- VI - CHÍNH TRỊ
Tôi yêu những ai đau khổ, đấy là cái bản chất sâu xa của tôi, tôi cảm thấy thế - và mặc dù tôi có tính thô bạo và lười biếng, tôi tưởng nhớ, tôi suy nghĩ, và đầu óc tôi làm việc. Tôi đọc những sách nói về cảnh bần cùng.
Cái đã chiếm khoảng lớn trong trái tim tôi, chính là niềm tin chính trị, ngọn lửa cộng hòa.
Bọn tôi là một nhóm những người tiến bộ. Không phải là chúng tôi đồng ý với nhau trên tất cả mọi vấn đề, nhưng tất cả chúng tôi đều tán thành Cách mạng.
“NĂM 93, ĐIỂM CAO CỦA LỊCH SỬ ẤY; ĐẠI HỘI QUỐC ƯỚC, BẢN ANH HÙNG CA ILIAT ẤY; ÔNG CHA CHÚNG TA, NHŨNG CON NGƯỜI KHỔNG LỒ ẤY.”
Khi tôi nói chúng tôi đồng ý với nhau, có nghĩa là chúng tôi đã suýt đánh nhau hơn một lần: một hôm tôi gọi Rôbexpie[11] là một giám thị và Jăng-Jăc[12] là một chàng “phớt lạnh”.
“Phớt lạnh” suýt gây bất hòa giữa tôi với cả bọn.
Người ta bỏ qua cho tôi về việc gọi Roobexpie là giám thị, với điều kiện sẽ trở lại vấn đề và thảo luận cái đó sau, nhưng “phớt lạnh” gắn cho Rutxô thì quá lắm.
Tôi nói vậy có ý nghĩa gì? Khi người ta ném ra những tiếng như thế, thì phải giải thích… “Phớt lạnh” nghĩa là gì?
Hừ! lạy Chúa, tôi không phải là thầy thuốc, nhưng bao giờ tôi cũng thấy người ta dùng chữ “phớt lạnh”, kể cả mẹ tôi, để gọi những người nào không mạnh bạo, thẳng thắn – có vẻ nham hiểm, ngấm ngầm!
- Vậy là Jăng-Jăc ngấm ngầm hả?
Tôi loay hoay mãi không giải thích nổi và tôi đã phải xin lỗi, phải rút tiếng “phớt lạnh”. Tôi rút lui miễn cưỡng để được yên thân.
Ông ta không cười bao giờ, cái ông Rutxô ấy, ông ta kiểu cách, sướt mướt; ông ta viết những câu tuồng như không xuất phát từ trái tim; ông nói với người La-mã kiểu như ở trường trung học bọn tôi đã từng làm trong các bài tập…
Ông ta sặc mùi nhà trường.
Phớt lạnh, phải, đúng vậy!
Tôi ưa Vonte. Tôi thích Vonte hơn Rutxô.
- Vonte à? Matutxanh kêu lên.
Anh ném vào mặt tôi nhũng câu thơ của Huygô…
…Con khỉ thiên tài ấy!
Tôi để cho cơn giông tố qua đi và vẫn giữ ý kiến, và làm cho sai lầm của tôi càng nặng thêm; cái ông Vonte hợp với tôi không phải là Vonte của các tác phẩm lớn, mà là Vonte của những chuyện ngắn, Vonte vui vẻ, búng tay cả với thượng đế, nhoẻn cười với quỷ, và cứ thế la lớn với tất cả…
“NHƯ VẬY CẬU LÀ MỘT THẰNG HOÀI NGHI À??”
Matutxanh vừa hỏi, vừa lùi xa ra hai bước và khoanh tay nhìn thẳng vào mắt tôi.
Tôi đã rút chữ phớt lạnh đối với Rutxô, tôi giữ lấy chữ hoài nghi cho tôi.
- Thế mà mày tự cho mình là cách mạng!…
- Tôi chẳng tự cho là gì cả. Tôi cho rằng Rutxô làm tôi phát bực. Cả Vonte nữa, khi nào ông ta làm ra vẻ trịnh trọng, và tôi không ưng người ta làm cho mình bực; nếu muốn làm Cách mạng mà trước hết phải bực mình đã, thì tôi xin rút lui. Tôi đã khá bực mình hồi ở nhà với bố mẹ.
