hơn. “Ngon đấy.”
“Tôi phải đưa cho cậu cái này,” Ivan nói, chìa khẩu súng ra cho tôi.
“Ông cho hắn vũ khí ư?” Davy hỏi, Tiếng Ồn của hắn bùng lên.
“Lệnh của tổng thống,” Ivan gắt. Ông ta vẫn chìa súng ra. “Cậu phải đưa nó lại cho lính trực đêm khi rời khỏi đây. Chỉ được dùng để tự vệ trong lúc ở tu viện.” Ông ta nhìn tôi, mặt cau có. “Tổng thống dặn tôi phải nói với cậu rằng ông ấy biết cậu sẽ làm điều đúng đắn.”
Tôi chỉ nhìn chằm chằm vào khẩu súng.
“Tôi không thể tin được điều chết tiệt này,” Davy rít lên và lắc đầu.
Tôi biết cách dùng súng trường. Ben và Cillian đã dạy tôi để tôi không tự thổi tung đầu, tôi biết cách dùng nó để đi săn, biết cách dùng nó chỉ khi cần thiết.
Điều đúng đắn.
Tôi ngước lên. Hầu hết Xú Vật đã lùi lại và rút về những cánh đồng ở phía xa, xa hết mức có thể, tránh khỏi cổng vào. Số còn lại đang kéo những cái xác rách rưới và gãy khúc tới đống lửa cháy bùng lên giữa cánh đồng bên cạnh.
Những Xú Vật có thể nhìn thấy tôi đều đang nhìn tôi.
Họ đang nhìn tôi nhìn khẩu súng.
Và tôi không thể nghe thấy suy nghĩ của họ.
Nên ai mà biết họ đang mưu tính gì?
Tôi nhận lấy khẩu súng.
Nó chẳng có nghĩa gì cả. Tôi sẽ không dùng nó. Tôi chỉ cầm nó thôi.
Ivan quay người bước về phía cổng để ra về và trong lúc ông ta làm vậy, tôi nhận ra một điều.
Tiếng rì rầm khe khẽ, chỉ đủ để nghe thấy, nhưng thực sự đang ở đó. Và đang lớn dần.
Thảo nào ông ta cau có đến vậy.
Thị trưởng cũng đã tước đi thuốc của ông ta.
Chúng tôi dành phần còn lại của buổi sáng để xúc thức ăn ra ngoài, đổ đầy những cái máng và rải vôi lên hố. Tôi lành một tay, Davy lành một chân, nhưng kể cả vậy vẫn mất nhiều thời gian hơn mức cần thiết vì tôi không nghĩ Davy đã sẵn sàng để tiếp tục đánh số bất kể hắn có ba hoa như thế nào đi nữa. Có thể cả hai chúng tôi đều đang có súng nhưng cũng cần chút thời gian để lại có thể đụng vào một đội quân từng suýt giết chết ta.
Sáng chuyển thành đầu giờ chiều. Lần đầu tiên, thay vì xí phần ăn trưa của cả hai, Davy ném cho tôi một cái bánh mì kẹp, trúng ngay giữa ngực.
Thế là chúng tôi vừa ăn vừa nhìn đám Xú Vật nhìn chúng tôi, nhìn đống xác cháy, nhìn một nghìn một trăm năm mươi Xú Vật còn sống sót sau vụ tấn công thất bại, thảm hại, bất thành. Họ tụ tập quanh rìa những cánh đồng, dọc bức tường của tu viện, xa khỏi chúng tôi, xa khỏi đống xác đang bốc cháy nhất có thể.
“Đáng lẽ đống xác ấy phải được ném xuống đầm lầy,” tôi nói, dùng cánh tay mệt lử để cầm bánh kẹp. “Xác của Xú Vật hợp với đầm lầy. Mày ném chúng xuống nước và...”
“Lửa là tốt cho chúng lắm rồi,” Davy nói, tựa vào chiếc túi đựng dụng cụ đánh số.
“Ờ, nhưng...”
“Không có nhưng nhị gì hết, Cứt Lợn.” Hắn cau có. “Mà tại sao mày phải bận tâm đến lợi ích của chúng? Sự tử tế của mày đâu có ngăn chúng muốn bứt đứt tay mày, không phải sao?”
Hắn nói đúng nhưng tôi không đáp trả, chỉ tiếp tục quan sát đám Xú Vật, cảm nhận khẩu súng trên lưng.
Tôi có thể dùng nó. Tôi có thể bắn Davy. Tôi có thể chạy khỏi đây.
“Mày sẽ bỏ mạng trước khi ra tới cổng,” Davy lẩm bẩm, mắt nhìn bánh mì kẹp của hắn. “Và con bé quý báu của mày cũng vậy.”
Tôi cũng không nói gì trước những lời ấy, chỉ ăn cho xong bữa trưa của mình. Từng đống thức ăn đã được xúc ra, từng cái máng đã được đổ đầy, từng miệng hố đã được rải vôi. Chẳng còn gì để làm ngoài việc phải làm.
Davy ngồi dậy từ nơi hắn đang tựa vào túi. “Đến đâu rồi?” hắn hỏi, mở miệng túi ra.
“0038,” tôi đáp, không rời mắt khỏi đám Xú Vật.
Hắn nhìn đống vòng kim loại và nhận ra tôi nói đúng. “Sao mày nhớ được?” hắn hỏi, vẻ kinh ngạc.
“Thì cứ nhớ vậy thôi.”
Họ đang nhìn chúng tôi, tất cả bọn họ. Mặt họ hốc hác, bầm giập, trống rỗng. Họ biết chúng tôi định làm gì. Họ biết chuyện gì sắp xảy ra. Họ biết trong túi đựng gì. Họ biết mình sẽ chẳng thể làm gì khác nếu không muốn bỏ mạng vì chống đối.
Vì tôi có khẩu súng sau lưng để biến điều đó thành hiện thực.
(điều đúng đắn là gì?)
“Davy,” tôi chực nói nhưng đó là tất cả những gì được thốt ra, vì...
BÙM!
... ở tít đằng xa, chẳng giống một tiếng động, mà như tiếng sấm xa xăm của cơn bão mà ta biết sẽ nhanh chóng ập tới hòng cuốn bay căn nhà của ta.
Chúng tôi quay lại, như thể chúng tôi có thể nhìn qua những bức tường, như thể bụm khói đã bay lên từ những ngọn cây bên ngoài cánh cửa.
Chúng tôi không thể và khói chưa bay lên.
“Lũ chó cái ấy,” Davy thì thầm.
Nhưng tôi đang nghĩ...
(có phải là cô không?)
(có phải là cô không?)
(cô đang làm cái gì vậy?)