← Quay lại trang sách

- X - NHỮNG MỐI CĂM GIẬN CỦA TÔI

“Còn cậu, Vanhtrax, cậu sẽ làm gì?

- Tôi sẽ viếng Những nấm mồ của những người cách mạng”

Tôi nảy ra ý sẽ di thăm những nghĩa trang có chôn những người đã chết vì nhân dân.

Tôi thường hay đi vào lúc sáng sớm tới suy nghĩ trước mồ những người bảo vệ dân và những nhà thơ.

Tôi lượn quanh ngoài hàng rào sắt, tôi làm phiền các bà góa đem hoa đến viếng mộ.

Tôi sẽ viết tiểu sử những người chết đó, tôi sẽ trích dẫn những câu khắc bằng dao trên đá – cố ném một tia sáng vào bóng đen của các nghĩa trang ấy. Có những bông hoa lấm chấm đỏ trên đám cỏ rầu: tôi sẽ viết những câu màu đỏ ấy.

“Cái thằng Vanhtrax lúc nào cũng cợt nhả, nó lại chọn đề tài ấy chứ!…”

Lúc nào tôi cũng cợt nhả - nhưng khi chỉ có chúng tôi với nhau thì tội gì mà làm cái vẻ đưa đám chứ. Người ta nên nghiêm trang khi nào nói với dân.

Cố nhiên chúng tôi đã không ra được tờ báo.

Dù có một tay chủ nhà in nào in cho, cũng không ra được. Người nào cũng muốn viết xã- thuyết cả, muốn có những chữ to nhất và một cái tít đen đậm trên một khoảng trắng rộng. Như vậy sẽ chỉ có thuần những chữ to với những tít lớn tướng. Không còn chỗ để in bài nữa!

Với lại chỉ hai ngày sau là sẽ đánh lộn nhau.

Chắc chắn là tôi sẽ bị buộc tội chửi bới các nấm mồ; bởi vì có những người chết mà tôi sẽ xử theo kiểu Ai cập và tôi sẽ tát vào sọ họ.

Một vài câu nói của Matutxanh đã làm cho riêng tôi phải nhảy lên; tôi không quên rằng chính anh đã nói về chuyện Rơnun được ông Bêrăngiê vuốt ve: “Được bồng bế trên đầu gối của bộ óc đáng trọng ấy”.

Nhưng liệu chúng tôi có thể viết thành bài báo được mãi không? – Thơ thì được – Chứ bài báo thì tôi không tin!

Tôi đã thấy rõ như vậy khi tôi bắt đầu viết Những nấm mồ của những người cách mạng. – Tôi cứ lặp đi lặp lại mãi một chuyện, và cứ kêu gọi mãi người chết: “Hãy ra khỏi mộ, hãy tới đây, hãy về đây, các anh có nghe thấy không! Hỡi anh, hỡi các anh!”.

Và tôi nhét tiếng La-tinh vào và lén tìm trong các bài diễn văn hồi 93…

Xpactơ, La-mã, Aten… Tôi đã chế tạo những cái đó hồi ở nhà trường, và tôi thấy những nền cộng hòa cổ Hy-Lạp, La-Mã thật là vô ích và ngốc nghếch!… Lyquyêcgơ, Xôlông, Fabrixiux, và tất cả các nhà hiền triết, và tất cả các chấp chính quan!… Bây giờ tôi mới thấy những cái đó dùng được vào việc gì. Không thể viết cho các tờ báo cộng hòa được nếu không biết tường tận về Plutac. Có một trang nào của chúng ta, của các nhà văn Jôcôbanh chúng ta mà lại không nói đến Aniban, Fabrixiux, Arixtôgitông, Côriôlan, Clêông, anh em Crăckơ? Người ta không thể bỏ qua những chuyện đó được. Không nói với những người của năm 93 là họ giống các bậc vĩ nhân trong các giáo khoa, là một điều vô lễ.

Những ai nào lui về ở ẩn trong làng hoặc từ chức thì gọi là những Xinxinnatuyx. Những ai không thuê được người giúp việc trong nhà và phải chẻ củi lấy thì gọi là Philôpơmen.

Trong thâm tâm tôi cảm thấy rõ là tôi không có tài viết. Tôi chợt thấy điều đó, một buổi sáng, khi đọc lại những trang nháp viết tối hôm trước theo hứng của ngòi bút.