- Vậy mày làm cách mạng cho vui à? Matutxanh vừa nói vừa đưa mắt vừa đưa mắt nhìn quanh cả bọn, để cho mọi người thấy tôi đã đuối thế nào.
Tôi đâm bí và tôi lúng búng vài lời giải thích không ra sao hết. Chính sự bối rối đó lại cứu tôi. Matutxanh sợ rằng cuối cùng tôi sẽ tìm được câu gì để trả lời, liền tuyên bố với tôi rằng anh biết là “tôi đã đi quá xa ý muốn của tôi, chứ tôi không phải là kẻ coi cách mạng như một trò đùa và đi giễu lá cờ của ông cha như một đồ chơi…
“Có điều là, cậu thấy không, cậu có cái tật muốn nói ngược lại mọi người, thế là đôi khi cậu mắc kẹt đấy thôi!” và anh cười ra vẻ một người chiến thắng rộng lượng.
Nói chung là mọi người đều thấy tôi không có lấy hai xu nhiệt tình.
Không nhiệt tình! Các bạn nói gì vậy?
Cứ đến giờ phát hành tờ Tiếng nói của dân chúng tôi lại run rẩy đến tháo tờ báo treo ở sợi dây chỉ trong tủ kính của rượu vang; tôi trả một xu và tôi bỏ đi sung sướng như vừa mua được một khẩu súng. Bút pháp của Pruđông tóe lửa như anh mặt trời rọi vào cửa kính và tôi như thấy qua các dòng chữ lấp lánh một lưỡi lê.
Không có nhiệt tình? Chà! Cứ lật một viên đá lát đường lên rồi các anh thấy tôi có đáp có tôi theo tiếng gọi của những người dựng chiến lũy hay không, tôi có câm lặng và tái mặt ra xếp hàng hay không dưới lá cờ ghi chữ: Chết trong chiến đấu!
Không có nhiệt tình! Nhưng đôi lúc tôi tự hỏi có phải trái lại tôi là một tu sĩ ngược chiều hay không, tôi có phải là một chú tiểu của cuộc nổi loạn, một tên nô lệ nhỏ perinde ac cadaver[13] của Cách mạng hay không?
Tại sao bao giờ tôi cũng thấy rùng mình trước những lời kêu gọi nổi loạn đầu tiên? Tại sao lại có sự thèm khát chiến đấu ấy, và cả thèm khát hi sinh nữa? Tôi sẽ chịu nhục hình và sẽ chết như một người anh hùng, tôi tin thế, trong tiếng điệp khúc của bài Macxâye…
Ở khách sạn Lixbon, họ thấy tôi không có đức tin! Họ bất bình với tôi vì đã không tin ở danh nhân và ở sách vở - Tôi đang sợ là mình còn quá tin thì có! Tôi thấy trong sự nhiệt tình của tôi có xen lẫn một thứ lãng mạn do ham đọc sách khiến tôi nhìn khởi nghĩa đầy thi vị và cao cả, và hứa hẹn với xác chết của những người cộng hòa một bài diễn văn đánh nhịp bằng tiếng súng đại bác.
Tôi có biết rõ tại sao tôi muốn chiến đấu và rồi chiến thắng sẽ đem lại cái gì không? Không rõ lắm. Nhưng tôi cảm thấy rõ ràng là vị trí của tôi là ở phía có người kêu lên: Cộng hòa dân chủ và xã hội muôn năm! Đứng về phía đó là tất cả những đứa con đã bị bố hành hạ bất công, tất cả những học sinh đã bị thầy giáo làm ứa máu vì những đòn nhục nhã, tất cả những giáo sư đã bị ông hiệu trưởng chửi mắng, tất cả những ai bị đói khát vì những sự bất công!…
Chúng tôi đứng ở phía đó.
Ở phía bên kia là những kẻ sống dựa vào quá khứ, vào tập tục, vào thói cổ hủ, những lão Lownhanha, Tuyeecfanh, những bọn có môn bài, những tên ngồi ăn béo!
