← Quay lại trang sách

- VIII - TRẢ ĐŨA

Quảng trường Păngtêông (Pathéon)

Quảng trường lần này đen ngòm những người!

(Đen ngòm với những vệt màu, có những bộ quần áo màu sắc kỳ quặc nổi bật lên trên toàn cảnh, có những chiếc mũ nhọn xanh và đó đây những chiếc mũ nồi đỏ chói. Như những bông hoa đỏ thắm trong ruộng lúa mì dày đặc…)

Thật là nhộn nhịp và đầy sức sống.

Cuộc biểu tình lần thứ nhất, mặc dù chẳng may, vẫn là một trường luyện tập rất tốt. Mọi người đã tham chiến. Hôm ấy trời mưa: hôm nay mặt trời rực lửa. Hôm trước có khoảng ba trăm người, hôm nay sẽ lên tới hai ngàn người!

Chúng ta sẽ thấy các Trường là thế nào. khi không bị mưa!

Mọi người đã sẵn sàng chưa? Tất cả những người chúng ta chờ đợi đã đến đủ chưa?

Liệu có còn những nhóm tự do tư tưởng nào chưa tới vị trí và làm cho Cách mạng bị chậm trễ không?

Đâu vào đó cả rồi!

Matutxanh trèo lên bậc thềm điện Păngtêông, lấy tay khum khum trên mắt, nhìn bao trùm cả đám đông một lượt rồi đi xuống, vẻ nghiêm trang như Grắckơ[24] ở Capitôn tới: Anh sắp sửa phát hiệu lệnh.

Nhưng kìa một người khác không phải Matutxanh cũng trèo lên bậc thềm như anh và đưa mắt quan sát đám đông! Một chàng trai cao lớn, râu ria màu nâu, nước da tái nhợt, mắt lác…

“Thằng Đolahôđơ, mật thám đấy, một tiếng người thì thào ở gần chỗ tôi.

- Khẽ chứ, tôi bất giác nói, và bấm vào tay người vừa mới nói; khẽ chứ, rồi ta sẽ giết chết nó!…”

Có xúc động mạnh trong tốp người xảy ra sự phát giác đó và tôi đang khuyên mọi người nên im lặng.

“Nếu muốn trừng trị nó, phải bắn vỡ óc nó ngay tại chỗ, và rút thăm xem ai sẽ làm nhiệm vụ đó; chứ như tố giác với đám đông thì mọi người sẽ xé xác nó làm trăm mảnh, như thế bỉ ổi và bẩn thỉu lắm, đấy rồi các bạn xem! Nó sẽ chết vì đấm đá, cào xé! - Và người ta sẽ kết tội bọn mình là đê tiện và hèn nhát!… “

Hình như tôi đã nói những điều cần phải nói và trong giọng tôi có một xúc động làm cảm kích người khác, vì mọi người đã nghe theo ý kiến của tôi; có điều là vì tò mò kiểu nông dân thích xem cóc lê mình, mọi người đã chen chúc nhau trên lối đi của tên bị tố giác.

- Đúng nó, chính là nó! chàng trai lúc nãy mới chỉ thấy hẳn ở đàng xa bây giờ nhắc lại.

Có phải tên khả nghi đó biết là mọi người đang soi mói nhìn hắn không? mặc dầu hắn-vẫn quay bộ mặt tái nhợt về phía chúng tôi và nhếch mép cười, một nụ cười câm lặng, thảm hại. Tôi không bao giờ quên được nụ cười đó - Một hôm tôi đã trông thấy một con chó dại hấp hối: mắt nó đục ngầu; môi nhếch lên, và cũng nhe hàm răng trằng nhởn ra như vậy…

Nếu không phải Đolahôđơ, thì chắc hẳn cũng là một tên khốn kiếp; nụ cười đó cho thấy thế.

Chúng tôi ở trong sân lớn trường Xoocbon - sân chật ních những người.

Thình lình tôi trông thấy ông Lơpongiơ, tôi liền chạy về phía ông ta, nhưng ông ra hiệu cho tôi đừng tỏ ra quen biết ông.

