Chương 28 Binh sĩ
“SUỴT,” bà Coyle nói, đặt một ngón tay lên môi.
Gió đã lặng, ta có thể nghe thấy tiếng bước chân của chúng tôi đạp gãy những cành khô dưới gốc. Chúng tôi dừng bước, dỏng tai nghe tiếng lính đi tuần.
Không có gì.
Vẫn không có gì.
Bà Coyle gật đầu rồi tiếp tục đi xuống sườn đồi, len lỏi qua những thân cây. Tôi bám theo bà ta. Chỉ có hai người chúng tôi.
Tôi và bà ta và quả bom đang buộc trên lưng tôi.
Vụ cướp ngục đã giải cứu được 132 tù nhân. 29 người chết trên đường về hoặc ở khu trại. Corinne là người thứ 30. Có những người chưa được giải thoát, như bà Fox già tội nghiệp, những người mà tôi hẳn sẽ không bao giờ biết được số phận của họ ra sao. Nhưng bà Coyle ước đoán chúng tôi đã giết được ít nhất hai mươi tên lính. Bằng một phép màu nào đó, chỉ có sáu thành viên của Câu Trả Lời thiệt mạng, bao gồm Thea và bà Waggoner, nhưng năm người khác đã bị bắt và trăm phần trăm là họ sẽ bị tra tấn để moi thông tin về nơi ẩn náu của Câu Trả Lời.
Vậy nên chúng tôi đã rời đi. Ngay lập tức.
Thậm chí trước khi những người bị thương có thể tự bước đi, chúng tôi đã chất nhu yếu phẩm, vũ khí và tất cả những gì mình có thể mang theo lên xe kéo, lên lưng ngựa và lưng những người có thể khiêng vác, rồi bỏ chạy vào rừng, không ngừng di chuyển xuyên đem, suốt ngày tiếp theo, và cả đêm sau đó, đến khi dừng chân tại một hồ nước dưới chân một vách đá, ở đó ít nhất chúng tôi sẽ có nước uống và chỗ trú thân.
“Ở đây là được rồi,” bà Coyle nói.
Chúng tôi cắm trại quanh bờ hồ.
Rồi bắt đầu chuẩn bị cho cuộc chiến.
Bà ta ra hiệu bằng tay và ngay lập tức tôi cúi mình núp xuống bụi rậm. Chúng tôi đang đi trên một con đường hẹp rẽ ra đường chính, và tôi có thể nghe thấy một toán lính đang Ồn Ào di chuyển ra xa.
Nguồn dự trữ thuốc chữa Tiếng Ồn của chúng tôi đang vơi đi từng ngày, và bà Coyle đã phải thiết lập giới hạn về khẩu phần thuốc, nhưng sau vụ đột kích, tình hình đã trở nên quá nguy hiểm để bất kỳ người đàn ông nào, dù có hay không có Tiếng Ồn, đi vào thị trấn, nghĩa là họ không thể giấu chúng tôi trong khoang xe để đi đến các mục tiêu dễ dàng được nữa. Chúng tôi phải đi xe đến một vị trí nhất định ngoài rìa thị trấn rồi đi bộ nốt quãng đường còn lại.
Việc trốn thoát sẽ khó khăn hơn, vậy nên chúng tôi phải hành động cẩn thận hơn.
“Được rồi,” bà Coyle thì thầm.
Tôi đứng dậy. Hai mặt trăng là nguồn sáng duy nhất của chúng tôi.
Chúng tôi khom mình băng qua đường.
Sau khi chúng tôi chuyển đến bên hồ, sau vụ giải cứu tất cả những con người ấy, sau cái chết của Corinne...
Sau khi tôi gia nhập Câu Trả Lời...
Tôi bắt đầu học thêm nhiều điều.