Tôi đã ngán những trò độc ác mà tôi đã trông thấy, những việc ngu xuẩn mà tôi đã chứng kiến, những cảnh buồn rầu diễn ra bên cạnh tôi, để biết rằng xã hội này là hỏng, và hễ có dịp là tôi sẽ nói với nó bằng súng… Không phải nhiệt tình giả tạo, không! Nhưng phải nóng lòng vì điều thiện và phải say mê chiến đấu!
Khách sạn Mutông đã thay thế cho khách sạn Lixbon. Khách sạn Lixbon chết rồi; một tay buôn rượu vang kiêm chủ hiệu ăn đã thế chân lão bán rượu vang lẻ, và đã chiếm cả tòa nhà đó.
Các buồng của đám nghệ sĩ lang thang đã biến thành những buồng riêng. Nơi xưa kia chúng tôi nhặt đậu, nay người ta dọn gà tần và thịt thăn xào nấm; những dĩa ụ tôm – biểu tượng của sự thụt lùi – nở hoa giữa nơi xưa kia những con người tiền phong la hét! Ngôi nhà này trước là nơi người ta đập vỡ cái vỏ thành kiến, nay mang cái tên: có món sên ốc trứ danh.
Khách sạn Lixbon chết rồi.
Mỗi người tan đi một ngả; Roayani đã chim được cô con gái bà gác cổng và sống với cô ta như một tay tư bản, ở góc phố Lệnh – bà.
Roayani trở thành con người như thế đó! những anh chàng ồn ào hồi xưa bây giờ đều thế cả! Vả lại Roayani muốn làm quản lý văn khế; hắn để tóc bù sù chỉ là để đùa vui, và tự hứa sẽ hói đầu khi cần. – một khi đã thi đỗ xong, - nếu cái đó giúp phòng quản lý văn khế của hắn đắt khách.
Matutxanh thì bám lấy ngôi mộ của một nhà từ thiện, một tay làm phúc thường phát cháo ở ngoài phố; gia đình anh ta muốn dựng tượng cho ông ta, họ nghĩ rằng một quyển sách ghi những sự tích về lòng thiện của ông ta sẽ củng cố thêm vinh quang của người đã chết, danh tiếng của ông sẽ nằm trong đó như một chiếc thìa trong món súp Ôvecnhơ, và chính Matutxanh đã được trao nhiệm vụ đơm ra bát. Anh đã làm nhiệm vụ một cách thận trọng, khuấy cho những việc làm từ thiện những chuyện làm phúc sủi bọt nổi lềnh bềnh trên cuộc đời của người quá cố như những bọt nổi trên mặt bát canh.
Anh ta sống rất dễ chịu ở nhà đám người kế thừa ông nọ, trừ mỗi chuyện là bữa nào cũng phải ăn cháo – để tưởng nhớ đến vong linh của nhà từ thiện – thành thử bụng cứ to ra, Matutxanh cố giấu cũng vô ích; anh có cái bụng phệ, điều đó làm diện mạo anh bớt kì dị đi rất nhiều.
Và chăng, anh đã dứt khoát ăn vào nồi của người phúc đức kia, ăn vận kiểu áo tròn trĩnh của nhà hiền giả - giống áo của các pháp quan thời xưa trong những vở tuồng câm; anh đội một chiếc mũ thấp và đi giầy buộc giải.
Tôi nghĩ là cô Ăngiơlina đã bỏ anh và đã lừa anh. Anh bảo cô ta đang đi nghỉ tại nhà một người bà con; nhưng người bà con này nghe đâu có ria mép và đội mũ nhọn.
Chiếc mũ mới của Matutxanh húp cháo đối với Ăngiơlina hình như là một sự hèn hạ và chiếc áo giáp quan là một sự phản bội.
- Hơn nữa, cô đã thổ lộ với một vài người, anh ta chỉ còn có những cử chỉ của kẻ vớt bọt nồi nước hầm.