Ông đi với đám Hội mùa chăng? Những người của đám Hãy tự cứu mình, trời sẽ giúp có ở đây không[25]? Có vũ khí giấu trong áo không? Những điều đó tôi không được biết trong ngày hôm ấy; tới lúc chúng ta đi ngang chỗ ông Lơpongiơ, tôi hỏi khẽ vào tai ông.

“Suỵt!”

Và ông giơ cái ngón tay cái trứ danh lên. Cuối cùng, ông ta làm tôi đâm cáu.

Ông còn giở cái trò đó ra nữa, tôi sẽ cắn.

Cho nên tôi hoạt động mà không biết sát cánh có hay không những người súng đạn đầy người, những cựu thủ lĩnh chiến lũy, những người sắp bất thình lình kêu lên: “Bacbex muôn năm!” và cắm lá cờ đỏ.

Màu đỏ, nó nằm như miếng phó-mát trên đầu một số sinh viên để tóc dài.

Những người đội mũ nồi đỏ, phải chăng những thủ lĩnh? Nếu họ là thủ lĩnh, thì họ hãy nói lên! Nhưng họ còn trẻ quá và trông đặc vẻ sinh viên năm thứ nhất!

Tuy nhiên, trong đám đông - như trên mặt thùng - một trong những chiếc mũ đỏ ấy nút một cái chai trong đó tôi thấy như có thứ rượu vang tốt. Cái chai ấy là một chàng trai tóc vàng, cặp mắt to màu xám, vầng trán rộng, vẻ mặt hơi tư lự.

Anh không để chiếc nút chai lệch xuống mang tai! anh chụp thẳng lên đầu; tựa như anh không muốn vây vo với chiếc mũ, mà là chưng màu đỏ, chỉ vì đó là màu cộng hòa. Tôi ưng anh chàng đội mũ nồi ấy, và tôi theo dõi anh trong đám đông bằng con mắt thiện cảm.

Anh không đi một mình, cùng đi với anh còn có một anh đội mũ nồi khác và vài anh bạn nữa cũng hợp ý tôi. Nhóm ấy, tôi thấy tin ở họ; nếu có đả nhau, tôi chắc họ sẽ xông vào.

Đả nhau thật!

Lửa đã bén vào thuốc nổ do sự khiêu khích của bọn Thánh-Vanhxăng đơ Pôn.

Bọn Thánh-Vanhxăng láo xược đứng sừng sững trên các bậc cầu thang lớn.

Chúng chưa nói gì cả, nhưng kìa, chúng vỗ tay!

Bọn chỉ điểm trà trộn trong đám đông đột nhiên xông vào những anh đội mũ nồi; những người đội mũ đỏ bị bọn mật thám vận thường phục tóm bắt.

Thế là bọn Thánh-Vanhxăng từ trên bậc thang cao la “hoan hô”:

- Bọn mào gà bị tóm!

Anh đội mũ nồi có đôi mắt xám của tôi đâu rồi?

À kìa! tôi trông thấy anh ta đang đi với anh bạn tóc nâu.

Họ tới chỗ cầu thang nơi lũ Thánh-Vanhxăng đang la mào gà bị tóm.

Họ không nhìn xem có ai đi theo họ không; họ tới tát vào mặt bọn Thánh-Vanhxăng… Tôi nhập bọn!

NHỮNG ĐIỀU NGẦN NGẠI

Tôi không còn nhớ rõ mọi việc đã xảy ra, người ta đã tát như thế nào; tôi chỉ biết rằng tôi không bị cái tát nào cả. Nhưng đã có một cuộc xô đẩy và người ta chìm cả vào giữa đám đông.

Tôi thì tôi tóm được một cái tai! - Tôi nắm chắc cái tai giữa ngón tay cái và ngón trỏ. Cái tai ấy là của một đứa trong bọn đã vỗ tay.

“Mày phải xin lỗi”.

Tôi mày tao với gã thanh niên không quen biết ấy.

Cái tai làm ngơ; tôi dúi mõm nó xuống thêm một chút.

