← Quay lại trang sách

Chương 30 Chiếc vòng

TÔI VỪA KHỞI ĐỘNG ĐỒNG HỒ ĐẾM NGƯỢC và quay sang bà Braithwaite để nói với bà ấy rằng chúng tôi có thể rút thì một người phụ nữ lảo đảo chạy ra khỏi bụi rậm sau lưng chúng tôi.

“Giúp tôi,” cô nói thật khẽ, như thể cô không biết chúng tôi đang ở đó mà chỉ cầu xin sự trợ giúp từ vũ trụ.

Rồi cô ngã xuống.

“Đây là cái gì vậy?” tôi hỏi, lấy thêm một miếng băng gạc từ hộp sơ cứu quá nhỏ mà chúng tôi giấu trên xe kéo, tìm cách trị thương cho cô trong lúc xe chạy lắc lư. Một chiếc vòng kim loại quấn quanh cẳng tay người phụ nữ, quá chặt, đến nỗi lớp da xung quanh đang tìm cách mọc dính vào nó, đỏ rực vì nhiễm trùng. Tôi cảm nhận được nhiệt đang tỏa ra.

“Đó là dụng cụ đánh dấu gia súc,” bà Braithwaite nói, giận dữ quất dây cương, khiến chúng tôi nẩy tưng tưng trên những con đường mà đáng lẽ chúng tôi không nên đi nhanh đến mức này. “Tên khốn độc địa ấy.”

“Giúp tôi,” người phụ nữ thì thầm.

“Tôi đang giúp cô đây,” tôi nói. Tôi đặt đầu cô gối lên đùi mình cho đỡ xóc. Tôi quấn băng gạc quanh chiếc vòng kim loại, sau khi liếc thấy một con số khắc trên đó.

1391.

“Tên cô là gì?” tôi hỏi.

Nhưng mắt cô đã khép hờ và tất cả những gì cô có thể nói là, “Giúp tôi.”

“Và chúng ta có chắc cô ấy không phải gián điệp?” bà Coyle nói, khoanh tay trước ngực.

“ Chúa ạ,” tôi gắt. “Tim bà làm bằng đá sao?”

Mặt bà ta tối sầm lại. “Chúng ta phải cân nhắc mọi mưu kế...”

“Chỗ nhiễm trùng đã tệ đến mức chúng ta sẽ không giữ được tay cho cô ấy,” bà Braithwaite nói. “Nếu là gián điệp, cô ấy còn lâu mới mang được thông tin về.”

Bà Coyle thở dài. “Hai người tìm thấy cô ấy ở đâu?”

“Gần trụ sở Câu Hỏi mà chúng ta đã được nghe nói đến,” bà Braithwaite nói, càng cau có hơn.

“Bọn tôi đã cài một quả bom ở nhà kho nhỏ gần đó,” tôi nói. “Gần hết mức có thể.”

“Vòng đánh số, Nicola,” bà Braithwaite nói, cơn giận bùng lên như khói qua hơi thở.

Bà Coyle xoa tay lên trán. “Tôi biết.”

“Chúng ta không thể cắt nó đi sao?” tôi hỏi. “Rồi trị thương?”

Bà Braithwaite lắc đầu. “Hóa chất trong vòng khiến lớp da xung quanh không bao giờ lành lại, đó là điểm cốt lõi. Cháu không thể gỡ nó ra trừ phi muốn chảy máu đến chết. Chúng là vĩnh viễn. Vĩnh viễn. ”

“Ôi, Chúa ơi.”

“Tôi cần nói chuyện với cô ấy,” bà Coyle nói.

“Nadari đang trị thương cho cô ấy,” bà Braithwaite đáp. “Có thể cô ấy vẫn còn tỉnh trước ca mổ.”

“Vậy thì đi thôi,” bà Coyle nói, rồi họ đi đến lều trị thương. Tôi chực đi theo, nhưng bà Coyle đã ngăn tôi lại. “Cháu không được đi, cô gái của ta.”

“Tại sao không?”

Nhưng họ tiếp tục bước đi, bỏ tôi lại một mình giữa cái lạnh.

