← Quay lại trang sách

Chương 25 Đêm hôm ấy

“TA CẦN CHÁU GIÚP,” bà Lawson nói, đứng ở ngưỡng cửa nhà bếp.

Tôi xòe tay ra, tay tôi phủ đầy bột. “Tôi đang dở việc...”

“Chính bà Coyle bảo ta đến triệu tập cháu.”

Tôi cau mày. Tôi không thích từ triệu tập . “Vậy ai sẽ chuẩn bị bánh mì cho ngày mai? Lee đã ra ngoài kiếm củi...”

“Bà Coyle nói cháu có kinh nghiệm kiểm kê vật tư y tế,” bà Lawson cắt lời. “Chúng ta đã mang về thêm rất nhiều và cô gái mà ta quản lý không biết phân loại chúng.”

Tôi thở dài. Ít nhất cũng tốt hơn là nấu nướng.

Tôi đi theo bà ra bóng tối bên ngoài, vào một cửa hang, qua những lối đi dài dằng dặc cho tới khi chúng tôi bước vào một cái động lớn nơi cất giữ phần lớn số quân nhu quý giá nhất.

“Sẽ tốn thời gian đấy,” bà Lawson nói.

Chúng tôi dành phần lớn buổi tối cho tới tận đêm để kiểm đếm xem mình có bao nhiêu thuốc men, băng gạc, ga trải giường, ête, ga rô, vòng chẩn đoán, đai đo huyết áp, ống nghe, áo choàng, viên lọc nước, thanh nẹp, tăm bông, bàn kẹp, viên rễ cây đen, cao dán và mọi thứ khác mà chúng tôi tích trữ, phân loại chúng thành nhiều chồng nhỏ, rồi dàn trải chúng ra khắp động chứa quân nhu, đến tận cửa đường hầm chính.

Tôi chùi mô hôi lạnh khỏi trán. “Chẳng phải chúng ta nên xếp lại những thứ này sao?”

“Chưa đến lúc,” bà Lawson nói. Bà nhìn những chồng vật tư y tế gọn ghẽ mà chúng tôi đã phân loại. Bà xoa tay vào nhau, nét cau mày lo lắng hiện lên trên mặt. “Ta hy vọng thế này là đủ.”

“Đủ để làm gì?” Tôi dõi theo trong lúc bà đi lại từ chồng này sang chồng khác. “Đủ để làm gì, bà Lawson?”

Bà ngước nhìn tôi, cắn môi. “Kiến thức chữa bệnh của cháu còn lại bao nhiêu?”

Tôi nhìn bà ấy chằm chằm trong giây lát, cảm giác nghi ngờ không ngừng dâng lên, rồi tôi bắt đầu chạy. “Đợi đã!” bà gọi với theo, nhưng tôi đã ra đến đường hầm chính, ra khỏi cửa hang và phóng đến khu trại.

Nó trống trơn.

“Đừng giận,” bà Lawson nói sau khi tôi đã tìm kiếm một lượt tất cả các căn lán.

Tôi đứng đó ngớ ngẩn chống nạnh, nhìn quanh khu trại trống trơn. Sau khi tìm một việc cho tôi làm để đánh lạc hướng, bà Coyle đã rời đi, cùng tất cả những thầy thuốc khác, ngoại trừ bà Lawson. Thea và các học viên còn lại cũng đã biến mất.

Và tất cả mọi người. Tất cả những chiếc xe kéo, ngựa và bò.

Và Lee.

Wilf cũng đã đi khỏi, dù Jane vẫn ở lại đây, người duy nhất còn ở lại.

Là đêm nay.

Đêm chuyện ấy xảy ra.

“Cháu biết tại sao bà ấy không thể đưa cháu đi cùng mà,” bà Lawson nói.

“Bà ta không tin tôi,” tôi nói. ”Các người không ai tin tôi.”

“Lúc này điều đó không quan trọng,” bà nói, giọng lấy lại vẻ nghiêm nghị của thầy thuốc mà tôi đã dần thấy ghét. “Điều quan trọng là khi họ trở lại, chúng ta sẽ cần tất cả những người biết chữa trị.”