Thằng Thánh-Vanhxăng kêu. Tôi bảo nó:

“Rồi sau mày hãy kêu. Trước tiên mày phải xin lỗi đã. Hà! Mày đã vỗ tay khi bọn cảnh sát bắt chúng tao!

- Không phải tôi.

- Không phải mày? Thế thì mày hãy thề với đức giáo hoàng chí thánh là không phải mày đi.”

Tôi đã bắt quả tang nó kêu hoan hô. Ta đợi xem nó có dám thề không.

- Anh sẽ thả tôi ra nếu tôi thề là không phải tôi chứ?

- Ừ.

- Tôi thề với anh…

- Trước đức… nào, có phải đánh vần từng chữ không?

- Trước đức…

- Giáo hoàng chí thánh.

- Giáo thánh.

Nó lúng búng trong miệng, nó nói liến đi. Như vậy không chơi. Phải nói đức giáo hoàng chí thánh nghiêm chỉnh hơn: - Đức-Giáo-Hoàng-Chí-Thánh!

Nó nói rành rọt đúng như tôi muốn! tôi đánh phải thả nó ra.

Nhưng tôi đổi ý kiến!

Tôi có phải là đứa nuốt lời trong trường hợp đó không? Phải chăng tôi đã làm trái lệ thề thốt, đã không giữ lời hứa? từ đó về sau nhiều lần tôi đã tự hỏi mình. Tôi vẫn chưa rõ mình có sai hay không khi đuổi theo thằng Thánh-Vanxăng và nắm tai nó lôi lại.

“Anh muốn gì tôi nữa?

Lại đây, tao còn cho mày một cái đá đít.!”

Đức Chúa mà nó thờ hãy làm chứng cho tôi là tôi không hề tàn nhẫn trong cái đá ấy. Tôi không phồng mang để yêu cầu nó cái đặc ân ấy, và tôi nhẹ nhàng đặt nó đứng vào cái thế thích hợp nhất với mục đích mà tôi nhắm. Tôi có vẻ tặng nó một món quà hơn là nạt nó! và tôi nhằm với cái vẻ lạnh lùng và sự chuẩn xác của một tay thiện xạ.

Đám biểu tình rối loạn. Rồi sẽ ra sao?

“Tới nhà ông Mitsơlê!” một người kên lên.

Tôi ngạc nhiên và phản đối

“Tới nhà ông Mitsơlê à? Không! Ta cứ ở đây!”

Người ta đòi tôi trình bày kế hoạch của tôi.

“Như thế này: Ta sẽ không cho ai ra vào ở đây; chính chúng ta sẽ bất những tên khả nghi và tìm bọn mật thám.

- Cảnh sát sẽ tới.

- Thì sao?

- Chúng sẽ rút gươm!

- Càng hay!

- Họ sẽ phải quân đội tới!

- Họ cứ phái! để cho họ nói được rằng cần phải rút gươm chống lại chúng ta, phải phái một binh đoàn tới, phải cho lính đến!”

Tôi mơ thấy cảnh hỗn loạn ấy, những tên võ quan phi ngựa tới, trống đánh, lời khuyên hàng tung ra.

Liệu người ta có lùi không? Liệu sinh viên có vững không? tôi không biết; nhưng ít nhất cũng sẽ có mùi nổi loạn và mùi cách mạng.

Đám đông tiếp tục kêu lên: tới nhà ông Mitsơlê! tới nhà ông Mitsơlê!

“Các bạn muốn đi thì cứ đi, tôi, tôi ở lại!”

(Tôi phải can đảm mới nói được thế, và càng phải can đảm hơn nữa mới không chạy theo họ, nhưng tôi đã bướng bỉnh giữ lời tuyên bố của mình và lời đã hy sinh cái tính tò mò, tính hiếu kỳ, lòng ham mê quần chúng, vì lòng tin chắc rằng cuộc đi diễu tới nhà ông Mitsơlê ấy là một trò ngu xuẩn.

Thế nhưng tôi vẫn tự thấy mình rất ngốc khi những người lề mề cuối cùng đã đi qua trước mặt tôi, chỉ còn lại một mình tôi trong phố, với những tên tư sản đang chế giễu hoặc căm tức cuộc biểu tình.

