Chương 21 HẦM MỎ
TÔI MỞ MẮT khi nghe thấy những tiếng đập cánh bên ngoài, một điều mà sau vài ngày ở đây tôi đã hiểu có nghĩa rằng lũ dơi đã về hang sau một đêm săn mồi, rằng mặt trời đang chuẩn bị ló dạng, rằng sắp đến giờ ra khỏi giường.
Một vài người phụ nữ đã bắt đầu cựa mình. Những người khác vẫn say sưa giả chết với thế giới, vẫn ngáy, vẫn đánh rắm, vẫn trôi nổi trong sự thinh không trống trơn của giấc ngủ.
Tôi dành một giây để ước gì mình vẫn đang trôi nổi như họ.
Khu vực ngủ đại khái chỉ là một căn lán dài, nền đất quét sạch, tường gỗ, cửa gỗ, lác đác vài ô cửa sổ và chỉ một lò sưởi bằng sắt không cung cấp đủ nhiệt lượng ở chính giữa. Còn lại là những dây giường kéo dài từ đầu này đến đầu kia, đầy nhóc những người phụ nữ đang say sưa ngủ.
Là người mới nhất, tôi phải nằm ở một đầu.
Và tôi đang nhìn người phụ nữ chủ nhân của chiếc giường ở đầu bên kia. Cô ngồi thẳng dậy, hoàn toàn kiểm soát cơ thể mình, như thể cô chưa từng thực sự ngủ mà chỉ nhấn nút tạm dừng cho đến khi có thể bắt đầu làm việc trở lại.
Bà Coyle cựa mình trên cũi, đặt chân xuống đất, rồi lướt mắt qua những người đang ngủ để tìm tôi.
Kiểm tra tôi trước tiên.
Rõ ràng để xem tôi có bỏ chạy giữa đêm hòng đi tìm Todd hay không.
Tôi không tin cậu đã chết. Và tôi cũng không tin cậu đã tiết lộ cuộc trò chuyện của chúng tôi cho thị trưởng.
Hẳn phải có một câu trả lời khác.
Tôi nhìn bà Coyle, không hề nhúc nhích.
Tôi chưa bỏ chạy, tôi nghĩ. Chưa.
Nhưng chủ yếu chỉ vì tôi không biết chúng tôi đang ở đâu.
Chúng tôi không ở gần đại dương. Không hề, ít nhất là theo những gì tôi biết, dù điều đó cũng chẳng nói lên gì nhiều vì bí mật là tôn chỉ ở khu trại này. Không ai cung cấp thông tin gì, trừ phi thực sự cần thiết, để phòng khi có người bị bắt trong một phi vụ đánh bom, hoặc, giờ đây khi Câu Trả Lời đã bắt đầu dùng hết những thứ như bột mì và thuốc, trong những vụ trộm nhu yếu phẩm.
Bà Coyle canh giữ thông tin như thể chúng là nguồn lực quý giá nhất của bà ta.
Tất cả những gì tôi biết là khu trại này nằm ở một hầm mỏ cũ, ban đầu được xây dựng bằng sự lạc quan vĩ đại sau những lần hạ cánh đầu tiên nhưng đã bị bỏ hoang chỉ sau vài năm, như nhiều thứ khác trên hành tinh này. Có vài căn lán dựng quanh các cửa hang sâu. Những căn lán, một số mới dựng, một số từ những ngày còn khai thác mỏ, được dùng để làm chỗ ngủ, nơi họp hành, nhà ăn và đủ loại mục đích khác.
Những cái hang - ít nhất là những cái hang không có dơi - là nơi chứa thực phẩm và nhu yếu phẩm, lúc nào cũng thiếu hụt một cách đáng lo ngại, lúc nào cũng được canh giữ nghiêm ngặt bởi bà Lawson, vẫn bực bội về những đứa trẻ mà bà ta phải bỏ lại và trút giận lên bất kỳ ai đến hỏi xin thêm một chiếc chăn vì lạnh.
Sâu trong những cái hang là hầm mỏ, ban đầu được đào để tìm than và muối, nhưng họ chẳng tìm thấy gì, rồi họ cố tìm kim cương và vàng, sau rốt cũng chẳng tìm thấy, mà chúng cũng đâu giúp gì được cho người ta ở một nơi như thế này. Hiện tại, hầm mỏ là nơi cất giữ vũ khí và chất nổ. Tôi không biết họ đã đưa chúng đến đây bằng cách nào hay họ lấy chúng từ đâu, nhưng nếu khu trại bị phát hiện, họ sẽ cho phát nổ toàn bộ, có lẽ là để sóa sạch chúng tôi khỏi thế giới này.