“Tập huấn cơ bản,” bà Coyle gọi nó như vậy. Do bà Braithwaite phụ trách và dành cho không chỉ tôi mà còn cho tất cả những bệnh nhân đã đủ khỏe để gia nhập, tức là hầu hết bọn họ, đông hơn ta tưởng, chúng tôi học cách nạp đạn và bắn súng trường, kiến thức du kích cơ bản, thao diễn ban đêm, truy tìm dấu vết, giao tiếp bằng cử chỉ, mật mã.
Cách cài và kích hoạt một quả bom.
“Làm sao bà lại biết tất cả những thứ này?” tôi hỏi trong một bữa tối nọ, toàn thân rã rời và đau nhức vì chạy và lặn và khiêng vác suốt ngày. “Các bà là thầy thuốc. Làm sao các bà lại biết cách...”
“Điều hành một đội quân?” bà Coyle nói. “Cháu đã quên cuộc chiến Xú Vật rồi.”
“Hồi đó bọn ta là một đơn vị độc lập,” bà Forth nói vọng lên từ cuối bàn, đang khụt khịt ngửi một bát xúp.
Các bà đã bắt đầu nói chuyện với tôi, kể từ khi họ thấy tôi tập luyện vất vả đến mức nào.
“Bọn ta không được mến mộ cho lắm,” bà Lawson cười khúc khích từ chỗ ngồi đối diện bà Forth.
“Bọn ta không thích cách một số tướng lĩnh điều hành cuộc chiến,” bà Coyle nói với tôi. “Bọn ta cho rằng cách tiếp cận ngầm sẽ hiệu quả hơn.”
“Và vì bọn ta không có Tiếng Ồn,” bà Nadari nói, “bọn ta có thể lẻn vào mọi chỗ, chẳng phải sao?”
“Nhưng đám đàn ông lãnh đạo lại không cho rằng bọn ta là câu trả lời cho rắc rối của họ,” bà Lawson nói, vẫn cười khúc khích.
“Bởi vậy mà cái tên ấy đã ra đời,” bà Coyle nói.
“Rồi khi chính phủ mới được thành lập và thành phố được tái xây dựng,” bà Forth nói, “sẽ chẳng khôn ngoan nếu không nghĩ tới việc cất trữ những tài sản quan trọng, phòng khi cần kíp.”
“Chất nó trong hầm mỏ,” tôi nói, ngộ ra sự thật. “Các bà đã giấu chúng ở đó suốt bấy lâu nay.”
“Và đó mới là quyết định sáng suốt làm sao,” bà Lawson nói. “Nicola Coyle luôn là một người phụ nữ biết nhìn xa trông rộng.”
Tôi chớp mắt trước cái tên Nicola, như thể chẳng lý nào bà Coyle lại có tên.
“Ờ, thì,” bà Coyle đáp. “Đàn ông là những sinh vật hiếu chiến. Một người khôn ngoan sẽ luôn nhớ lấy điều đó.”
Mục tiêu của chúng tôi không có người canh gác, như đã dự liệu. Nó nhỏ, nhưng mang tính biểu tượng, cái giếng phía trên một dải nông trại ở mé Đông thành phố. Cái giếng và máy bơm chỉ cung cấp nước cho cánh đồng bên dưới, không phải một hệ thống khổng lồ hay một dãy nhà liền kề. Nhưng nếu thành phố tiếp tục để cho thị trưởng bắt nhốt người, để ông ta tra tấn và giết chết họ, thì thành phố không đáng được ăn.
Nó cũng cách xa trung tâm thành phố, nên không có cơ hội cho tôi gặp Todd.
Một việc mà tôi sẽ không cự cãi. Vào lúc này.
Chúng tôi men theo con đường hẹp, vẫn đi dưới cái rãnh ven đường, nín thở trong lúc đi qua nông trại đang ngủ yên, đèn vẫn sáng ở tầng trên nhưng đã quá muộn nên chỉ có thể là để bảo đảm an ninh.
Bà Coyle lại ra hiệu và tôi đi qua mặt bà ta, luồn dưới dây phơi quần áo đang treo bên ngoài. Tôi vấp chân phải một chiếc xe đồ chơi nhưng vẫn gắng gượng giữ được thăng bằng.