“Anh không đi với bọn to mồm ấy” một tên bụng phệ đã hỏi tôi…

Tôi và Matutxanh đã lạc nhau ngay từ đầu vì làn sóng người; khi nghe nói là tôi không đi, anh có vẻ hoảng hốt, có lẽ vì anh thiếu mất tôi cũng như vì tôi không có mặt trong cuộc biểu tình. Có được một người không chịu lùi trước quả đấm trong những trường hợp này là rất quý, và về mặt đó, anh tin ở tôi.

Cả về ngón đá nữa anh cũng có thể tin cậy ở tôi. Nếu lúc nãy anh đã trông thấy tôi với thằng Thánh-Vanhxăng đơ Pôn, tôi dám tin rằng anh sẽ vừa lòng, rất vừa lòng, không thì quả là anh rất khó tính.

Bây giờ tôi mới thật là ỉu! tôi đã hiến cho Cách mạng cả một ngày của tôi thế mà bây giờ tôi lại thấy mình thất nghiệp, vào buổi quá trưa giữa khu phố La-tinh vắng ngắt; trước những tiệm cà-phê trống rỗng tôi có vẻ như mới ở nhà thương ra. Tôi lê bước theo dọc các nhà như một con chó đang tìm lối đi và những người quen tôi tự hỏi tại sao tôi, một dân đỏ, con người đi tới đâu cũng gây chuyện ầm ĩ, và có vẻ như muốn nuốt sống tất cả, thế mà lại lang thang ở đây, như một thằng vô công rồi nghề, tay đút túi trong cái ngày tổng lộn xộn này!

Chà! tách rời quần chúng thật tai họa. Trước con mắt một vài người ta sẽ bị coi là thằng hèn hoặc thằng tự phụ và cuối cùng, ta đâm ra ỉu xìu. Vì lúc này tôi đang ỉu xìu. Điều tai hại là Alếcdăngđrin đã lợi dụng cơ hội tất cả mọi người đổ ra đường suốt ngày, không còn khách ở hàng bán sữa nữa, để đi thăm một người bà con quỉ tha ma bắt nào đó, không thì!… Chúng tôi sẽ ở trong nhà với nhau. Tôi sẽ có thể thò đầu qua lỗ cửa trổ trên mái, nếu tôi muốn nhìn về phía cuộc biểu tình. Tôi cũng không biết là tôi có muốn nhìn hay không nữa.

Tôi đi đâu bây giờ?

Từ khi tới Pari, chưa buổi chiều nào tôi đơn độc cả. Buổi chiều nào không có vài ba người - hoặc Alécdăngđrin hoặc bạn bè là tôi đâm ra lúng túng. Tôi không có gì để nói với tôi cả. Tự nói chuyện với mình! Không làm thế ban ngày được! Ban ngày tôi không thấy mình tinh ranh..

Tôi tới công viên Luychdămbua, ở chỗ Sở ươm cây, tôi ngồi lên một chiếc ghế dài, bên cạnh những cụ già đang kể chuyện thời xưa, và giữa các bà mẹ còn trẻ làm họ ngượng khi cho con bú! Ồ! nếu có thể làm lại, tôi sẽ đi tới nhà ông Mítsơlê!

Ví bằng cuộc biểu tình ngẫu nhiên biến thành bạo động dưới cửa sổ nhà ông ta! Nhỡ có máu chảy! Lạy Chúa, tôi muốn có máu chảy làm sao. Ồ! nếu có máu, bổn phận của tôi là phải tới chỗ máu chảy! Tôi không tán thành cuộc đi diễu; tôi tán thành nổi loạn.

Matutxanh, anh có bị cụt tay hay chân không? Có người nào trên chiến lũy của anh chết không?

Tôi đánh hơi xem có mùi thuốc súng không?… Chỉ thấy mùi sữa, mùi trẻ con… mùi gì nữa không rõ… tất cả, trừ mùi thuốc súng.