“Cháu ổn chứ, Hildy?” Wilf hỏi khi thấy tôi đang đi lang thang giữa đám bò. Ông đang chải chỗ lông bị cọ vào dây cương cho chúng. Wilf, chúng nói.

Đó là tất cả những gì chúng có thể nói.

“Một đêm khó khăn,” tôi đáp. “Bọn cháu đã giải cứu một người phụ nữ bị đánh dấu bằng một loại vòng kim loại nào đó.”

Wilf trông có vẻ trầm tư. Rồi ông chỉ vào chiếc vòng kim loại quấn quanh cổ chân phải của một con bò. “Như cái này hả?”

Tôi gật đầu.

“Ở người ư?” ông huýt sáo kinh ngạc.

“Tình hình đang thay đổi, bác Wilf,” tôi nói. “Ngày càng tồi tệ hơn.”

“Ta biết,” ông nói. “Chúng ta sẽ sớm hành động, và mọi chuyện sẽ kết thúc, bằng cách này hay cách khác.”

Tôi nhìn ông. “Bác có biết chính xác thì bà ta đang lên kế hoạch gì không?”

Ông lắc đầu và xoa tay quanh chiếc vòng kim loại trên chân một con bò. Wilf, con bò nói.

“Viola!” tôi nghe thấy tiếng gọi từ phía bên kia khu trại.

Wilf và tôi quay đầu lại để thấy bà Coyle đang phăm phăm bước qua khu trại tối om về phía chúng tôi. “Bà ấy sẽ đánh thức cả khu trại mất,” Wilf nói.

“Cô ấy hơi mê sảng,” bà Nadari nói trong lúc tôi quỳ xuống bên cạnh chiếc giường của người phụ nữ vừa được cứu. “Chúng ta có nhiều nhất là một phút.”

“Nói cho nó nghe những gì cháu vừa kể cho chúng ta đi, cô gái,” bà Coyle nói với cô. “Chỉ một lần nữa rồi ta sẽ để cho cháu ngủ.”

“Tay tôi?” cô gái nói, mắt cô mơ màng. ”Nó không còn đau nữa.”

“Cứ nói cho nó nghe đi, cô gái của ta,” bà Coyle nói, giọng ấm áp hết mức. “Rồi mọi chuyện sẽ ổn.”

Mắt người phụ nữ tập trung vào tôi trong giây lát rồi thoáng mở lớn. “Là cô,” cô nói. “Là cô gái ở đó.”

“Viola,” tôi nói, chạm vào cánh tay không bị đánh số của cô.

“Chúng ta không có nhiều thời gian, Jess,” giọng bà Coyle cương nghị hơn đôi chút, chắc hẳn vừa rồi là tên của cô ấy. “Nói với nó đi.”

“Nói với tôi cái gì?” tôi hỏi, bắt đầu cảm thấy bực bội. Thật độc ác khi bắt cô phải tỉnh táo thế này, và tôi vừa chực nói ra những lời ấy thì bà Coyle đã bảo, “Nói với nó ai đã khiến cháu phải ra nông nỗi này.”

Cặp mắt của Jess trở nên sợ hãi. “Ôi,” cô nói. “Ôi, ôi.”

“Chỉ lần này nữa thôi, rồi chúng ta sẽ để cho cháu nghỉ,” bà Coyle nói.

“Bà Coyle...” tôi nói, giọng giận dữ.

“Những thằng nhóc,” người phụ nữ nói. ”Những thằng nhóc. Chúng thậm chí còn chưa phải là đàn ông.”

Tôi hít một hơi.

“Những thằng nhóc nào?” bà Coyle hỏi. “Tên của chúng là gì?”

“Davy,” người phụ nữ nói, mắt cô không còn nhìn nóc lán nữa. “Davy là đứa lớn hơn.”

Bà Coyle bắt gặp ánh mắt của tôi. “Và đứa còn lại?”

“Đứa ít nói,” người phụ nữ đáp. “Không nói gì hết. Chỉ làm việc của nó mà không nói gì hết.”

“Tên của nó là gì?” bà Coyle nằng nặc.

