- IV - TƯƠNG LAI
Thế bấy giờ, Vanhtrax, mày định làm gì?
Tôi định làm gì ư? Nhưng chẳng có ông nhà báo mà tôi quen cùng với Matutxanh ở đó, để ông ta giới thiệu tôi vào làm thợ học việc trong nhà in của tờ báo mà ông ấy viết?
Tôi chạy tới nhà ông.
Ông ta cười vào mũi tôi.
“Anh mà làm thợ!”
- Chứ gì nữa! điều đó sẽ không ngăn cản tôi làm cách mạng – ngược lại! tôi sẽ kiếm được miếng ăn và tôi có thể nói, viết, hành động tùy tôi.
- Kiếm được miếng ăn? Bao giờ vậy! Trước tiên anh phải làm đứa bé sai vặt của cả xưởng đã; anh năm nay mười bảy tuổi mà trông như đã hai mươi! Anh điên rồi và ông chủ nhà in là người đầu tiên sẽ bảo anh điều đó! Nhưng thôi thế này thì đơn giản hơn! Anh đưa hộ tôi chiếc áo choàng, anh đội mũ vào ta cùng đi đến đó!”
Chúng tôi đã tới nhà in.
Ông nhà báo nói đúng! Người ta không tin là tôi nói thật.
Ông chủ nhà in đã trả lời tôi:
“Đáng ra anh phải đến từ năm mười hai tuổi.
- Nhưng hồi mười hai tuổi, tôi còn ở nhà tù của trường trung học! Hồi ấy tôi quay bánh xe chữ la-tinh
- Lại thêm một lý do nữa để tôi không lấy anh vào làm! Trong thời buổi cách mạng này, chúng tôi không thích những kẻ mất gốc nhảy từ trường trung học vào xưởng thợ. Họ làm hư hỏng những người thợ khác. Rồi cái đó chứng tỏ tính nết không thuần, hoặc giả đã phạm tội gì đó… Tôi nói vậy không phải là nói anh, vì anh đã được ông đây giới thiệu, và tôi thấy anh có vẻ một chàng trai lương thiện. Nhưng, hãy nghe tôi, anh cứ nên ở trong môi trường cũ của anh và nên làm như tất cả mọi người.
Tới đó ông ta chào tôi và biến mất.
- Tôi đã bảo mà! Ông nhà báo kêu lên. Anh quyết định muộn quá, anh bạn ạ! Đã có ria mép, một mảnh bằng!… Với cái đó và với thời gian, anh có thể trở thành một tay đánh xe ngựa, chứ thợ thì không! Tôi bận phải đi ngay bây giờ. Thôi tạm biệt.”
Tôi đứng lại ở giữa phố, vẻ đần độn và xấu hổ.
Nhưng không! Tôi vẫn chưa chịu! và tôi cứ lượn đi lượn lại hoài trong khu phố nhà in đó cũng như hôm tôi đi tìm Toocsônet.
Tôi đã đứng đợi ở trước cửa các nhà, chân lội rãnh nước; ở các cầu thang, mũi dán vào tường; đã có hai tay chủ nhà in bắt buộc phải nghe tôi!
Một tay tưởng tôi là một gã ăn mày nhằm được đãi năm phơrăng; còn tay kia thì cho tôi là một thi sĩ muốn làm thợ trong khoảng bốn ngày cốt để giống như Ginbe hoặc Maguy[9].
Chẳng nên nghĩ tới chiếc mũ bằng giấy và chiếc áo xanh của thợ nữa!
Tìm nghề gì khác được? – Nghề của ông chú thợ mộc, nghề của bác Fabrơ thợ giầy chăng? Tôi đã giấu không hở chuyện đó ra với ông nhà báo, với Matutxanh và đám bạn của anh ta, nhưng tôi đã tới các quán cơm nghèo ngồi ăn bên cạnh những người có bàn tay dính sơn của người đóng đồ gỗ hoặc có ngón tay cái bị vẹo của người vá giầy. Tôi đã làm quen với họ, tôi thết họ rượu, tôi làm lộn xộn cả ngân sách, là vỡ kế hoạch chi tiêu dù có phải nhịn ăn những ngày cuối tháng!