Mặc kệ, tôi sẽ tự dối mình, thiếu kiên quyết. Nhưng chẳng ai biết được! Tôi đi xem cuộc biểu tình ra sao.)

Một cảnh tán loạn! những người chạy trốn!

Tôi nhận ra toàn bộ quán hàng sữa của tôi đang co cẳng tận đít mà chạy.

“Họ bắt, bọ bắt!” Những kẻ chạy trốn kêu lên.

Một anh trong bọn họ nhận ra tôi.

“Chạy mau, chạy mau, anh bạn! cảnh sát bắt tất cả, HỌ BAO VÂY, HỌ BAO VÂY”

Tôi sẽ không chạy trốn!

Và tôi đi ngay vào chính cái phố mà bọn chạy trốn bảo là đang bị bao vây.

Nhưng tôi chẳng thấy ma nào cả.

Họ không bao vây! Họ bao vây ở đâu?

Tôi đi tìm, tôi rẽ tay trái, rẽ tay phải, tôi không cảm thấy mình bị bao vây, tôi mò mẫm, tôi rẽ vào phố này, phố nọ, gặp ai cũng hỏi họ có “Nhưng họ có trông thấy một đám biểu tình hay không đã?

- Cái gì cơ?

- Ông có trông thấy một đám biểu tình không?”

Tôi khum khum tay làm loa cho người ta nghe rõ hơn.

Họ chẳng trông thấy cái gì cả!…

Tôi vội lộn về khu phố để tìm những người đã trốn thoát và hỏi tin tức; rồi nếu cần sẽ đi xe hàng quay lại chỗ biểu tình. Với một bản đồ ngoại thành tốt, may ra tôi sẽ có thể tìm thấy!

Tới khách sạn tôi mới hay tin là đám chạy trốn nói đúng.

Quả là cảnh sát đã bao vây và bắt người; nhưng không phải ở mạn tôi đã qua.

“Kia kìa, chúng kéo đến!…

- Chúng có bao nhiêu đứa?

- Gần một tiểu đoàn. Chúng tới đấy! Nhìn kia kìa!”

Tôi nhìn.

Những người bị bắt bước đi giữa hai hàng rào cảnh sát. Tôi nhận ra các bạn của tôi.

Tôi lao người đi! người ta giữ tôi lại.

“Anh định làm gì thế?

- Ra cứu anh em!

Anh điên à? Alêcdăngđrin nói khẽ với tôi, cô vừa mới về, cô nắm vạt áo tôi kéo lại, - rồi cô cất cao giọng nói thêm:

Kia kìa, ông Vanhtrax, những người muốn cứu anh em! họ làm cho như thế đấy!”

Cô chỉ cho tôi thấy một vật trông như một cái giẻ rách vì đã muốn cứu anh em. Tôi nhận ra bộ mặt của Sămpionnê, một trong những người ở trọ, - ít ra thì cũng là cái gì còn lại của bộ mặt Sămpionnê, bọc trong nhũng chiếc khăn một như người ta bọc để ủ bánh mì.

Anh không nói được; người ta đã khâu vội cái lưỡi của anh lại - chấm câu trong khi chờ đợi; - nhưng những người dìu anh về đã kể lại chuyện anh.

Việc xảy ra ở vườn hoa Mutông, nơi cảnh sát đã xông vào đám biểu tình.

Sămpionnê thấy như vậy là xâm phạm tới quyền tự do ngôn luận ở dưới cửa sổ, và anh nhảy ra trước một viên đội chỉ huy:

“Ông có biết rõ việc ông sắp làm không?

- Biết lắm chứ!” rồi, quay về phía đám cảnh sát, viên đội bảo! “Đánh nhừ tử thằng này cho tao!”

Người ta đã đánh Sămpionnê nhừ tử.

Tôi hỏi anh xem chuyện có đúng không! những chiếc khăn mặt đụng đậy để trả lời. Chẳng may một chiếc tuột ra, Sămpionnê ra hiệu nhờ người ta buộc lại hộ và có vẻ kiên quyết không muốn khai nữa.

Tuy vậy tôi vẫn muốn biết!

Sămpionnê không nói được.

Anh có muốn viết ra không?