Khu trại ở gần một cái giếng tự nhiên và được khu rừng xung quanh che chắn. Lối ra vào duy nhất là xuyên qua những rặng cây ở cuối con đường mà tôi và bà Coyle đã đi qua, dốc đứng và rất khó đi nên ta sẽ nghe thấy bất kỳ kẻ xâm nhập nào từ tít đằng xa.
“Chúng sẽ đến,” bà Coyle nói với tôi ngay từ ngày đầu tiên. “Chúng ta chỉ cần đảm bảo là mình đã sẵn sàng để đối mặt với chúng.”
“Tại sao chúng chưa đến?” tôi hỏi. “Người ta hẳn phải biết nơi này có một hầm mỏ.”
Tất cả những gì bà ta làm là nháy mắt với tôi và chạm vào cánh mũi của mình.
“ Vậy nghĩa là gì?” tôi hỏi.
Nhưng đó là tất cả những gì tôi nhận được, vì thông tin là nguồn lực quý giá nhất của bà ta, chẳng phải sao?
Mỗi bữa sáng, tôi phải gánh chịu thái độ tẻ nhạt quen thuộc từ Thea và các học viên khác mà tôi nhận ra, không ai trong số họ nói với tôi một lời, họ vẫn trách tôi vì cái chết của Maddy, vẫn trách tôi vì đã làm một kẻ phản bội, chưa biết chừng còn trách tôi vì cuộc chiến ngu ngốc này.
Tôi chẳng bận tâm.
Không hề.
Tôi mặc kệ họ, đi đến nhà ăn, rồi cầm đĩa cháo xám xịt của mình ra chỗ những tảng đá gần một cửa hang để ngồi giữa cái lạnh buổi sáng. Trong lúc ăn, tôi nhìn khu trại đang bắt đầu thức giấc, sẵn sàng cho những việc mà những tên khủng bố dành cả ngày để làm.
Điều bất ngờ nhất là họ có ít người đến nhường nào. Có lẽ quân số chưa đến một trăm. Tất cả chỉ có vậy. Đó là Câu Trả Lời đáng gờm đang gây nên tất cả xáo trộn ở thị trấn Prentiss Mới bằng việc thổi tung mọi thứ. Một trăm người. Các thầy thuốc và những người học việc, các bệnh nhân cũ và những kẻ khác nữa, biến mất trong đêm rồi trở lại khi trời sáng, hoặc giữ cho khu trại hoạt động để những người rời đi có nơi mà về, hay chăm sóc vài con ngựa mà Câu Trả Lời sở hữu và đám bò kéo xe cùng lũ gà mái đẻ trứng và cả triệu việc khác cần làm.
Nhưng chỉ có một trăm người. Không đủ để thì thầm một lời cầu nguyện khi đội quân thực sự của thị trưởng hành quân tràn đến.
“Ổn chứ, Hildy?”
“Chào bác Wilf,” tôi nói trong lúc Wilf lại gần, tay cũng cầm một đĩa cháo. Tôi nhích người để Wilf có thể ngồi gần tôi. Ông không nói gì, chỉ ăn cháo và để yên cho tôi ăn.
“Wilf?” cả hai chúng tôi cùng nghe thấy. Jane, vợ của Wilf, đang đi tới, tay cầm hai cốc đồ uống bốc khói. Bà trèo lên những tảng đá về phía chúng tôi, loạng choạng, đánh đổ ít cà phê khiến Wilf phải nhồm người dậy, nhưng bà đã lấy lại thăng bằng. “Của hai bác cháu đây!” bà ấy nói, dúi cốc cà phê về phía chúng tôi.
“Cảm ơn bác,” tôi đáp, nhận cốc cà phê của mình.
Bà kẹp tay dưới nách cho đỡ lạnh rồi mỉm cười, mắt mở lớn nhìn xung quanh, như thể bà ăn bằng mắt. “Quá lạnh để ăn ở ngoài,” bà nói, như một lời gặng hỏi quá thân thiện bắt chúng tôi phải biện minh.
“Ừ,” Wilf nói, rồi lại xúc cháo.
“Cũng không quá tệ,” tôi trả lời, cũng lại xúc cháo.
“Hai bác cháu đã nghe vụ người ta trộm cửa hàng lúa mạch đêm qua chưa?” bà hỏi, hạ giọng thành một tiếng thì thầm nhưng bằng cách nào đó lại khiến nó càng ồn hơn. “Chúng ta lại có thể ăn bánh mì rồi!”