Tất cả đều đã làm tôi thất vọng.
Một người trong bọn họ, một bác già có bộ mặt thật thà, đôi má xanh xao, mái tóc hoa râm, đã nghe tôi nói hết rồi, với một nụ cười đau xót, bảo tôi:
- Anh nhìn tôi xem! Tôi đã già đi trước tuổi. Thế mà tôi chưa bao giờ nghiện ngập, cũng chưa bao giờ lười nhác. Bao giờ tôi cũng làm ăn chăm chỉ, vậy mà nay tôi đã năm mươi hai tuổi đầu mới gọi là tạm đủ ăn. Con trai tôi phải giúp đỡ tôi. Chính nó sắm cho tôi đôi giày này. Nó đã có vợ, thế là tôi đã cướp cơm đám con nhỏ của nó.
Giọng bác buồn bã đến nỗi tôi rưng rưng nước mắt.
- Hãy chùi nước mắt đi, cháu! Không phải là chuyện thương hại bác, mà là phải suy nghĩ. Đừng có khăng khăng muốn làm thợ nữa!
Bắt đầu vào nghề muộn như thế này, cháu sẽ mãi mãi chỉ là một anh thợ vụng, mà cháu sẽ khổ sở chính vì học thức của cháu. Dù cho là mình có đầu óc phản kháng đến đâu, cháu vẫn còn mang tính học trò quá để vui vẻ hòa mình với những kẻ dốt nát trong xưởng; mà họ cũng sẽ không ưa gì cháu! Cháu chưa từng là một thằng nhãi Pari, cháu sẽ ra vẻ con nhà. Dù sao, bác cũng nói thật với cháu: cuối đời vận áo thợ, là cuộc đời rách rưới… Tất cả thợ thuyền đều kết thúc ở nơi làm phúc, chính phủ làm phúc hay con cái làm phúc…
- Trừ phi họ chết ở Croa-Rutxơ!
- Thì cứ gì phải làm thợ cháu mới xông ra chết ở chiến lũy, nếu cuộc sống nặng nề đối với cháu!… Thôi! Cháu cứ đứng ở phía chiếc áo rơđanhgốt tàng, và làm như mọi người vẫn làm, khi buộc lòng phải xỏ tay vào chiếc áo ấy. Cháu có thể gục ngã vì mệt mỏi và vì bần cùng như những ông giám thị hay giáo sư mà cháu đã nói! Nếu cháu ngã xuống, xin chào! Nếu cháu cầm cự được, cháu sẽ đứng thẳng giữa đám áo rơđanhgốt như một người bênh vực chiếc áo thợ. Anh bạn trẻ ạ, ở đấy có một vị trí để chiếm lĩnh! Vào tuổi cháu, chớ nên khôn ngoan quá! Đừng nên chỉ nghĩ đến mình, đến mấy phơ răng một ngày, đến miếng ăn cứ thứ bảy nào cũng rơi vào túi chiếc áo thợ của cháu… Như thế là có phần ích kỷ đấy, anh bạn ạ!… Con người ta không nên nghĩ quá nhiều đến cái dạ dày của mình khi người ta có cái mà hình như cháu có ở trong tim!
Bác ngừng lại, bắt tay tôi và bỏ đi.
Có lẽ bác ta đã xuống mồ từ lâu rồi. Có thể bác ta chết ngay hôm sau. Tôi đã không bao giờ gặp lại bác ta.
Chính bác ấy đã quyết định cuộc đời của tôi!
Chính ông già ấy, trước hết chỉ cho tôi thấy miếng bánh của người thợ kiếm được chắc chắn ở bước đầu, nhưng ở cuối đường sẽ phải nhặt ở nơi làm phúc, sau đó lại kết án tuổi thanh niên của tôi là ích kỷ và hèn đối với cái đói; chính ông đã khiến tôi đem cái mộng học nghề quẳng theo gió. Tôi lại quay về giữa những cậu tú nghèo.
