- V - CHIẾC ÁO XANH LÁ CÂY
Một anh bạn đã dẫn tôi đến một hiệu bánh sữa, có một cô gái mà cả bọn đều mê.
Quả là cô ta rất xinh, cô tóc nâu với cái đầu Do-thái ấy, và chưa bao giờ ở bên cạnh các bà vợ giáo sư hoặc một cô gái lẳng lơ, tôi có cái cảm giác giống như khi nghe chiếc váy của cô sột soạt. Và rồi cô nhìn tôi với con mắt vui vẻ làm sao, với nụ cười để lộ hàm răng trắng đẹp làm sao!
Cô cứ nhìn tôi, nhìn mãi – nhìn dai dẳng làm tôi bắt đầu thấy thích chí.
Tôi có duyên thật chăng? Cô ta cười. – Và thế à cô phá lên cười!
“Xin lỗi ông, ôi chao! tôi thành thực xin lỗi ông; là vì ông có vẻ rất ngộ với cái áo xanh lá cây và chiếc gi-lê vàng của ông!”
Và cô lại cười ngặt nghẽo, cười đến chảy cả nước mắt và phải khép chặt hai đầu gối lại.
Trông tôi giống như con búp bê ở hiệu cắt tóc, như một người máy. Tôi xoay người trên ghế, cử động như một kẻ bị tội xiên cọc vào đít mà vẫn còn đưa đẩy con mắt được, nhưng đã đến lúc co giật giãy chết… Tôi đưa mắt sang phải, sang trái, một lần, hai lần. – mà không dám nhìn chăm chú vào một cái gì hoặc một người nào… Trong óc tôi thoáng qua ý nghĩ tôi là một trò chơi ở hội chợ để người ta ném bong, ném bi lấy thưởng, còn tôi thì có vẻ như muốn nói: Hãy nhắm cho trúng.
Cuối cùng, niềm vui của cô gái nguôi đi, và cô đến kéo tôi ra khỏi ghế như người ta rút ra khỏi cọc một hình người, trong một lúc nó còn giữ cái vẻ gì là cứng đuỗn và gần như thô lậu.
“Anh không giận tôi lắm chứ? Tôi cố nhịn mà không được đấy.”
Trong giọng nói của cô có chút sượng sùng vui vẻ, và cô cầm lấy bàn tay tôi:
“Bắt tay, bắt tay thân thiện để chứng tỏ là anh không giận đi nào…”
Người tôi vẫn chưa hết cứng đờ và tôi phải dùng cách ra hiệu để bày tỏ ý định của một con rối rộng lượng; tôi giơ tay ra rồi rụt lại, tôi gật đầu – như tên Gôlô[10] hèn hạ trong kịch múa rối ở Hội chợ bánh ngọt.
Chính cái áo và chiếc gi-lê đã đặt tôi vào tình trạng đó!
Một cái áo và một chiếc gi-lê mới toanh, mẹ tôi bỏ vào một chiếc hòm gửi từ Năngtơ tới cho tôi sáng nay.
Tôi lại tưởng mình vận bộ này, thì trông thật là oách.
Cổ áo có làm tôi lo lắng một chút; tôi thấy như nó cao quá so với mốt thời nay; chiếc áo gi-lê thì hình như dài quá đến mấy đốt; nhưng tôi nhớ lại những lý thuyết về cách ăn vận sang trọng mà mẹ tôi thường hay nói đến, và tôi đi ra phố, không có ý định dìm người khác, nhưng với một chút kiêu hãnh có thể dùng thử được đối với một thanh niên có giáo dục mặc mở hàng một bộ quần áo đẹp.
Chắc hẳn lỗi là tự cái gương của tôi, một cái gương bốn xu soi vào không thấy rõ cả người.
Giá như tôi đã trông thấy được mình!… Tôi đâu có phải là kẻ thô kệch, thật đấy! Tôi biết rõ cái gì đỏm dáng, cái gì không! Trong khi chờ đợi, tôi đã nực cười tới tận chân tóc.