“Tôi phải đi,” tôi nói rồi đứng dậy, không muốn nghe tiếp. Bà Coyle chộp lấy tay tôi, giữ tôi ở lại.

“Tên của nó là gì?” bà ta hỏi lại.

Cô gái thở gấp, gần như đứt đoạn.

“Đủ rồi,” bà Nadari nói. “Ngay từ đầu tôi đã không muốn làm việc này...”

“Chỉ một giây nữa thôi,” bà Coyle nói.

“Nicola...” bà Nadari cảnh cáo.

“Todd,” người phụ nữ nói, người phụ nữ mà tôi đã cứu, người phụ nữ với cánh tay bị nhiễm trùng rồi sẽ bị cắt bỏ, người phụ nữ mà giờ đây tôi ước gì đã nằm dưới đáy của đại dương mà tôi chưa bao giờ trông thấy. “Thằng kia gọi nó là Todd.”

“Để tôi yên,” tôi gào lên trong lúc bà Coyle đi theo tôi ra ngoài lán.

“Nó còn sống,” bà ta nói, “nhưng nó đã là một trong số chúng.”

“Im đi!” tôi nói, vùng vằng băng qua khu trại, không thèm bận tâm mình đang lớn tiếng đến mức nào.

Bà Coyle chạy theo, chộp lấy tay tôi. “Cháu đã mất nó, cô gái của ta,” bà ta nói. “Đấy là nếu cháu đã từng thực sự có nó.”

Tôi tát bà ta, thật nhanh và thật mạnh, khiến bà ta không đủ thời gian phòng vệ. Như thể tôi vừa tát vào một thân cây. Sức nặng của bà ta dội lại làm tay tôi nhức nhối.

“Bà không biết mình đang nói gì đâu,” tôi hét, giọng gầm gừ.

“Sao cháu dám ,” bà ta nói, đưa tay lên mặt.

“Bà chưa thấy tôi chiến đấu,” tôi nói, không chịu khoan nhượng. “ Tôi đã thổi bay một cây cầu để chặn đường một đội quân. Tôi đã đâm dao xuyên cổ một tên sát nhân điên khùng. Tôi đã cứu nhiều mạng người trong lúc bà chạy khắp nơi vào ban đêm để cho nổ tung họ.”

“Cháu là một đứa trẻ kiêu căng ngỗ ngược...”

Tôi lại gần bà ta.

Bà ta không lùi lại.

Nhưng bà ta dừng nói giữa chừng.

“Tôi ghét bà,” tôi nói một cách chậm rãi. “Mọi thứ bà làm khiến thị trưởng đáp trả bằng những thứ còn tồi tệ hơn. ”

“Ta không khơi mào cuộc chiến này...”

“Nhưng bà yêu nó!” tôi tiến thêm một bước lại gần bà ta. “Bà yêu mọi thứ thuộc về nó. Những vụ đánh bom, những cuộc ẩu đả, những lần giải cứu.”

Mặt bà ta giận dữ đến nỗi tôi có thể trông thấy rõ dưới ánh trăng.

Nhưng tôi không sợ bà ta.

Và tôi nghĩ bà ta biết điều đó.

“Cháu muốn nhìn mọi thứ một cách đơn giản, trắng đen, tốt xấu, cô gái của ta,” bà ta nói. “Thế giới không vận hành theo cách ấy. Chưa bao giờ, và sẽ không bao giờ, và đừng quên,” bà ta ném cho tôi một nụ cười có thể khiến sữa phải đông, “cháu đang tham gia cuộc chiến này cùng ta.”

Tôi áp mặt lại gần bà ta. “Ông ta cần bị lật đổ, tôi đang giúp bà làm việc đó. Còn sau đó?” tôi áp sát đến nỗi có thể cảm nhận được hơi thở của bà ta. “Chúng tôi có phải lật đổ nốt cả bà không?”

Bà ta không nói gì.

Nhưng bà ta cũng không lùi lại.

Tôi quay người rồi đi xa khỏi bà ta.

“Cháu mất nó rồi, Viola!” bà Coyle hét gọi theo tôi.