Tôi chực cãi lại nhưng nhận ra bà vẫn đang vặn vẹo tay, mặt đầy vẻ lo lắng, bao nhiêu thứ đang sôi sục dưới vẻ ngoài ấy.

Rồi bà nói, “Nếu có người nào trở lại.”

Chẳng còn gì để làm ngoài chờ đợi. Jane pha cà phê và chúng tôi ngồi hứng chịu cái lạnh ngày càng dữ dội, mắt dán vào con đường dẫn ra khỏi rừng, nhìn xem ai sẽ quay lại theo lối đó.

“Sương giá,” Jane nói, chọc một ngón chân vào lớp băng mỏng bám trên tảng đá dưới chân.

“Đáng lẽ chúng ta phải làm điều này sớm hơn,” bà Lawson nói, cúi xuống nhìn cốc cà phê đang bốc khói. “Đáng lẽ chúng ta phải làm trước khi chuyển mùa.”

“Làm gì ?” tôi hỏi.

“Giải cứu,” Jane nói. “Wilf đã nói với ta trước khi lên đường.”

“Giải cứu ai?” tôi nói, dù dĩ nhiên chỉ có thể là...

Chúng tôi nghe tiếng đá văng lạo xạo trên đường. Khi Magnus chạy xuống đồi thì chúng tôi đã đứng cả dậy. “Nhanh lên!” ông hét. “Đi nào!”

Bà Lawson chộp lấy một số thuốc men và dụng cụ y tế khẩn cấp nhất rồi chạy theo ông. Jane và tôi làm theo.

Chúng tôi chạy được nửa đường thì họ ra khỏi rừng.

Trên những chiếc xe kéo, trên vai nhau, trên cáng, trên lưng ngựa, thêm nhiều người đổ ra từ con lộ sau lưng họ, và trên cả đỉnh đồi sau đó nữa.

Tất cả những người cần được giải cứu.

Những tù nhân bị thị trưởng và đội quân của ông ta bắt nhốt.

Và tình trạng của họ...

“Ôi Chúa ơi,” Jane nói khẽ bên cạnh tôi, cả hai chúng tôi đã dừng khựng lại, bàng hoàng.

Ôi, Chúa ơi.

Những giờ sau đó là một mớ hỗn loạn, chúng tôi chạy ngang dọc để đưa những người bị thương vào trại, dù vài người trong số họ bị thương nặng đến nỗi chúng tôi phải chữa cho họ ngay tại chỗ. Hết thầy thuốc này đến thầy thuốc khác gọi tôi, tôi phải chạy từ người bị thương này đến người bị thương khác, quay lại lấy nhiều thuốc và dụng cụ hơn, mọi thứ diễn ra nhanh đến nỗi phải mất một lúc tôi mới nhận ra hầu hết vết thương không phải là do chiến đấu.

“Họ đã bị đánh,” tôi nói.

“Và bị bỏ đói,” bà Lawson giận dữ nói, chuẩn bị túi truyền cho một người phụ nữ mà chúng tôi vừa đưa vào hang. “Và bị tra tấn.”

Đó mới chỉ là một người, số người bọn họ hứa hẹn còn tăng lên mãi. Hầu hết vẫn còn quá sửng sốt để nói chuyện, chỉ nhìn chằm chẳm vào ta trong sự yên lặng khủng khiếp nhất hoặc thảm thiết khóc không nên lời, những vết sẹo bỏng trên tay và mặt, những vết thương cũ không được chữa trị, cặp mắt sâu hõm của những người phụ nữ bị bỏ đói hết ngày này qua ngày khác.

“Ông ta đã làm chuyện này,” tôi nói với chính mình. “Ông ta đã làm chuyện này.”

“Bình tĩnh lại, cô gái của ta,” bà Lawson nói. Chúng tôi lại chạy ra ngoài, tay ôm đầy những miếng băng gạc còn khuya mới đủ dùng. Bà Braithwaite điên cuồng vẫy tay gọi tôi lại. Bà giật một miếng băng gạc từ tay tôi, vội vàng quấn quanh chân người phụ nữ đang gào thét bên dưới bà. “Rễ cây đen!” bà Braithwaite gắt gỏng.