Quả bom theo lý thuyết là rất an toàn, có thể chịu được bất kỳ chấn rung hay va chạm nào.
Dẫu như vậy.
Tôi thở hắt rồi tiếp tục tiến về cái giếng.
Ngay cả trong những tuần lẫn trốn, khi chúng tôi không hề tiếp cận thành phố, những tuần chúng tôi án binh bất động, luyện tập và chuẩn bị, một số người vẫn trốn ra khỏi thành phố và tìm được chúng tôi.
“Chúng nói gì cơ ?” bà Coyle hỏi.
“Rẳng các bà đã giết sạch Xú Vật,” người phụ nữ ấy nói, đắp thuốc lên cái mũi đang chảy máu.
“Đợi đã,” tôi nói. “Tất cả Xú Vật đã chết sao?”
Bà ấy gật đầu.
“Và chúng buộc tội chúng ta làm việc ấy,” bà Coyle nhắc lại.
“Tại sao họ lại nói vậy?” tôi hỏi.
Bà Coyle đứng dậy và nhìn qua mặt hồ. “Để khiến thành phố chống lại chúng ta. Biến chúng ta thành kẻ xấu.”
“Đó chính xác là những gì hắn nói,” người phụ nữ ấy đáp. Tôi tìm thấy bà trong lúc đang tập chạy trong rừng. Bà ngã xuống từ một con đê gồ ghề, may sao chỉ bị gãy mũi. “Cứ hai ngày lại có một buổi diễn thuyết,” bà ấy nói. “Người ta đang lắng nghe.”
“Ta không ngạc nhiên,” bà Coyle nói.
Tôi ngẩng lên nhìn bà ta. “Bà không làm việc ấy, phải không? Bà không giết họ đấy chứ?”
Vẻ mặt bà ta có thể đốt cháy cả một que diêm. “Chính xác thì cháu nghĩ chúng ta là loại người gì, cô gái của ta?”
Tôi nhìn mắt bà ta không rời. “Tôi không thể biết chắc, phải không nào? Bà đã đánh bom một doanh trại. Bà đã giết các binh sĩ.”
Nhưng bà ta chỉ lắc đầu, dù tôi không biết đó có phải là một câu trả lời hay không.
“Cô chắc rằng mình không bị theo dõi đấy chứ?” bà ta hỏi người phụ nữ.
“Tôi đã lang thang trong rừng suốt ba ngày,” bà kia nói. “Tôi thậm chí không tìm thấy các bà.” Bà ấy chỉ vào tôi. “Nó đã tìm thấy tôi .”
“Phải,” bà Coyle nói, mắt nhìn tôi. “Viola hữu dụng ở chỗ đó.”
Có vấn đề với cái giếng.
“Nó ở quá gần căn nhà,” tôi thì thầm.
“Không hề,” bà Coyle thì thầm đáp trả, vòng ra sau lưng tôi để mở khóa ba lô.
“Bà chắc chứ?” tôi hỏi. “Những quả bơm mà bà đã dùng để thổi bay tòa tháp rất...”
“Có nhiều loại bom.” Bà ta điều chỉnh thứ đựng trong ba lô, rồi xoay người tôi lại. “Cháu đã sẵn sàng chưa?”
Tôi quay sang nhìn căn nhà, nơi bất kỳ ai cũng có thể đang ngủ bên trong, phụ nữ, đàn ông vô tội, trẻ nhỏ. Tôi sẽ không giết bất kỳ ai, trừ phi tôi buộc phải làm vậy. Nếu tôi làm việc này vì Todd và Corinne, thì, được thôi. “Bà chắc chứ?” tôi hỏi.
“Hoặc tin ta, hoặc không, Viola.” Bà ta nghiêng đầu. “Câu trả lời của cháu là gì?”