Tôi những muốn đâm đầu xuống sông, rời khỏi nước Pháp!
Giá như kẻ đã giễu tôi là một người đàn ông!… Tôi sẽ tát vào mặt hắn… rồi thì đấu gươm!
Nhưng trong những người có mặt ở đó không một ai chửi tôi. Vả lại, vì tôi đã đảo mắt lia lịa để khỏi nhìn vào ai nên tôi đã không trông thấy gì hết.
Vậy thì tôi sẽ đâm đâu xuống sông hoặc rời khỏi nước Pháp!
Đâm đầu xuống sông ư?… Nên vĩnh biệt Tổ quốc thì hơn!… Mà thế cũng không nên!
Tôi sẽ có vẻ trốn quân địch, từ chối không nộp thuế máu! Như vậy là xấu.
Nghĩ tới đó thì tôi ngủ thiếp đi.
Bác đưa thư đánh thức tôi dậy.
- Ông Vanhtrax, có thư!…
Tôi có tin được ở mắt tôi không!
Do Matutxanh, tôi mắc phải thói quen trịnh trọng đến nỗi đáng lẽ phải nói: “Chà! Có thể thế này sao!” thì đôi khi tôi lại nói: Tôi có tin được ở mắt tôi không!
Hãy đọc bức thư xem sao!
“Khách sạn Tử-quốc,
“Thưa ông,
“Tôi vẫn còn rất xấu hổ về mình, xấu hổ vô cùng!… Tôi sợ đã làm ông mếch lòng. Tôi chỉ có thể yên tâm khi nào (không khó chịu về chiếc áo đẹp của ông) ông nói với tôi rằng ông chỉ coi nó như tính vui đùa của thiếu nữ, có thế thôi.
Vậy xin ông hãy vui lòng chơi với chúng tôi vào hồi năm giờ chiều hôm nay, để tỏ rằng ông không còn giận tôi nữa. Lúc ấy sẽ chỉ có mẹ tôi với tôi thôi. Những người ở trọ chưa về, tôi sẽ có thể xin lỗi ông được dễ dàng hơn. Sau đó mới ông sơi cơm tối với chúng tôi, và chính tôi là người mời ông để chuộc lỗi.
“Alêcđăngđrin Mutông”
Cô bé thật đáng yêu.
Giả sử mẹ tôi không gửi cho tôi cái áo xanh lá cây với chiếc gi-lê vàng ấy thì bây giờ tôi tiếc biết mấy!
(Khách sạn Mutông, sau đây sẽ chiếm một chỗ rất lớn trong lòng tôi, chỉ chiếm một chỗ khá chật hẹp trong phố. Mặt ngoài khách sạn quét vôi màu vàng cà-phê sữa, và treo một tấm biển sơn màu vàng trứng rán. Nơi đây vừa là khách sạn vừa là hiệu bán sữa. Trong gian buồng ở tầng dưới người ta bán cà-phê sữa, sô-cô-la, v,v… và cả mận và anh đào ướp rượu mạnh nữa. Cô Alêcdăngđrin ngồi chễm chệ ở quầy bán anh đào và mận và để cho mẹ cô bưng bát bưng cốc từ dưới bếp lên.
Ở phía trong cùng căn buồng này, về phía tay phải, có một cầu thang xoáy trôn ốc dẫn đến buồng của bà mẹ và của cô gái – ôi chao! căn buồng ấy! nhưng hãy im đi, hỡi trái tim ta ơi…)
Tôi yêu cô ta.
Câu chuyện đã xảy đến như thế nào?