“Tôi không mang theo,” tôi đáp.

“Thì đi lấy lẹ lên!”

Tôi quay lại hang, vòng qua các thầy thuốc và những người học việc và những người đóng giả làm lính đang quỳ xuống cạnh bệnh nhân ở khắp nơi, trên sườn đồi, trên xe kéo, khắp mọi nơi. Không chỉ có phụ nữ bị thương. Tôi thấy cả các nam tù nhân, cũng bị bỏ đói, cũng bị đánh đập. Tôi thấy người của Câu Trả Lời bị thương trong chiến đấu. Wilf cũng có một miếng băng trị bỏng dán trên mặt, dù ông vẫn phụ một tay khiêng các bệnh nhân nằm cáng vào trại.

Tôi chạy vào hang, lấy thêm nhiều băng gạc và rễ cây đen, rồi quay ra cái mương lần thứ một chục. Tôi chạy qua bãi đất trống và nhìn lên con đường, nơi một số người khác vẫn đang được đưa đến.

Tôi dừng lại một giây để kiểm tra những gương mặt mới đến trước khi chạy ra chỗ bà Braithwaite.

Bà Coyle vẫn chưa về.

Lee cũng vậy.

“Nó lao vào giữa đám hoảng loạn,” bà Nadari nói, trong lúc tôi giúp bà đỡ một người phụ nữ vừa được cho thuốc đứng dậy. “Như thể nó đang tìm ai đó.”

“Mẹ và chị gái của anh ấy,” tôi nói, đỡ lấy người phụ nữ kia.

“Chúng ta không cứu được tất cả,” bà Nadari nói. “Còn một tòa nhà mà bom không phát nổ...”

“Siobhan!” chúng tôi nghe có tiếng người hét gọi đằng xa.

Tôi quay lại, tim đập nhanh hơn và mạnh hơn so với những gì tôi trông đợi, một nụ cười vén hai bên má tôi lên. “Anh ấy đã tìm thấy họ!”

Nhưng ngay lập tức ta có thể thấy rằng đó không phải là sự thật.

“Siobhan?” Lee đang chạy xuống đường rừng, tay áo và vai đồng phục của anh đen sì, mặt đầy bồ hóng, mắt đảo qua những người đang có mặt trong lúc chạy ngang qua họ. “Mẹ?”

“Đi đi,” bà Nadari nói với tôi. “Xem nó có bị thương không.”

Tôi để người phụ nữ tựa vào bà Nadari rồi chạy về phía Lee, bỏ ngoài tai tiếng các thầy thuốc khác gọi tên mình.

“Lee!” tôi gọi.

“Viola?” anh nói khi nhìn thấy tôi. “Họ có ở đây không? Em có thấy họ không?”

“Anh có bị thương không?” tôi lại gần anh, chạm vào ống tay áo đen sì và nhìn xuống hai bàn tay. “Anh bị bỏng rồi.”

“Lửa,” anh nói, và tôi nhìn vào mắt anh. Anh đang nhìn tôi nhưng không thấy tôi, anh thấy những gì đã diễn ra ở nhà ngục, anh thấy lửa và những gì mà nó che lấp, thấy những tù nhân mà họ tìm được, có lẽ thấy cả những tên lính canh mà anh đã phải giết.

Anh không thấy mẹ và chị gái của mình.

“Họ có ở đây không?” anh hỏi. “Hãy nói với anh rằng họ ở đây.”

“Em không biết họ trông như thế nào,” tôi nói khẽ.

Lee nhìn tôi chằm chẳm, miệng hé mở, hơi thở nặng nề và đứt quãng, như thể anh đã hít phải quá nhiều khói. “Nó...” anh nói. “Ôi, Chúa ơi, Viola, nó thật...” Anh ngẩng đầu lên, nhìn ra sau tôi, qua vai tôi. “Anh phải tìm họ. Họ phải ở đây.”

Anh đi qua tôi, dọc theo con mương. “Siobhan? Mẹ? ” Tôi không thể ngăn mình gọi với theo anh. “Lee? Anh có thấy Todd không?”

Nhưng anh chỉ tiếp tục loạng choạng bước đi.