Anh viết nguệch ngoạc khi lên khi xuống như người đi trong mê ngủ. Những chữ do Sămpionnê viết nhằng nhịt, có những chỗ lộn xộn quá đến nỗi tôi không thể nắm được chi tiết. Tôi đành phải bằng lòng ở mức đại khái và nửa đại khái vậy.

Dường như, thỉnh thoảng Sămpionnê lắc lư cái đầu để trả lời câu hỏi (mà tôi hỏi với sự thận trọng của thầy thuốc không cho phép viên dự thẩm được đi xa quá), dường như đầu đuôi câu chuyện là người ta hò hét ở dưới cửa sổ nhà một ông không phải là Mítsơlê, người ta đã lầm, và khi nhận ra là sai thì không còn gì cho ông Mítsơlê; Ông Mítsơlê chỉ được vài tiếng hoan hô rất khản giọng qua đó lộ ra nhiều sự bực bội.

Tuy nhiên câu chuyện dần dần cũng sáng tỏ, - người ta có thêm nhiều tin tức. Người ta chạy tới để hỏi tin về tôi, đố xem tôi có bị bắt hay không.

“À! cậu thính mũi thật đấy! Cậu đã nói trước với bọn mình rồi!”

Tôi đắc thắng, - đắc thắng đau đớn trước đống giẻ đẫm máu hình dung Sămpionnê, và cũng đau đớn vì Matutxanh đã bị bắt.

“Anh ấy có bị thương không?

- Không! Chúng nó xúm lại tới những năm thằng để bắt anh ấy!”

(Nghe vậy tôi gãi đầu và tôi tự hỏi có phải trong các cuộc xô xát như thế bao giờ cũng là những anh Sămpionnê bị ăn đòn còn những anh Matútxanh thì được người ta nương nhẹ không! Phải đưa ra một vật chứng trong lúc buộc tội, và nếu người ta đưa ra một vật chứng bị đánh nát nhừ đầu như Sămpionnê thì chính phủ sẽ bị lên án là dã man. Thủ lĩnh Matutxanh, nếu bị thương, sẽ gửi cái đầu mình cho các báo, hoặc sẽ gây một ấn tượng bi thảm ở trên ghế bị cáo, còn như Sămpionnê vốn không ai biết đến thì có thể bị đánh bẹp dí như bơ, anh có thể và phải bị đánh bẹp dí vì nhìn thấy cái tảng bơ đẫm máu của anh, phải nói là hơi gớm ghiếc nữa, mọi người sẽ sợ hãi và ghê tởm. Bắt Matutxanh mà không làm anh đau thì chính trị hơn, nhưng đánh nhừ tử Sămpionnê là tốt. Lúc ấy tôi nghĩ như vậy, đấy là ý nghĩ chợt đến với tôi! Thêm vào đó, khi Matutxanh ở tù ra, tất cả mọi người sẽ tới bắt tay anh, còn Sămpionnê thì sẽ bị bỏ quên vì không có tiếng tăm, có khi còn bị lảng tránh nữa vì các vết mụn trên mặt.)

Không phải chỉ có Matutxanh bị bắt, bọn chúng tôi bị bắt đến chục người.

“Các cậu ơi, ta ra hàng thịt đi!”

Khi có ai bị bắt, bao giờ tôi cũng thấy người ta gửi xúc-xích cho họ.

Nhưng tôi gặp phải một địch thủ bất ngờ ở một anh chàng sinh viên đeo kính học khoa hóa.

“Xúc-xích! anh ta nói, bao giờ cũng xúc-xích… Chưa đến lúc nghĩ tới những món giải khát hay sao, các bạn công dân?…”

Anh triệu tập bạn bè và đề nghị đặc biệt bầu ra một ban phụ trách, không những tiếp nhận đồ cứu trợ bằng hiện vật, mà còn đề ra một hướng thông minh cho việc cứu trợ nữa.

- Ăn mãi xúc-xích thì phát sốt…, ăn mãi sữa sinh say nhược. - Và lại còn!… A ha! kẻ địch của chúng ta sẽ nói ra sao!” (Xúc động mạnh).