“Ừ,” Wilf đáp.
“Cháu có thích bánh mì không?” bà ấy hỏi tôi.
“Có ạ.”
“Cháu phải ăn bánh mì,” bà nói, với mặt đất, với bầu trời, với những tảng đá. “Cháu phải ăn bánh mì.”
Rồi bà trở về nhà ăn, không nói thêm một lời, dù Wilf không có vẻ bận tâm hay để ý. Nhưng tôi biết, tôi biết rõ rằng Tiếng Ồn bình lặng trong trẻo của Wilf, sự kiệm lời và vẻ trống trải ấy không hề đại diện cho toàn bộ con người ông, không hề.
Wilf và Jane là những người tị nạn. Họ đã bỏ chạy đến Haven trong lúc đội quân tràn tới phía sau, vượt qua chúng tôi khi Todd đang mê man vì cơn sốt ở Carbonel Downs. Jane đổ bệnh trên đường đi, và sau khi hỏi đường, Wilf đã đưa bà đến khu điều trị của bà Forth, nơi Jane vẫn đang trong quá trình hồi phục khi quân đội đánh chiếm Haven. Tiếng Ồn của Wilf không có lấy dù chỉ một chút dối trá, như mọi người đàn ông khác trên hành tinh này. Binh lính đã nghĩ ông là kẻ ngốc và cho phép ông đến thăm vợ khi không người đàn ông nào khác được làm vậy.
Khi những người phụ nữ bỏ chạy, Wilf đã trợ giúp. Tôi hỏi ông tại sao, ông chỉ nhún vai và nói, “Họ sẽ bắt Jane.” Ông giấu những người bị bệnh trên xe kéo trong lúc họ bỏ chạy, lắp một khoang xe ẩn để những người khác có thể trở lại làm nhiệm vụ, và suốt nhiều tuần lễ đã mạo hiểm tính mạng để đưa họ đến rồi đi, vì binh lính không nghĩ một người đàn ông thành thực như vậy lại có thể che giấu điều gì.
Tất cả những điều đó là một sự ngạc nhiên đối với lãnh đạo của Câu Trả Lời.
Nhưng không phải là sự ngạc nhiên đối với tôi.
Ông từng cứu tôi và Todd khi không cần phải làm vậy. Ông đã cứu Todd một lần nữa khi tình hình còn nguy hiểm hơn nhiều.
Thậm chí ông đã sẵn sàng quay lại vào cái đêm đầu tiên tôi đến khu trại này để giúp tôi tìm cậu, nhưng trung sĩ Hammar đã biết mặt Wilf, hắn nghĩ ông đã bị bắt, nên việc trở lại chẳng khác gì án tử.
Tôi xúc thìa cháo cuối cùng rồi thở dài trong lúc nhét nó vào miệng. Có thể tôi đang thở dài vì cái lạnh, vì món cháo tẻ nhạt, hay vì tôi chẳng có việc để làm ở khu trại này.
Nhưng, bằng cách nào đó, Wilf biết. Bằng cách nào đó, Wilf luôn luôn biết.
“Ta chắc rằng nó vẫn ổn, Hildy ạ,” ông nói, ăn nốt đĩa cháo của mình. “Nó là đứa biết sinh tồn, Todd của chúng ta ấy.”
Tôi ngước lên nhìn mặt trời se lạnh buổi sáng rồi lại nuốt, dù chẳng còn chút cháo nào trong miệng.
“Mạnh mẽ lên,” Wilf nói rồi đứng dậy. “Mạnh mẽ để đương đầu với những gì sắp xảy ra.”
Tôi chớp mắt. “Chuyện gì sắp xảy ra?” tôi cất tiếng hỏi trong lúc ông vừa bước về phía nhà ăn vừa uống cốc cà phê của mình.
Ông chỉ tiếp tục bước đi.
Tôi uống hết cốc cà phê, xoa tay để làm ấm chút đỉnh. Hôm nay tôi sẽ hỏi bà ta một lần nữa, không, tôi sẽ nói với bà ta, rằng tôi sẽ đi cùng trong nhiệm vụ lần tới, rằng tôi cần phải tìm...
“Em ngồi đây một mình sao?”
Tôi ngẩng đầu. Lee, anh lính tóc vàng, đang đứng đó, cười nhe răng.
Ngay lập tức tôi thấy mặt mình nóng lên.
“Không, không,” tôi nói, đứng thẳng dậy, quay lưng lại và nhặt đĩa.
“Em không cần phải bỏ đi...” anh ta nói.