Nhưng không; Matutxanh không phản bội, và mặc dù anh ta có mùi cháo ấy và những thứ áo tròn trĩnh ấy, anh vẫn gắn bó với những tư tưởng tiến bộ - cả chiều dài bộ tóc của anh, mà anh vẫn không hi sinh, nhưng anh chải thành từng cuộn buông xõa trên cổ áo trắng, loe rộng như một cái đĩa.
(Anh đã làm quen được với một nhà thơ.
Bulimiê, nhà thơ của chúng tôi, có nước da đỏ của người dân xứ Buôcgônnhơ và mắt đeo mục kỉnh của một người Đức, hàm răng ngựa của một người Ăng-lê. Anh ta cao lớn, ăn vận luộm thuộm với những chiếc áo rơđanhgốt của người truyền đạo làm cho cái thân hình cận vệ binh của anh đâm ra lố bịch. Hai chân anh to sù, anh gây cho chúng tôi một ấn tượng rất mạnh. Thật là ngộ! Lúc nào chúng tôi cũng nói chuyện về tuổi trẻ, chúng tôi vận những kiểu áo ngắn, để tóc dài, chúng tôi giễu cợt những ai đeo kính, chúng tôi muốn có nước da xanh nhạt, xanh tái nữa. Bulimiê thì mặt đỏ như gạch, đeo kính trắng, tóc cắt ngắn như bàn chải, áo dài kiểu giống Quâykơ, năm nay bốn chục tuổi. Anh là bậc vĩ nhân của chúng tôi, là Vates[14] của nhóm chúng tôi.
Matutxanh dẫn Bulimiê đến với chúng tôi một tháng hai lần; cứ vào hôm ấy người ta lại ăn tiệc lớn. Hai bàn chân của Bulimiê chiếm mất nhiều chỗ ở dưới gậm bàn làm vướng mọi người – trong bữa ăn thôi – và tới lúc ăn tráng miệng người ta quên mất chân anh và yêu cầu anh đọc thơ. Anh có rất nhiều. Anh có một loạt bài thơ ngắn nói về làng quê làm cho Matutxanh phục lăn, không ai có thể bảo là Matutxanh ghen tị, chính anh đề cao nhà thơ của mình. Ví bằng những câu thơ tha thiết của Bulimiê nói rằng mình thích ngủ trên cỏ, tức thì Matutxanh ẻo lả tựa má vào bàn tay và làm ra vẻ lim dim ngủ. Phải chăng là cảnh đi câu, anh sẽ có vẻ như đang mắc con giun đỏ vào lưỡi câu, khi đến câu thơ con cá mắc câu, người ta tưởng chừng Matutxanh đang cầm lấy dây câu, rồi xỏ một cọng rơm thường của đồng ruộng vào mang con cá gáy! Bulimiê ví bằng mô tả con lừa con đang đánh hàng tràng rắm ngoài đồng, Matutxanh liền làm ra vẻ người đánh rắm trên ghế ngồi…
Những bài thơ quê hương của Bulimiê không làm cho tôi muốn đến thăm quê anh – những câu thơ anh chàng xứ Buôcgônhơ ấy không có hương vị rượu vang của Buôcgônhơ. Đấy là rượu vang trong sách chứ không phải rượu trong hầm rượu. Buimiê quê ở vùng Tuôcnuyx. Anh ca ngợi Tuôcnuyx. Ở điệp khúc, anh bắt vần Tuôcnuyx với Băckyux[15].
- Anh ấy đọc Tuôcnuyx thì đáng lẽ không được đọc Băckuyxơ…, một chị người nhỏ bé ngồi trong một xó nói, làm cho con mắt của Matutxanh hầm hầm nhìn lại.
Tôi không thích Bulimiê của những bài thơ đó, nhưng tôi thích Bulimiê của những bài theo kiểu Bactêlêmy. Có ba bốn bài màu sắc ấy thỉnh thoảng có mùi của bánh mì đen, đồ nghề, mùi nhân dân và nổi loạn…
Matutxanh không cần nhấn mạnh các bài đó! những câu thơ vang lên như tiếng trống.