Người ta thành lập ban đó, và lập tức ban họp để thảo luận và phân công. Người này thu nhận tiền góp, người kia những món thịt lợn, người nọ phó-mát.

Một anh ở trọ trong khách sạn được trao nhiệm vụ nhận phó-mát, - thành một tai vạ cho khách sạn! vì anh ta làm ngôi nhà nồng nặc lên vì những thành phẩm quả ngấu, còn riêng anh ta về sau, bao giờ tôi cũng thấy người anh thoang thoảng mùi phó-mát camămbe.

Hình như bị bắt cả thảy là bảy chục người, người ta lèn họ vào nhà giam Đêpô.

Ở đấy có rệp bọ, nhưng Matutxanh không buồn vì chuyện đó, và anh vừa nói vừa gãi:

“Những con bọ này sẽ để lại mầm mống cộng hòa trong đầu óc thanh niên, và sau này rệp sẽ chết đi - thành những giọt máu - trên trán Bônapactơ!”

Trong số bảy chục thì sáu mươi chín người đã được thả ra! người ta còn giữ lại một mình Matutxanh. Vậy là chính quyền sợ Matutxanh?

Tuy nhiên người ta bắt buộc cũng phải thả nốt anh ta. Nhưng người ta đã để chúng tôi đủ thì giờ làm ầm lên vì việc bắt giữ anh: anh trở về với chúng tôi được trọng vọng vì đã trải qua khổ ải.

“Như Lazarơ[26], anh nói trong bữa rượu người ta thết anh vào buổi tối; như Lazarơ, sau mười ngày, tôi vừa nhấc nắp mộ chui lên. Tôi trở về càng mạnh thêm vì cực hình! Chúng đã tưởng đánh ngã tôi, nhưng chúng đã làm tôi thêm rắn chắc. Hỡi vong linh Mara[27] tôn kính, tôi thề với Người là tôi đã không nhụt chí!”

Hình như anh lại còn hơi béo hơn trước thì phải. Tôi vui vẻ nói cho anh biết.

“Mỡ nhà tù đấy, anh nói, miệng mỉm cười chua chát và lắc đầu! - phù đấy, đây này, cậu sờ xem, phù đấy! Miễn là cái đó không làm mình vướng víu trong đấu tranh!”

Một nhóm đặc biệt đến ngồi bên cạnh chúng tôi: nhóm đã lấy chiếc mũ nồi của anh tóc vàng có vầng trán rộng và cặp mắt xám đẹp, làm cờ hiệu trong sân trường Xoócbon.

Có lẽ họ đã chú ý đến tôi, cái lúc vì tức giận mà không đợi lệnh, tôi đã tách khỏi nhóm tôi để nhảy xổ vào bọn Thánh-Vanhxăng đang vỗ tay hoan hô. Chúng tôi đã kề vai sát cánh nhau trong cuộc xô xát ấy.

Trong nhà giam Đêpô, họ đã làm quen với Matutxanh, họ đã cùng với anh chia xẻ phó-mát và xúc-xích, cùng nhau ăn miếng bánh mì đen của tình bạn, và khi Matútxanh chui ở mộ ra, anh mời họ tới ăn tối với chúng tôi-có gì ăn nấy!

Nào, tôi kêu lên, ám chỉ việc Matutxanh sống lại và hình ảnh Thánh kinh mà anh dùng: Chúc Lazarơ, có gì ăn nấy[28]!… Lời nói cợt không hại tới lòng tin! Cậu thấy thế nào, Mũ nồi đỏ?… Chúng mình mày tao với nhau chứ? Cộng hòa xã hội muôn năm!

Chú thích:

[24] Một hộ dân quan thời cổ La-mã.

[25] Những hội kín cách mạng hồi 1830, 36, 48…

[26] Lazarơ: nhân vật trong kinh thánh, người được Jêxu làm sống lại.

[27] Mara: nhà cách mạng Pháp thời Cách mạng 1789.

[28] Chơi chữ không địch được: Au hasard de la fourchette nói chệch đi thành Au Lazare de la fourchette