“Không, em ăn xong rồi..”
“Viola...”
“Chỗ này là của anh đấy...”
“Ý anh không phải vậy...”
Nhưng tôi đã bỏ chạy về phía nhà ăn, chửi rủa chính mình vì đã đỏ mặt.
Lee không phải là người đàn ông duy nhất. Anh còn chưa đủ lớn để làm đàn ông, nhưng cũng như Wilf, anh và Magnus không thể giả vờ làm lính để đi vào thành phố nữa, khi giờ đây họ đã bị nhận diện.
Nhưng còn những người khác có thể. Vì đó là bí mật lớn nhất của Câu Trả Lời.
Ít nhất một phần ba số người ở đây là đàn ông, những người đàn ông giả vờ làm binh lính để đưa phụ nữ ra vào thành phố, những người đàn ông đang giúp bà Coyle lên kế hoạch và chọn mục tiêu, những người đàn ông có chuyên môn xử lý chất nổ, những người đàn ông tin vào lý tưởng và muốn chiến đấu chống lại thị trưởng cùng tất cả những gì ông ta đại diện cho.
Những người đàn ông đã mất vợ và con gái và mẹ và đang chiến đấu để bảo vệ họ hoặc để trả thù cho ký ức về họ.
Hầu hết là ký ức.
Lợi thế của Câu Trả Lời là mọi người nghĩ rằng họ chỉ toàn phụ nữ. Điều này cho phép đàn ông ra vào thị trấn, dù thị trưởng hắn phải nghi ngờ, đó là lý do vì sao ông ta đang lấy lại phần lớn thuốc chữa Tiếng Ồn từ đội quân của mình, là lý do vì sao số thuốc dự trữ của Câu Trả Lời lại là một gánh nặng thay vì một lợi thế.
Tôi ngoái đầu nhìn Lee thật nhanh.
Tôi không chắc lý do anh ở đây.
Tôi chưa thể...
Tôi chưa có cơ hội để hỏi anh.
Tôi mơ màng bước tới cửa nhà ăn, nó mở ra trước khi tôi kịp cầm tay nắm.
Tôi ngước lên nhìn vào mặt bà Coyle.
Tôi thậm chí không thèm chào bà ta.
“Đưa tôi đi cùng trong nhiệm vụ lần tới,” tôi nói.
Vẻ mặt của bà ta không hề thay đổi. “Cháu biết tại sao mình không được phép.”
“Todd sẽ gia nhập với chúng ta,” tôi nói. “Ngay lập tức.”
“Những người khác không chắc về điều đó, cô gái của ta ạ.” Tôi mở miệng chực đáp trả nhưng bà ta đã cắt lời. “Ngay cả nếu cậu ta còn sống thì cũng không quan trọng, vì chúng ta không thể để cháu bị bắt. Cháu là phần thưởng quý giá nhất. Cô gái có thể giúp tổng thống khi phi hành đoàn hạ cánh.”
“Tôi...”
Bà ta giơ tay lên. “Ta sẽ không cãi nhau với cháu về chuyện này nữa. Có quá nhiều việc quan trọng cần phải làm.”
Khu trại có vẻ im ắng. Những người đứng sau bà Coyle đã ngừng di chuyển trong lúc chúng tôi nhìn nhau chằm chằm, không ai bảo bà ta tránh đường, kể cả bà Forth và bà Nadari, họ đều kiên nhẫn đứng đợi. Cũng như Thea, họ hầu như chưa nói với tôi câu nào kể từ khi tôi đến đây, những thầy dòng của bà Coyle, những người không dám dù chỉ là mơ về việc nói chuyện với bà ta theo cái cách mà tôi đang nói.
Họ đối xử với tôi như thể tôi là một kẻ nguy hiểm.
Tôi hơi ngạc nhiên khi nhận ra mình thích điều đó.
Tôi nhìn thẳng vào mắt bà ta, vào vẻ không nhượng bộ trong ánh mắt. “Tôi sẽ không tha thứ cho bà,” tôi nói khẽ, như thể chỉ cho mình bà ta nghe thấy. “Tôi sẽ không tha thứ. Không bao giờ.”
“Ta không cần sự tha thứ của cháu,” bà ta đáp, cũng nhỏ nhẹ không kém. “Nhưng một ngày nào đó, cháu sẽ hiểu.”
Rồi mắt bà ta lóe lên và miệng nở một nụ cười. “Cháu biết không,” bà ta nói, cao giọng. “Ta nghĩ đã đến lúc cháu làm việc rồi.”