Tôi đã buồn suốt tám ngày đằng đẵng, những lúc này trời đang thu! Vườn Luychdămbua mới đẹp làm sao với những cây ngả vàng trên nền đồng đen, và đám bạn bè của tôi họ mới vô tư lự và vui vẻ làm sao! Tôi để mặc cho cái tuổi mười bảy của tôi cười đùa và mơ mộng!
Chúng tôi tưới đẫm tuổi trẻ của chúng tôi bằng những cuộc tranh luận nảy lửa, những cuộc cãi lộn bất kể vấn đề gì, bằng xúp hành và bằng rượu vang bốn-xu!
Rượu vang bốn-xu.
Rượu vang bốn-xu.
“Ngon thật!” Matutxanh vừa nói vừa tắc lưỡi.
Rất có thể là Matutxanh thấy thứ rượu đó tồi, nhưng với vai trò của kẻ đầu đàn, như người ta ấn chiếc đinh găm, anh nhấn mạnh vào niềm vô tư lự trong cảnh thèm nhịn cũng như niềm tin ở các thức rượu rẻ tiền.
Xét cho cùng thứ rượu vang bốn-xu đó cũng không đến nỗi phải vứt đi!
Tôi đã qua những buổi tối vui thú làm sao, dưới gian nhà trống của phố Pêpinie, ở Môngrugiơ, nơi có những thùng rượu xếp ngay ngoài trời, và nó đã biến thành tiệm cà-phê Prôcôp của chúng tôi; ở đó chúng tôi nghe tiếng rượu rót từ cổ chai và lời thơ xuất phát từ trái tim; ở đó chúng tôi không nghĩ tới ngày mai chẳng kém như khi có bạc triệu trong tay; ở đó chúng tôi như đeo dây đồng hồ kết bằng những giọt rượu lăn trên áo gi-lê tựa những hạt ngọc; ở đó với bốn xu chúng tôi có được sức khỏe, hy vọng, và hạnh phúc dư thừa. Phải, tôi đã rất sung sướng ngồi trên các thùng rượu rỗng, trước chiếc bàn của quán rượu.
Lúc trở về, nỗi buồn của lúc tận ngày xâm chiếm tâm hồn chúng tôi, và mặt nạ nghệ sĩ lang thang trút bỏ, chúng tôi trở lại là chúng tôi, chẳng ca hát tương lai, mà lặng lẽ hướng suy nghĩ trở về quá khứ.
Đi cách tiệm rượu mươi phút chúng tôi vẫn còn hò hét, nhưng một khắc đồng hồ sau, thì chính lời hát cũng tắt dần và chúng tôi nói chuyện – nói chuyện thì thào về quê hương! – Chúng tôi đi hai ba người một để nhắc lại những ngày ở trường trung học và tiểu học, vừa trao đổi kỷ niệm về những xúc động của mình. Chúng tôi hồn nhiên như con nít, hầu như nghiêm trang tựa người lớn, chúng tôi không là thi sĩ, nghệ sĩ hay sinh viên, chúng tôi là người của xóm làng.
Thật là tốt đẹp những buổi rời cái quán nhỏ bán rượu vang bốn-xu ấy ra về…
Một lần chúng tôi đã làm một việc ngông cuồng, chúng tôi đã uống rượu ngon, thứ rượu nho xạ bán lẻ từng cốc, thứ rượu nho xạ mà đến bây giờ tôi vẫn còn thấy ngọt ở lưỡi và đã làm cho người ta mãi mãi sau này trách móc chúng tôi.
Trong tuần ấy, Roayani và tôi hai đứa giữ quỹ. Uống rượu nho xạ là ăn cắp, là phản bội!
Chúng tôi đã phản bội với hai cốc.
Nếu tất cả những vụ phản bội đều để lại vị ngon đến thế, thì không còn có thể tin ai được nữa.
Đấy là việc ngoại lệ duy nhất, chuyện ngông cuồng duy nhất, điều xa xỉ duy nhất trong cuộc đời Pari của tôi từ khi tôi tới đó.