Gió lại nổi lên. Nó thổi một phần Tiếng Ồn ngái ngủ của thị trấn Prentiss Mới dọc theo con đường. Tiếng GẦM vô định, khụt khịt, mơ màng, gần như im lặng, nếu có thứ như vậy tồn tại.
Todd ở đâu đó giữa tất cả những lời ấy.
(chưa chết, bất kể bà ta có nói gì)
“Làm cho xong chuyện đi,” tôi nói, bắt đầu tháo ba lô.
Cuộc giải cứu không phải là một cuộc giải cứu đối với Lee. Mẹ và chị gái anh không nằm trong số những người được giải cứu hay bỏ mạng. Có thể họ bị nhốt ở nhà ngục nơi quả bom của Câu Trả Lời không nổ.
Kế cả vậy.
“Kể cả khi họ đã chết,” anh nói, một đêm khi chúng tôi đang ngồi thia lia đá bên bờ hồ, toàn thân lại đau nhức sau một ngày dài luyện tập. “Anh chỉ muốn biết chắc.”
Tôi lắc đầu. “Nếu anh không biết thì vẫn còn hy vọng.”
“Biết hay không biết cũng chẳng thể giữ cho họ còn sống.” Anh ngồi xuống, lại sát gần tôi. “Anh nghĩ họ đã chết. Anh cảm giác như thể họ đã chết.”
“Lee...”
“Anh sẽ giết hắn.” Giọng anh như của một người đàn ông đang thốt ra lời hứa, không phải một lời đe đọa. “Nếu đến được đủ gần, anh thề với em.”
Hai mặt trăng vươn cao trên đầu chúng tôi, phân thân thành hai mặt trăng khác dưới mặt hồ. Tôi thảy thêm một hòn đá, nhìn nó lướt trên hình ảnh phẳn chiếu của hai mặt trăng. Khu trại khẽ hối hả trong những rặng cây sau lưng chúng tôi và dọc theo bờ hồ. Ta có thể nghe thấy Tiếng Ồn rải rác khắp nơi, cả tiếng vo ve đang lớn dàn từ Lee, người không đủ may mắn để nhận được khẩu phần thuốc từ bà Coyle.
“Việc đó không giống những gì anh tưởng đâu,” tôi nói khẽ.
“Giết người ư?”
Tôi gật đàu. “Dù là người đáng bị giết, dù là người sẽ giết anh nếu anh không giết họ, dù vậy thì điều đó cũng không giống những gì anh tưởng.”
Sự yên lặng tiếp tục bao trùm, cho đến khi anh nói. “Anh biết.”
Tôi nhìn anh. “Anh đã giết một tên lính.”
Anh không trả lời, đó đã là câu trả lời.
“Lee?” tôi hỏi. “Tại sao anh không nói...?”
“Vì chuyện đó không giống những gì em tưởng, phải không?” anh nói. “Dù người đó đáng bị giết.”
Anh thảy một hòn đá khác qua mặt hồ. Chúng tôi không tựa vào vai nhau. Chúng tôi ngồi cách nhau một quãng.
“Anh vẫn sẽ giết hắn,” anh nói.
Tôi lột giấy lót rồi ép quả bom vào thành giếng, nó dính vào bề mặt giếng nhờ lớp keo làm từ nhựa cây. Tôi lấy hai sợi dây từ trong ba lô rồi vặn hai đầu vào hai sợi dây khác đang thò ra từ quả bom, gắn chúng vào nhau, để một đầu lủng lẳng.
Quả bom đã được cài.
Tôi lấy bảng số nhỏ màu xanh ra từ túi trước ba lô rồi vặn đầu dây đang treo lủng lẳng quanh một điểm trên đầu bảng số. Tôi nhấn nút đỏ trên bảng số, rồi nhấn nút xám. Những chữ số màu xanh sáng lên.
Quả bom đã sẵn sàng để được kích hoạt.