Thơ đó làm cho máu bừng đỏ da và rượu vang rót đầy cốc. Uống để chúc mừng Cách mạng, chạm cốc để tưởng nhớ năm 93, sau đó sẽ phải uống nước lã tám ngày ròng vì đã cạn túi trong một lúc để chạm cốc vì nền cộng hòa ấy, nhưng cái lúc đó thật tốt lành vì đã nhuộm đỏ đầu óc chúng tôi trong những năm tháng! Thế vẫn còn là lợi.)
Không phải tất cả mọi người trong khách sạn đều cùng một quan niệm vói chúng tôi; và phải nhờ vào hoàn cảnh đặc biệt do mối tình của tôi tạo nên, chúng tôi mới có thể làm ầm ĩ được như vậy, những ngày hăng say. Chúng tôi trèo cả lên ghế, cử Macxâye – hoạt đầu trầm trầm – nhưng chẳng bao lâu tiếng hát vang lên như sấm, cả ông bố Mutông cũng hát, và những người khách trọ phát cáu.
Một buổi tối, người ta đánh nhau và chúng tôi bị giải đến đồn. Dọc đường, đám kế thừa ông phát cháo trông thấy Matutxanh, hôm sau họ liền cho anh nghỉ việc.
Người ta đồn là anh đã trả thù.
Đồn là anh đã xuống bếp và đã làm “nhục” món cháo – làm “nhục” thế nào? Bằng cách nào? – Anh không bao giờ thổ lộ điều bí mật đó với ai; người ta chỉ biết rằng hôm ấy, trong gia đình Chiếc áo gi-lê nhỏ màu lam, mọi người thấy món cháo có vị lỳ quái.
Trường trung học Pháp.
Từ khi Matutxanh được tự do, trong khu phố người ta chỉ còn nghe thấy tiếng chúng tôi thôi và chúng tôi nổi bật lên trong tất cả các vụ om xòm rối loạn.
Giờ giảng của Mitsơlê[16] là bãi chiến trường lớn của chúng tôi. Thứ năm nào chúng tôi cũng kéo tới trường trung học Pháp.
Trên dọc đường chúng tôi đã làm quen với mấy cậu sinh viên là kẻ thù của bọn thầy dòng Jêduyt, chúng tôi kéo cả bọn đến phố Thánh-Jắc.
Tòa đại học đường ấy nom xấu thật là xấu, nó ở kẹp vào giữa những phố nhơ nhớp và nghèo khổ ấy, nhan nhản những khách sạn có buồng trọ; nó bị bao vậy bởi những người bán sách cũ khốn khổ lúc nào cũng thấy ngồi ở trong cùng cửa hàng tối om, luôn tay dán lại gáy những quyển sách cũ.
Trường trung học! đúng là một trường trung học, mặc dù học trò đã có ria mép. Trông nó rất giống những hành lang và tiền sảnh im lặng dẫn tới các phòng học hay các lớp học. Người ta tưởng sẽ trông thấy viên hiệu trưởng đi qua đang nói chuyện với viên quản lý, rồi bỗng gặp thấy tư-tế hớt hải đi vào, tưởng chừng như tội lỗi đang gọi thầy tới, và thầy rạp mình cúi chào với một nụ cười như mây và trắng bệch.
Thật là buồn! Matutxanh lại không đồng ý như thế:
“Cái gì mày cũng thấy buồn. Mày muốn ở đây có trồng đậu với những bông hoa đỏ chăng?
- Tôi ưng như thế hơn, và tôi cũng ưng ông Mitsơlê đôi khi nói cho rõ hơn!
- Thế là, anh cãi lại, giọng khan khan và cười thương hại, chàng Zôilơ[17] lại đã không vừa ý với bài giảng lần trước của ông ta phải không?…”
Vừa ý? Thì ra anh chàng Matutxanh này cũng chẳng hiểu gì cả, và nếu như không có tinh thần tập thể, tinh thần kỷ luật, thì đáng cho anh ta mấy cái tát! Vừa ý! – Có chứ! Tôi vừa ý! Tôi biết rõ ông Mitsơlê là về phe chúng tôi và phải bệnh vực ông ta.