Cũng còn chuyện mua một cây phong lữ thảo và một cây hoa hồng, rồi mua một tảng đất cắm hoa cúc. Mỗi lần có ba xu mà tôi có thể lấy giấu cả nhóm – không phải là ăn cắp (hối hận về lần uống rượu nho xạ đã đủ rồi) – mỗi lần tôi lại ra Bến bán hoa để hái kỷ niệm. Với ba xu tôi đã mua được thứ cây có nhiều hương vị của tỉnh Puy hoặc của Farâyron nhất; tôi mang giấu nó, ôm giữa bàn tay và trái tim, tựa hồ như tôi sẽ bị trừng phạt nếu có ai trông thấy! vì ở trong đống bùn của Pari này tôi thèm muốn biết bao – và còn thấy cần thiết nữa – thỉnh thoảng được trốn vào những góc sung sướng của thời niên thiếu!
Một tai họa!
Căn buồng con của tôi ở khách sạn Riffô đã bị lấy lại sau khi đến ở được một tháng. Chủ nhà đã cho sửa sang lại ngôi nhà, và người ta đã phá đổ cầu thang, xâm phạm nơi ẩn của tôi; người ta biến thành cái nơi đã từng là thiên đường của tôi khi mới đến… Tôi đã phải bỏ đi tìm nơi ở khác.
Tôi không tìm được chỗ nào dưới mười phơrăng. Tiền nhà tăng không ngừng!
Tôi đã tới tất cả các nhà sẵn đồ đạc cho thuê ở phố Đôphin, nhưng đều bị xua đuổi bởi mùi nước rác hoặc tiếng cãi nhau om sòm. Tôi muốn được yên tĩnh trong cái hang mà tôi đến náu mình. Chỗ nào tôi cũng rơi vào những đám trẻ la hét hoặc những ông hàng xóm say rượu.
Tôi chỉ hơi được yên ổn ở một ngôi nhà mà buồng của tôi trông ra khoảng trời rộng! Tôi được thật sự một mình và trông thấy cả bầu trời; nhưng dưới nhà có một tiệm cà-phê mà tôi phải đi qua mỗi lần về nhà; thành thử buổi tối tôi bắt buộc phải về trước khi tiệm đóng cửa, như vậy là phải bỏ những cuộc thảo luận sôi nổi với bạn bè. Cứ thảo luận đến lúc rôm rả bốc cao thì lại phải ra về. Như vậy thật là khổ, và đã vài ba lần tôi không quay về nhà, hai giờ sang ra khỏi khách sạn Lixbon, tôi nện gót trên hè phố đến rã cả người cho tới lúc tiệm cà-phê mở mắt và hạ ván cửa hàng.
Tôi rất mệt vì cuộc đi lang thang trong đêm hôm, và tôi cảm thấy nỗi buồn nặng trịch và giá lạnh vì mệt mỏi. Hơn nữa, tôi còn phải chịu đựng cái nhìn của bà chủ nhà, dù sao bà cũng đã đợi cửa tôi một chút – đôi khi đợi cả nửa tháng tiền nhà của tôi nữa!…
Lúc tôi trở về, người rét lập cập, quần áo nhàu nát, chân kéo lê, bà có vẻ như nói với tôi rằng tôi vẫn còn tiền để đi chơi đêm, thì nên xoay tiền mà trả tiền buồng.
Bà có cái thói vứt các bó hoa của tôi vào chậu rác, nếu tôi đã tự cho phép mình có hoa trong khi còn nợ của bà bốn hay năm phơrăng.
Chồng bà, chẳng may, lại là một người tốt.
Chẳng may! Đúng vậy, vì tôi sẽ đánh hắn ta nếu hắn cũng như mụ vợ hắn, và tôi sẽ cho hắn mấy cái đá để đền vào những bó hoa của tôi bị ném vào chậu rác.
Tương lai chúng ta thể nào cũng nở hoa v.v…
Tôi không trông thấy tương lai của tôi nở hoa mà chỉ thấy hoa của tôi thối rữa.
(Đáng lẽ tôi có thể có nơi chịu, nếu tới các khách sạn chứa sinh viên, ở đấy người ta hỏi tên cha mẹ họ chứ không hỏi đến màu sắc đồng tiền của họ. Thầy tôi có thể được coi là xứng đáng với một căn buồng hai chục phơrăng. Tất cả đám bạn bè của tôi đều làm như thế cả, nhưng tôi không nghĩ rằng tôi có quyền cam kết bằng cái tên của thầy tôi để bớt được vài con rệp và có thêm được một chút hạnh phúc!)