“Viola!” tôi nghe có tiếng gọi. Ban đầu tôi nghĩ đó chỉ là một thầy thuốc khác đang gọi tôi lại giúp.

Nhưng một giọng nói bên cạnh tôi thốt lên, “Bà Coyle!” Tôi quay lại và ngẩng lên nhìn. Bà Coyle đang cưỡi ngựa, lộp cộp chạy trên con đường đầy sỏi đá gồ ghề nhanh hết mức mà con ngựa có thể. Có người đang ngồi trên lưng ngựa đằng sau bà ta, được buộc chặt vào người bà ta cho khỏi ngã. Tôi cảm thấy một cái giật thót đầy hy vọng. Có thể đó là Siobhan. Hoặc mẹ của Lee.

(hoặc cậu, có thể là cậu, có thể...)

“Giúp ta một tay, Viola!” bà Coyle hét lên, ghì cương ngựa.

Trong lúc tôi chạy lên đồi về phía họ, con ngựa quay người để dừng lại và tôi nhìn thấy đó là ai, người đang bất tỉnh và dặt dẹo.

Corinne.

“Không,” tôi không ngừng nói qua kẽ răng mà chẳng nhận ra mình đang làm vậy. “Không, không, không, không,” trong lúc chúng tôi đặt cô xuống một tảng đá phẳng và trong lúc bà Lawson tức tốc chạy về phía chúng tôi với hai tay ôm đồm đầy những băng gạc và thuốc. “Không, không, không,” trong lúc tôi dùng hai bàn tay đỡ lấy đầu cô để nó khỏi phải tựa lên nền đá cứng và bà Coyle xé ống tay áo của Corinne ra để chuẩn bị truyền dịch. “Không” trong lúc bà Lawson chạy được đến chỗ chúng tôi và thở gấp khi nhận ra đó là ai.

“Bà đã tìm được nó,” bà Lawson nói.

Bà Coyle gật đầu. “Tôi đã tìm được nó.”

Tôi cảm nhận xương sọ của Corinne trong tay, cảm nhận làn da đang nóng bừng vì sốt. Hai má cô hốc hác, những vết thâm khiến vùng xung quanh mắt cô đổi màu, da chảy xệ và thiếu sinh khí. Và xương đòn nhô lên khỏi cổ áo choàng rách rưới và dơ bẩn. Và những vết bỏng hình tròn quanh cổ. Và những vết cắt trên cẳng tay. Và những ngón tay bị bứt móng.

“Ôi, Corinne,” tôi thì thầm, nước mắt của tôi rớt xuống trán cô. “Ôi, không.”

“Ở lại với chúng ta, cô gái của ta,” bà Coyle nói, tôi không biết bà ta đang nói với tôi hay với Corinne.

“Thea?” bà Lawson hỏi, vẫn không ngẩng đầu lên.

Bà Coyle lắc đầu.

“Thea chết rồi sao?” tôi hỏi.

“Và bà Waggoner,” bà Coyle đáp, rồi tôi nhận thấy mặt bà ta đen sì, những vết bỏng đỏ lừ giận dữ trên trán. “Cả những người khác nữa.” Bà ta mím chặt môi. “Nhưng chúng ta cũng đã hạ được kha khá tên trong số chúng .”

“Cố lên, cô gái của ta,” bà Lawson nói với Corinne, người vẫn đang bất tỉnh. “Cháu luôn là đứa bướng bỉnh. Chúng ta cần điều đó vào lúc này.”

“Cầm lấy,” bà Coyle nói, đưa cho tôi túi truyền dịch đang gắn với một chiếc ống cắm vào tay Corinne. Toi càm nó trong một tay, đặt đầu Corinne lên lòng mình.

“Đây rồi,” bà Lawson nói, bóc ra mảnh vải đã khô cứng trên hông Corinne. Một mùi khủng khiếp xộc vào mũi chúng tôi.

Nó khủng khiếp không chỉ vì mùi. Mà còn vì ý nghĩa của nó.