Tôi chỉ biết là buổi tối mà cô gọi là tối chuộc lỗi, cô đã mời tôi ăn cơm để tự trừng phạt, và để tự trừng phạt hơn nữa, cô bắt tôi phải ngồi bên cạnh cô; tôi chỉ biết là buổi tối hôm đó, tôi đã không thử đóng vai thi sĩ hay nghệ sĩ lang thang, mà cũng không phải vai người cộng hòa nữa (xin lỗi các liệt sĩ vĩ đại!); tôi đã không thử làm ra vẻ anh hùng, vẻ bạc mệnh, vẻ khác đời, hoặc bất cứ vẻ gì mà người ta thường bày ra khi ngồi gần phụ nữ và khi người ta mới mười bảy tuổi.
Tôi đã chỉ nói chuyện giản dị về cái áo và chiếc gi-lê của tôi, về vẻ ngốc nghếch của tôi, về ý định muốn nhảy xuống sông, được thay bằng quyết định rời khỏi nước Pháp; tôi kể lại rằng đây không phải là lần đầu tiên mẹ tôi đẩy tôi vào con đường tự sát với những chiếc gi-lê dài quá hoặc những cổ áo cao quá, và tôi lại làm cô bật cười – nhưng không to quá như lần trước – một tiếng cười dịu dàng và trong trẻo, lúc nào đó, lại còn đượm thêm một giọt lệ nhỏ. Một câu chuyện về thời thơ ấu của tôi đã làm rơi hạt ngọc đó từ cặp mắt thương cảm của cô.
- Ôi chao! tôi càng giận tôi hơn về cử chỉ của tôi, cô nói, và cô cầm lấy bàn tay tôi như tay một đứa trẻ con và xiết chặt.
Trước bữa ăn, chúng tôi đã giở những trò thi sức, và bàn tay tôi đã bẻ gập mấy cổ tay khác và đã cử vài quả tạ trong góc nhà. Bây giờ bàn tay ấy run rẩy như chiếc lá.
Tới một lúc, mắt chúng tôi đã nói với nhau những điều mà miệng chúng tôi không muốn nói; tay chúng tôi rời nhau, nhưng trái tim chúng tôi gắn bó với nhau…
Tối nào tôi cũng tới đó; tôi tới đó uống cà-phê, rồi đến ăn cơm bữa, một buổi sáng nọ, tôi khiêng hòm tới! Chính cô ta muốn thế.
Tôi sống ở khách sạn Mutông một cuộc sống thật sung sướng, giữa tình yêu và chính trị, giữa cái đầu tóc nâu của Alêcdăngđrin và tượng bán thân của thần Tự do.
Bà mẹ Mutông có mong tôi sẽ lấy con gái của bà không, ông bố Mutông có tin ở tương lai của tôi không?…
Họ cho tôi ở trọ chịu. Họ còn giới thiệu để tôi dạy tiếng Pháp cho một người Nga là khách trọ ở đấy nữa.
Người Nga đó trả tôi ba mươi phơrăng một tháng. – Tôi dạy anh ta tiếng Pháp chẳng nhiều gì, nhưng cứ hai ngày tôi lại viết hộ anh ta một bức thư, giọng văn nồng cháy, để gửi cho một cô đào hát ở rạp Tiêu khiển mà anh ta yêu mê mệt.
Bốn mươi phơrăng cộng với ba mươi phơrăng thì ở đâu cũng thành bảy mươi phơrăng(francs).
Tôi có bảy mươi phơrăng!… Tôi đưa năm mươi phơrăng cho ông bố Mutông, ông hài lòng và trả cả tiền rượu cho tôi nữa. Tôi giữ lại hai mươi phơrăng để chi tiền thợ giặt, tiền thuốc lá và những món ngông cuồng của tôi! Trong số hai mươi phơrăng đó, cũng phải nói là chủ nhật nào tôi cũng đem bốn hào cho chú học trò cũ của tôi, con trai người gác cổng. Bố nó đã chết, và không có tôi với ông chủ nó, một ông già nghèo làm nghề giấy bồi, nó sẽ phải vào nhà tế bần.
Tôi kiếm sống, tôi có người yêu, và tôi chờ Cách mạng.
Chú thích:
[10] Tên phản bội trong truyện cổ.