Một buồng mười phơ răng dù rất hẹp, tôi cũng đã có lần cho một người khác ở chung.
Matutxanh đã làm quen ở đâu không biết với một cựu giáp binh – tay này đang chờ một món tiền. Ấy là hắn tuyên bố như thế; hắn sẽ cho tất cả chúng tôi vay vào số tiền đó; hắn hứa với Matutxanh là sẽ xuất bản cuốn Lịch sử Thanh niên của anh mà hắn tỏ vẻ hết sức quan tâm.
“Quyển đó viết bằng những viên đạn.” hắn đã nói vậy.
Hắn đã hoàn toàn chinh phục được Matutxanh bằng cách cung cấp cho anh những chi tiết quân sự, những thuật ngữ, để tăng thêm xúc động cho một cảnh tấn công chiến lũy vào hồi tháng Sáu năm ba chín.
Do đó hắn nhập bọn với chúng tôi và ăn chung với chúng tôi, có gì ăn nấy.
Tới một lúc hắn không có chỗ ở - mà hắn thì cần có một chỗ - để có địa chỉ cho người ta gửi tiền đến.
“Cậu hiểu đấy, chính cậu phải cho hắn ở thôi, Matutxanh nói với tôi, Roayani và các bạn khác đều có vợ cả… họ không thể để cho tay giáp binh ngủ chung với họ được. Tớ thì có Ăngiơlina. Cậu thử đặt cậu vào địa vị tớ xem…”
Vào địa vị của Matutxanh, không – Ăngiơlina gầy quá.
Vậy thì tôi, kẻ độc thân, tôi phải giúp việc đó cho tập thể: tôi đã không dám từ chối.
Ôi chao! Tội tình biết mấy! Lúc nào cũng kè kè tay giáp binh hộ pháp đó ở bên cạnh! Hắn đã bảo với ông chủ nhà rằng hắn là anh tôi, để giải thích việc hai đứa sống chung.
Mẹ tôi bỗng dưng gánh thêm một thằng con nữa sẽ nói sao? – vì bị kết tội là có một đứa con mà thầy tôi không biết!
Đúng là sống chung thật! Tay giáp binh xen vào các suy nghĩ của tôi, xộc vào cuộc đời tôi, ngăn không cho tôi ngủ nếu tôi muốn ngủ, không cho tôi đi lại nếu tôi muốn đi lại; cặp giò của hắn chiếm hết cả chỗ! Hắn có một cái tẩu thuốc hôi dình dình và một cái sọ làm tôi kinh tởm, hói trọc ở giữa như đầu thầy tu hoặc như đít khỉ. Khi ngủ hắn quay lưng lại tôi, tôi trông thấy chỗ sọ trắng hếu đó… tôi phải dậy nhiều lần để hít không khí; tôi muốn giết hắn!
Nhưng một buổi sáng kia, tôi không cảm thấy cái xác to tướng của hắn tở bên tôi nữa. Hắn đã tếch rồi! và mang theo đôi giầy của tôi. Tôi phải đợi đến lúc tối mịt mới đi bít-tất không tới khách sạn Lixbon, tôi có vẻ như một người hành hương – một thủy thủ trẻ tuổi đã hứa trong một cuộc đắm tàu sẽ đi chân đất hoặc đi bít-tất len không, mang nến đến lễ ở Xanhtơ-Giơnơvievơ.
Tôi là đứa chưa vợ duy nhất trong cả bọn. Như thế vì rất nhiều lý do!
Trước hết, bạn bè muốn tôi sống độc thân để tiếp tục làm đứa chạy những việc phải đi xa nhất và làm trẻ sai bảo vặt.
- Mày thì mày không có vợ chờ ở nhà! Mày chỉ phải nuôi mỗi thân mày. Đàn ông thì miễn sao không có một cái quần là đủ! Nhưng khi phải sắm sửa áo dài cho đàn bà… Mày sẽ ăn ở đây với vợ chồng tao. Thật là tiết kiệm! Mày hãy tới thằng ấy, vay lấy năm phơrăng, tao thì tao không thể tới đó được, vì con vợ nó. Ăngiơlina nó ghen… Và cái này, cái nọ!