Nhưng tôi chỉ tiếp tục bước đi.

“Cháu phải quay lại thành phố.”

“Ngay bây giờ ư?” Wilf hỏi, ngước lên nhìn trời. “Sắp sáng rồi. Không an toàn đâu.”

“ Không bao giờ an toàn hết,” tôi nói, “nhưng cháu không có lựa chọn nào khác.”

Ông chớp mắt nhìn tôi, rồi tập hợp dây nhợ và đai cương để chuẩn bị xe kéo.

“Không,” tôi nói, “bác chỉ cần cho cháu biết cách điều khiển. Cháu không thể yêu cầu bác mạo hiểm tính mạng được.”

“Cháu đi tìm Todd phải không?”

Tôi gật đầu.

“Vậy thì ta sẽ đi cùng cháu.”

“Bác Wilf...”

“Vẫn còn sớm,” ông nói, xua đám bò vào vị trì. “Ít nhất ta sẽ đưa cháu đến đủ gần.”

Ông không nói thêm một lời trong lúc thắt lại dây cương buộc đám bò vào xe kéo. Chúng hỏi ông, Wilf? Wilf? vẻ ngạc nhiên khi phải tiếp tục làm việc ngay khi vừa nghĩ đêm lao động của chúng đã kết thúc.

Tôi nghĩ đến những gì Jane sẽ nói. Nghĩ đến việc đẩy Wilf của bà vào vòng nguy hiểm.

Nhưng tất cả những gì tôi nói chỉ là, “Cảm ơn bác.”

“Anh cũng đi.” Tôi quay lại. Lee đang đứng đó, xoa cặp mắt ngái ngủ nhưng đã ăn mặc sẵn sàng.

“Sao anh đã dậy rồi?” tôi hỏi. “Và không, anh sẽ không đi cùng.”

“Có,” anh ấy nói, “và ai mà ngủ nổi với tất cả những tiếng la hét đó chứ?”

“Quá nguy hiểm,” tôi nói. “Họ sẽ nghe thấy Tiếng Ồn của anh...”

Anh ấy mím môi và nói, Thì cứ để cho chúng nghe thấy.

“Lee..”

“Em đi tìm cậu ấy phải không?”

Tôi thở dài bực dọc, bắt đầu tự hỏi mình có nên bỏ quách ý định này hay không trước khi tôi lại khiến thêm một người gặp nguy hiểm.

“Em định đến trụ sở của Câu Hỏi,” Lee nói, hạ giọng.

Tôi gật đầu.

Rồi tôi nhận ra.

Siobhan và mẹ anh có thể ở đó.

Tôi lại gật đầu, và lần này anh biết tôi đã đồng ý.

Không ai tìm cách ngăn cản chúng tôi, dù nửa khu trại hẳn phải biết chúng tôi đang chuẩn bị lên đường. Bà Coyle hẳn phải có lý do của bà ta.

Chúng tôi không nói nhiều trên dường đi. Tôi chỉ lắng nghe Tiếng Ồn của Lee và những suy nghĩ về gia đình anh, về thị trưởng, về những việc anh sẽ làm với ông ta một khi có cơ hội.

Về tôi.

“Em phải nói gì đó đi,” Lee bảo. “Chăm chăm lắng nghe như vậy là thô lỗ lắm.”

“Em đã từng nghe nói vậy,” tôi đáp.

Nhưng miệng tôi khô khốc và tôi nhận ra mình không có gì nhiều để nói.

Mặt trời mọc trước khi chúng tôi đến thành phố. Wilf thúc đám bò đi nhanh hết mức, nhưng dù vậy, hành trình trở về vẫn sẽ rất nguy hiểm, khi thành phố đã thức giấc, với những người đàn ông có Tiếng Ồn đi trên xe kéo. Chúng tôi đang mạo hiểm khôn cùng.

Nhưng Wilf vẫn tiếp tục đánh xe.

Tôi đã giải thích những gì tôi muốn nhìn thấy, và Wilf nói ông biết chỗ này. Ông dừng xe ở sâu trong một cánh rừng và chỉ cho chúng tôi đường lên một con dốc.