Tôi nhấn nút màu bạc cho đến khi các chữ số đếm tới 30:00 rồi lại nhấn nút đỏ, lật ngược bảng số, luồn hai lẫy kim loại vào nhau, rồi nhấn nút màu xám một lần nữa. Ngay lập tức những chữ số màu xanh chuyển thành 29:59, 29:58, 29:57.
Quả bom đang đếm ngược.
“Làm tốt lắm,” bà Coyle thì thầm. “Rút thôi.”
Và rồi sau gần một tháng trốn trong rừng, đợi các tù nhân bình phục, đợi số còn lại được huấn luyện, đợi một đội quân thực sự được thổi bừng lên sự sống, đã đến cái đêm mà sự chờ đợi chấm dứt.
“Dậy đi, cô gái của ta,” bà Coyle nói, quỳ gối ở chân giường tôi.
Tôi chớp mắt tỉnh dậy. Trời vẫn còn tối om. Bà Coyle khẽ giọng để không đánh thức những người khác đang ngủ trong căn lán lớn.
“Tại sao?” tôi thì thầm hỏi.
“Cháu đã nói sẽ làm bất cứ điều gì.”
Tôi rời khỏi giường và bước ra trời đêm lạnh giá, nhảy lò cò để đi ủng trong lúc bà Coyle sửa soạn ba lô cho tôi.
“Chúng ta chuẩn bị vào thị trấn phải không?” tôi nói trong lúc thắt dây ủng.
“Con bé này quả là một thiên tài,” bà Coyle thì thầm với chiếc ba lô.
“Tại sao lại là đêm nay? Tại sao lại là bây giờ?”
Bà ta ngẩng lên nhìn tôi. “Vì chúng ta phải nhắc cho họ nhớ rằng mình vẫn còn sống.”
Chiếc ba lô trống rỗng nằm sau lưng tôi. Chúng tôi băng qua khu vườn và rón rén đi đến căn nhà, dừng lại để nghe ngóng xem có ai trong nhà cựa mình hay không.
Không ai làm vậy.
Tôi đã sẵn sàng rời đi nhưng bà Coyle vẫn đang ngả người ngắm nhìn khoảng trắng của bức tường bên ngoài căn nhà.
“Chỗ này là ổn rồi,” bà ta nói.
“Để làm gì?” tôi nhìn quanh, cảm thấy ớn lạnh vì đồng hồ đang đếm ngược.
“Cháu đã quên chúng ta là ai sao?” Bà ta thọc tay vào túi áo choàng thầy thuốc mà bà ta vẫn đang mặc cho dù quần dài thì sẽ tiện dụng hơn. Bà ta ném một thứ gì đó cho tôi. Tôi bắt nó mà không kịp suy nghĩ.
“Sao cháu không nhận lấy vinh dự này?” bà ta nói.
Tôi nhìn xuống tay mình. Là một mẩu than vụn màu xanh, được lấy ra từ đống lửa của chúng tôi, phần còn lại của những cây tầm với mà chúng tôi đốt để giữ ấm. Nó để lại những vệt màu xanh bụi bặm lên tay tôi, lên da tôi.
Tôi nhìn nó thêm một lúc.
“Tích tắc,” bà Coyle nói.
Tôi nuốt khan. Rồi cầm cục than vạch nhanh một vòng cung lên bức tường trắng của căn nhà.
Chữ C nhìn lại tôi, do tay tôi viết ra.
Tôi thấy mình đang thở khó nhọc.
Khi tôi quay lại, bà Coyle đã nhảy xuống cái rãnh cạnh con đường. Tôi vội vàng bám theo, đầu cúi thấp.
Hai tám phút sau, đúng lúc về lại được chỗ giấu xe kéo đặt sâu trong rừng thì chúng tôi nghe thấy một tiếng Bùm.
“Chúc mừng, binh sĩ,” bà Coyle nói khi chúng tôi khởi hành quay về khu trại. “Cháu vừa bắn phát đạn đầu tiên của trận chiến cuối cùng.”