Ngày nào mà tôi lập gia đình thì cả nhóm sẽ mất bộ giò của tôi, ý nghĩ của tôi, những đồng xu của tôi! Khách sạn Lixbon không muốn chứa một cặp vợ chồng nào khác nữa, không còn chỗ: vả lại chủ nhà cũng chán ngấy cái món ấy rồi. Hơn nữa cho đến nay, tôi hầu như hòa thuận với hết thảy mọi người. Người bạn đời của tôi sẽ làm tôi xích mích với tất cả. Vậy nên họ thông đồng với nhau để ủng hộ cảnh sống độc thân của tôi.
Cô vợ của một cậu béo lùn thỉnh thoảng tới chơi với chúng tôi là người hăng phá đám tôi nhất, mỗi lần một cuộc gặp gỡ hay một mẩu chuyện trò với một cô gái tóc hung nào là đưa đến vài lời chế giễu và gây mối lo ngại.
- Cô Ema, dù tôi có dính líu với một cô nào hay không thì việc đó động chạm gì đến cô, tôi nói với cô ta, một buổi tối, hai người ngồi với nhau, không có chuyện gì mới nói tới chuyện đó.
- Có lẽ có đụng chạm đấy, cô vừa nói vừa tủm tỉm cười và hạ mắt nhìn xuống.
Tôi có vẻ không hiểu. Cô ta muốn nói cho rõ thêm.
- Thế Ađônfơ? Nếu Ađônfơ biết!…
- Tại sao anh lại muốn cho anh ấy biết, có phải anh sẽ nói với anh ấy không, và cô ngửa đầu phô ra chiếc cổ trắng như sữa – cổ Pôlôni hồi xưa! Và ngón tay cô dịu dàng như lụa ấm gạt mớ tóc xòa trên má tôi.
Tôi thoáng như có một chút hối hận, nhưng Ađônfơ không phải là bạn thân của tôi, chỉ là một người quen biết ở xóm la-tinh, có vậy thôi.
Cô vốn người ở nông thôn và chúng tôi nói chuyện suối, chuyện anh đào trong vườn, chuyện đồng cỏ, chúng tôi nói chuyện cỏ khô và quả dâu.
- Này, anh có hiểu tại sao em yêu anh không! Em yêu anh vì anh mà làm một tay chăn bò thì thật bảnh.
Tôi không biết mình nên hãnh diện hay nên phật lòng, nhưng nghe cô nói và ôm hôn cô, tôi cảm thấy thú vị cũng như khi ngửi mùi mật ong và cọ mũi vào lá tươi.
Thỉnh thoảng tôi đi dự khiêu vũ, bao giờ tôi cũng gây sự đánh nhau. Một khi đã bốc lên, không tự kiềm chế mình nữa, tôi đi tới những cử chỉ man rợ và điên loạn trong tàn bạo. Một khi không còn lễ độ nữa tôi trở nên bốp chát, hung hăng, mù quáng. Trong các cuộc ẩu đả, tôi cảm thấy một niềm vui thú vật, tôi xông vào đám loạn đả như một con gấu say nho. Ấy là sự trả thù những đè nén của bố mẹ, sự o ép trong gia đình, tôi dấn mình trong các cuộc xô xát với tất cả sức mạnh của mối căm hờn đối với những trận đòn mà tôi đã tiếp nhận vì hiếu hạnh, đối với những sỉ nhục mà tôi đã phải chịu vì kỷ cương trong đạo thày trò. Và tôi hầu như nổi tiếng là một thằng hay gây sự đánh nhau trong các cuộc khiêu vũ!