“Hoại tử,” bà Coyle nói chẳng cho ai nghe, vì tất cả chúng tôi đều biết đây không chỉ là nhiễm trùng. Mùi này có nghĩa là các tế bào đã chết. Có nghĩa là vết hoại tử đang ăn tươi nuốt sống cô. Một kiến thức mà tôi ước gì mình không nhớ rằng chính Corinne đã dạy cho tôi biết.

“Chúng thậm chí không thèm chữa trị cơ bản cho con bé,” bà Lawson gầm gừ, đứng dậy rồi chạy về phía cửa hang để lấy những loại thuốc nặng đô nhất mà chúng tôi có.

“Cố lên nào, cô gái cứng đầu của ta,” bà Coyle nói khẽ, vuốt trán Corinne.

“Bà đã ở lại cho đến khi tìm được cô ấy,” tôi nói. “Đó là lý do vì sao bà là người cuối cùng trở về.”

“Nó không bao giờ đầu hàng, con bé này,” bà Coyle nói, giọng khàn đặc nhưng không chỉ vì khói. “Bất kể chúng đã làm gì với nó.”

Chúng tôi nhìn xuống mặt Corinne, mắt cô vẫn nhắm chặt, miệng mở ra, hơi thở yếu ớt.

Bà Coyle nói đúng. Corinne không bao giờ đầu hàng, không bao giờ tiết lộ những cái tên hay cung cấp thông tin, cô sẽ nhận hình phạt để những người con gái, những bà mẹ khác không phải nhận lấy chúng.

“Vết nhiễm trùng,” tôi nói, cổ họng nghẹn lại. “Mùi ấy, có nghĩa là...”

Bà Coyle chỉ cắn chặt môi và lắc đầu.

“Ôi, Corinne,” tôi nói. “Ôi, không.”

Và ngay ở đó, ngay trên lòng bàn tay tôi, trong lòng tôi, mặt hướng về phía tôi...

Cô trút hơi thở cuối.

Chỉ có im lặng khi điều đó xảy ra. Không ồn ào hay vật vã hay quằn quại hay bất kỳ điều gì khác. Cô chỉ chìm vào im lặng, sự im lặng mà ta biết sẽ không bao giờ kết thúc ngay khi ta nghe thấy nó, sự im lặng bóp nghẹt mọi thứ xung quanh, tắt đi mọi tiếng ồn của thế giới.

Thật ra, thứ duy nhất mà tôi có thể nghe thấy là tiếng thở của mình, nặng nề và ướt át như thể tôi sẽ không bao giờ cảm thấy nhẹ nhõm nữa. Và trong sự im lặng của tiếng thở, tôi nhìn xuống triền đồi, tôi nhìn thấy những người bị thương xung quanh chúng tôi, miệng họ gào khóc kêu đau, mắt họ trống rỗng trước những cảnh tượng khiếp đảm họ vẫn đang phải trông thấy dù đã được giải cứu. Tôi thấy bà Lawson đang chạy về phía chúng tôi, tay cầm thuốc, đã quá muộn, quá muộn rồi. Tôi thấy Lee, đang quay trở lại dọc theo con đường, gọi tên mẹ và chị gái, chưa chịu tin rằng giữa tất cả những hỗn loạn này, họ vẫn không ở đây.

Tôi nghĩ đến thị trưởng đang ở trong nhà thờ lớn của hắn, đưa ra những lời hứa, thốt lên những lời dối trá.

(tôi nghĩ đến Todd trong tay thị trưởng)

Tôi nhìn xuống Corinne đang gối đầu lên lòng mình, Corinne, người chưa từng thích tôi, chưa từng dù chỉ một làn, nhưng vẫn đổi mạng cho tôi.

Chúng ta là những lựa chọn mình đưa ra.

Khi tôi ngẩng lên nhìn bà Coyle, nước mắt khiến mọi thứ chói lòa và tỏa ra những tia sáng sắc nhọn, khiến hừng đông đang ló dạng chỉ còn là một vệt mờ ảo vắt ngang bầu trời.

Nhưng tôi vẫn có thể nhìn thấy bà ta đủ rõ.

Răng tôi nghiến chặt, giọng đặc quánh như bùn.

“Tôi đã sẵn sàng,” tôi nói. “Tôi sẽ làm bất cứ điều gì bà muốn.”