Hôm thứ năm cách đây hai tuần, tôi chẳng đã đánh một thằng phản động dở sống dở chết vì nó đã nói đúng như tôi nói đấy ư – chỉ khác một điều là nó lấy làm khoái vì bài giảng hôm đó nghe chán ngấy; tôi thì tôi buồn về chuyện đó, vì tôi muốn bài giảng bớt cao siêu, sàn sàn mặt đất hơn. – Phải, Matutxanh ạ, sàn sàn mặt đất hơn. Tôi tưởng như có nhiều người trong đám đông đó cũng sàn sàn mặt đất như tôi…
Tôi cuộc rằng trong số những người vỗ tay có đến ba phần tư không hiểu gì cả.
Bao giờ người ta cũng chờ để vỗ tay.
Khi nào giọng nói hoặc cử chỉ của ông thầy không chỉ rõ, thì hai anh chàng cao lớn – một gã tóc dài, gã kia không tóc – làm hiệu; không chỉ để vỗ tay mà còn để cười nữa; không chỉ để cười mà còn để cười nhạo nữa.
Tôi đã cười nhạo bẫng một vài lần, ngỡ như vậy là đúng, cái đó đã gây tác động rất xấu: những thằng ngồi cạnh tôi đã cười nhạo theo tôi, vì tin cậy, tưởng tôi đã làm theo hiệu lệnh của thằng Hói hoặc thằng Tóc dài, họ rất cáu với tôi và biểu lộ cho tôi thấy.
Cho nên bây giờ tôi cứ đợi cho tiếng cười nhạo được tuyệt đối công nhận đã; tiếng cười không còn gì đáng ngợ nữa; tiếng hoan hô đúng là tiếng hoan hô đích đáng, đến lúc đó mới làm bất cứ cái gì biểu thị nhiệt tình, hoặc niềm vui, hoặc sự thất vọng. Tôi không bao giờ làm trước mọi người.
Một đôi khi tôi làm sau nữa!
Tôi làm chậm quá, và sự biểu thị muộn màng, lẻ loi ấy lại làm hại tôi. Tất cả phòng quay lại nhìn cái thằng có vẻ như chế nhạo mọi người ấy.
Tôi sĩ diện; tôi không muốn có vẻ chỉ là một tiếng ngốc nghếch và tôi cứ tiếp tục một mình làm điệu bộ hoặc khe khẽ kêu lên.
- Im đi chứ! Từ khắp các phía mọi người la tôi. Thằng nỡm kia! Ngu hay sao thế!
Tại sao ông Mitsơlê thỉnh thoảng lại có vẻ xa vắng như nghĩ đi đâu ấy?
Tôi đã đọc những quyển Toát yếu và những cuốn lịch sử của ông. Những cái đó sinh động và lóng lánh, thật là sáng sủa và thật là ấm áp. Một đôi khi tôi mang theo vào buồng tôi sách của Mitsơlê như thể người ta đi sưởi ấm bên ngọn lửa cành nho.
Thỉnh thoảng trong khi giảng cũng vậy, ông bừng lên như ngọn lửa nó phả vào trán tôi như hơi than hồng. Ông rọi ánh sáng vào tôi như một tấm gương rọi ánh mặt trời vào mặt anh. Nhưng nhiều lần, rất nhiều, ông gợi lửa nhiều quá và muốn làm tóe ra quá nhiều tia sáng: cái đó làm tro bay mù.
Tro hay tia sáng, những kẻ sùng bái ông đều hoan nghênh tất.
Riêng tôi, tôi chỉ thấy như thế dường như là không thật và nói dối vì chuyện không đâu, tự bịt mắt mình và do đó bịt mắt cả thầy, như thế là giả dối. Làm như vậy thì chẳng nên chửi bọn thầy dòng Jêduýt nữa.
Dù sao bộ mặt ông mới đẹp chứ, và con mắt rực lửa làm sao! Bộ mặt xương xương và thanh tú ấy, chắc như tượng bán thân bằng cẩm thạch và linh hoạt như mặt phụ nữ, tóc để theo kiểu nhà binh nhưng trắng như bạc, tiếng nói lanh lảnh ấy, ngôn ngữ mới mẻ đến thế!