“Cúi đầu xuống,” ông nói. “Đừng để bị nhìn thấy.”

“Bác yên tâm,” tôi đáp. “Nhưng nếu một giờ nữa bọn cháu không quay lại, bác đừng đợi.”

Wilf chỉ nhìn tôi. Chúng tôi đều biết sẽ không có chuyện ông bỏ chúng tôi lại.

Lee và tôi trèo lên con dốc, khom người dưới sự che chắn của những rặng cây, cho đến khi lên tới đỉnh và hiểu ra tại sao Wilf lại chọn chỗ này. Đó là con đồi gần nơi tòa tháp liên lạc sụp đổ, nơi chúng tôi có tầm nhìn rộng rãi về con đường dẫn xuống trụ sở Câu Hỏi, nơi mà chúng tôi được nghe đồn là một nhà tù hoặc một nơi để tra tấn hay thứ gì đó đại loại như vậy.

Tôi thậm chí không muốn biết.

Chúng tôi nằm sấp bụng, sát cạnh nhau, nhìn ra từ những bụi rậm.

“Dỏng tai mà nghe ngóng,” Lee thì thầm.

Như thể chúng tôi cần làm vậy. Ngay khi mặt trời vừa ló dạng, thị trấn Prentiss Mới đã GẦM lên tỉnh giấc. Tôi bắt đâu tự hỏi liệu Lee có cần cố gắng che giấu Tiếng Ồn của mình nữa không. Làm sao để không chết chìm trong mớ hỗn độn này?

“Vì chìm là từ chính xác,” Lee trả lời câu hỏi của tôi. ”Nếu để mình biến mất vào trong đó, em sẽ chết ngạt.”

“Em không thể hình dung ra nổi việc phải lớn lên giữa mớ hỗn độn này,” tôi nói.

“Phải,” anh ấy đáp. “Em làm sao hình dung nổi.”

Nhưng anh không nói những lời này với ác ý.

Tôi nheo mắt nhìn xuống con đường khi trời đã sáng hơn.

“Ước gì em có ống nhòm.”

Lee thò tay vào túi và lấy ra một cái.

Tôi nhìn anh. “Anh chỉ đợi em hỏi để có cơ hội ra vẻ.”

“Anh chẳng biết em đang nói gì,” anh nói, nhoẻn miệng cười rồi đặt ống nhòm lên mắt.

“Thôi nào.” Tôi huých vai anh. “Đưa nó cho em.”

Anh giơ nó ra xa để tôi không với được. Tôi bắt đầu cười khúc khích, anh cũng vậy. Tôi bám vào anh, tìm cách đè anh xuống trong lúc cố chộp lấy ống nhòm, nhưng anh to lớn hơn tôi và tiếp tục giơ nó đi chỗ khác.

“Em không ngại phải làm đau anh đâu,” tôi nói.

“Anh không nghi ngờ điều đó,” anh cười, lại chĩa ống nhòm xuống đường.

Tiếng Ồn của anh vùng lên, đủ lớn để khiến tôi sợ rằng sẽ có người nghe thấy.

“Anh thấy gì?” tôi nói, không còn cười nữa.

Anh đưa ống nhòm cho tôi, rồi chỉ tay. “Đằng kia,” anh ấy nói. “Đang đến gần.”

Nhưng tôi đã nhìn ra họ qua ống nhòm.

Hai người đang cưỡi ngựa. Hai người mặc quân phục sáng lóa mới tinh tươm đang cưỡi ngựa. Một trong hai không ngừng trò chuyện, vung vẩy tay.

Cười. Nói.

Người còn lại chỉ nhìn chằm chằm vào con ngựa của mình, nhưng cũng đang cưỡi nó đến nơi làm việc.

Đến làm nhiệm vụ ở trụ sở của Câu Hỏi.

Trong bộ quân phục với chữ C sáng lóa trên vai.

Todd.

Todd của tôi.

Đang cưỡi ngựa bên cạnh Davy Prentiss.

Cưỡi ngựa đến nơi làm việc cùng kẻ đã bắn tôi.