Ở cuối một cái sân tại phố Xanh-Ônorê, trong một nhà hầm cũng là nơi khiêu vũ mà Matutxanh dẫn tôi đến, tôi đã để lại chiếc áo choàng, chiếc áo sơ-mi và gần như cả bộ da của tôi nữa trong tay bốn thằng mà tôi muốn đương đầu. Chúng đã gọi tôi là quan viên tỉnh lẻ và ấn mũ của tôi chụp xuống mắt. Dân tỉnh lẻ, chắc hẳn là tôi có cái vẻ ấy rồi, và chính vì vậy tôi đấm đá dữ dội đến thế, đó là mối hổ thẹn trong cơn cuồng nộ! đòn này vì hổ thẹn, đòn nọ vì cuồng nộ, và hai tình cảm đó xen lộn, đám bạn cũng hùa vào, và mọi người quần nhau trong bụi!)
Người ta đã đánh tôi suốt hồi còn nhỏ, làm xương và da của tôi rắn lại – không phải tim, tôi nghĩ thế! Nhưng tôi cảm thấy không hiểu niềm vui hung dữ thế nào khi được đọ sức với những thằng huênh hoang cậy khỏe.
Đối với những kẻ điên rồ khiêu khích tôi, tôi thét bảo:
- Thế chúng mày không biết rằng tao đã phải chịu roi vọt suốt mười năm trời à… vì giới luật của Chúa và của Nhà thờ muốn thế… Thật ra tao bất chấp những cái đó nhưng nếu tao kêu to quá, người ta sẽ cách chức thầy tao… Thôi dẹp ra, để tao sửa cho nó một trận, cái thằng điên rồ đã gây sự với tao, một thằng vừa thoát khỏi bàn tay bố mẹ!.. Tao có cả mười năm giận dữ trong gân cốt, có máu nông dân trong mạch máu, có bản năng nổi loạn… Tao không muốn độc ác, nhưng tao cần thải đi những đòn mà tao đã phải chịu… Đừng có đụng đến tao! Liệu hồn!… Để tao yên, tao đã bảo! tao có lợi thế hơn chúng máy nhiều!
Tôi càng tàn bạo nhiều với kẻ nào chạm đến nỗi đau khổ hoặc lòng kiêu hãnh của tôi, với kẻ nào định kế tục quả đấm của ông bố Vanhtrax, thì tôi lại càng nhịn nhường và cổ hủ bấy nhiêu đối với bạn bè.
Tôi đã chỉ định Matutxanh làm kẻ cầm đầu của bọn tôi – và, chẳng phải là thán phục anh, với riêng anh tôi vẫn thường đùa bỡn nhưng tôi theo anh như một kẻ cuồng tín. Tôi đã đọc sách thấy rằng phải nghe nhau, phải họp thành một bè cánh. Tôi đã đọc thấy thế trong sách của Muyêcgiê cũng như của Đuyma, và tôi tự nhận đóng vai Pooctôx trong Ba người ngự lâm pháo thủ, phần nào vai Baptixt trong Đời nghệ sĩ lang thang: vì tôi là “lính mới” vì hồi bé tôi không nhìn thấy gì, vì tôi tự cảm thấy mình vụng về dốt nát, không phải như một dân tỉnh lẻ, mà như một thằng xổng tù, một thằng bị hành hạ đang ruỗi chân tay.
Tôi đã đứng về phe Matutxanh và những người khác trong cuộc đại chiến giữa bọn ký phán và sinh viên. Tôi thấy hình như phải đả bọn ký phán, hình như bọn ký phán là tư sản và phản động – thế là tôi đả họ. Tôi tiêu phí sức lực của tôi vào việc đó, và tôi lấy hết vinh quang được coi như lực sĩ của nhóm.
Tôi chẳng làm gì cả: cái lười biếng mà tôi đổ trách nhiệm cho cách giáo dục tôi! Tôi còn phải vùng vẫy chân tay ít lâu nữa mới có thể đi vào con đường đúng đắn của tôi và buộc cái đầu bị bợp nhiều quá của tôi chuyên chú vào làm việc.
Tôi không làm gì cả, - xin lỗi! mỗi tuần năm lần, tôi kiếm được mỗi lần một hào. Tôi dạy học con trai một người gác cổng. Như vậy, cộng với số tiền bốn chục phơrăng hàng tháng, mỗi tuần tôi có mười hai phơrăng rưỡi. Tôi không tiêu hơn một đồng kẽm nào nữa!