Đối với dĩ vãng ông có sự táo bạo theo kiểu Camiơ Đêmulanh[18], chống lại bọn giáo sĩ ông có những của chỉ dứt khoát; bằng bàn tay trắng ông cào xước nền trời.
Báo chí đã can thiệp vào, người ta trích đăng một số đoạn của một bài giảng – những đoạn có vẻ khôi hài. Giáo sư lên tiếng phản đối, ông chắp nắn lại những trích dẫn, sửa lại mặt mũi câu cú.
Tại sao vậy?
Chẳng cần phải trổ tài hùng biện và chấm biếm của ông vào việc tự bào chữa, tôi muốn nói rằng ông nói cho tôi những điều mà tôi không hề thấy, ông ném vào đầu óc tôi những tư tưởng mà tôi sẽ đem theo – dù sau này thấy nó dở mà không nói với ai – nhưng tôi vẫn nghĩ tới khi đi ngủ.
“Có những tay Jeduýt, ông nói, tới đây nghe tôi giảng bài rồi về xuyên tạc nó.”
Tất cả những ai ở trong phòng mà không có râu, nước da hơi nhợt, mũi hơi to, áo rơđanhgốt hơi dài và đi giấy buộc dây; những người đó đều bị nhìn soi mói bằng con mắt hăm dọa và bị ngờ là những kẻ trốn từ trường nhà dòng tới làm kế địch. Dông tố ầm ầm trên đầu họ, vấn đề là phải đập cho họ một trận. Họ nghe thấy xì xào xung quanh họ: “Chuột nhà thờ, rệp kho đồ thánh, quân buôn chúa! Mặt ngay như ngọn nến, người ta thừa biết đâu là bọn giả đạo, đả đảo bọn thầy tu!”
Một anh chàng đeo kính, đang ghi chép, bị một bàn tay bí mật chỉ là bọn tay sai của Jêduýt.
“Thằng kia à?…
- Đâu, nó ngồi đâu?
- Ở ghế thứ ba ấy.
- Thằng to lớn kia à?
- Phải… Có người vừa nói là lúc nào cũng thấy nó đi với bọn thầy tu.”
Câu đó lọt vào tai một tay cứng rắn, anh này liền đứng dậy hỏi xem thằng cha ngồi kia, thằng cha đeo kính ấy, đang làm gì…
“Nó đang ghi chép.”
Vô khối người khác cũng đang ghi chép – và là những người sùng bái Mitsơlê kịch liệt – nhưng chiều hướng lúc này đang thiên về nghi kỵ.
“Đả đảo thằng đang ghi chép! – Khám người nó xem! – thẻ sinh viên của nó đâu! Thẻ sinh viên! Bắt nó đưa thẻ sinh viên ra!…”
Nó không có thẻ, tôi cũng không! Trong hai nghìn con người có mặt tại đây, ai là người có thẻ? Chẳng có ai cả! Nhưng mọi người lại cứ đòi xem thẻ của cái anh chàng vận cái áo rơđanhgốt dài đó, anh ta chẳng hiểu người ta muốn gì mình, lúc đầu còn ngỡ người ta nói người khác.
Cuối cùng người ta giải thích cho anh. Anh đứng dậy đáp:
“Tôi tên là Êmin Ôliviê, em ruột của Arixtit Ôliviê, người hôm nọ chết ở Môngpeliê trong một cuộc đấu gươm vì nền cộng hòa.”
Thế mà trông anh ta lại rất giống một tên Jêduýt!
Chú thích:
[11] Nhà cách mạng Pháp (1758 – 1794) lãnh đạo thời kỳ Ủy ban cứu quốc và Quốc ước, rồi bị xử tử.
[12] Tức là Jăng-Jăc Ruixô, ( 1712 -1778), nhà văn hào Pháp có tư tưởng tiến bộ, ảnh hưởng đến cuộc cách mạng Pháp 1780.
[13] “Như một xác chết”, thành ngữ để chỉ mức độ phục tùng của tu sĩ dòng Jêđuyt đối với bề trên.
[14] Ông thầy, nhà tiên tri (tiếng la-tinh).