Tôi nói là tôi đã nhận xét thấy cô con gái người gác cổng nghĩa trang, vận áo cộc trắng, nghiêng mình qua cửa sổ tưới hoa; là tôi suýt khóc khi nhìn thấy một em bé gái, vận váy ngắn, chôn con búp bê của nó ở chỗ mẹ nó ngủ. Suýt khóc, phải – khi mà tôi đứng trước mộ một người tuẫn tiết, đáng lẽ, theo lệ thường, tôi phải khóc hết nước mắt.

Tôi đã quên mất lá cờ của tôi để nhìn em bé gái ấy đứng cạnh người bố vận đồ tang.

Tôi đã nghe thấy một con chó gào lên trên nấm mồ của chủ nó.

Nếu không tự ghìm mình lại, thì tôi đã nhét những trò ngu xuẩn đó vào bài báo rồi!

Thà không ra báo còn hơn. Tôi sẽ loay hoay không viết nổi, tôi không biết kể những điều mà tôi không trông thấy. A ha! Quả thật tôi không có tài!

Tôi không thổ lộ điều đó với ai cả - Tôi sẽ đem điều bí mật đó theo tôi xuống mồ - Nhưng, tôi cảm thấy rõ ràng là tôi không có gì trong đầu ngoài những ý nghĩ CỦA TÔI! Chỉ có vậy thôi! Và tôi là một thằng biếng nhác không ưa đi tìm kiếm ý kiến của người khác. Tôi không có can đảm lật các trang sách. Tôi sẽ phải nhấm nước bọt vào đầu ngón tay cái, và giở từng trang, từng trang để đọc cái gì nó sẽ gây cảm hứng cho tôi.

Tôi không có nước bọt và ngón tay cái của tôi sẽ bị đau ngay lập tức.

Chỉ có độc những ý nghĩ CỦA TÔI, CỦA RIÊNG TÔI, thật là kinh khủng! Những ý nghĩ như ý nghĩ của một nông dân, một người đàn bà hiền lành, một người bán rượu vang, một anh bồi tiệm cà phê! – Tôi không nhìn được xa quá tầm mắt tôi, không xa quá, thật vậy không! Tôi chỉ nghe bằng tai CỦA TÔI thôi – những cái tai đã bị người ta beo mãi!

Tôi ưng nói về những người dạo chơi ở các nghĩa trang khi tôi có mặt ở đấy, hơn là nói về những người đã yên nghỉ dưới đất.

Requiescant in pace![33]

Cậu đội mũ nồi đỏ và các cậu khác tưởng là tôi thông minh – hình như họ tin thế thì phải… Họ không trông thấy bản nháp của tôi! Họ không ngờ có chuyện con chó, con búp bê, cô gái nghĩa trang!

Tuy nhiên một đôi khi chúng tôi thật là hồn nhiên. Những người Hy-Lạp cũng hồn nhiên vào giờ phút của họ, những nghị sĩ Quốc ước cũng vậy.

Chúng tôi chơi bịt mắt bắt dê.

Trong lúc đang chơi hăng, thì dù Nghị viện có diễu qua dưới cửa sổ chúng tôi cũng mặc, không ngó xuống nhìn họ.

Chỉ có mỗi Matutxanh không chịu công nhận là mình chơi đùa. Anh bảo sở dĩ anh chơi là vì trò bịt mắt bắt dê dạy cách trốn, làm lạc hướng bọn mật thám, đánh lừa kẻ địch.

- Đấy là một cách luyện tập rất tốt cho những người âm mưu, là trường tập sự làm Hội kín.

Khi anh bị bịt mắt – Khi chính anh bị bắt – anh tự hình dung mình là Ủy ban Cứu quốc[34] đang tìm bọn bảo hoàng trong bóng tối; Khi người ta đuổi bắt anh, anh tưởng mình lẩn trốn như người phát Girôngdanh: anh muốn hỏi xin một quả trứng rán, như Côngdooxê, hoặc anh lẩm bẩm tên của gã sen đầm đã bắt Rôbexpie.

Mặc dù nói vậy, anh vẫn đùa cợt như người khác, lúc anh trốn, chân đút vào gậm giường và đầu chui vào chiếc bàn đèn.

Có một anh thường hay bị bắt nhất là Sămpionnê, vì đôi giầy của anh ta. Người ta đoán ra anh ngay lập tức. Anh chơi chưa được một tiếng đồng hồ mà gót giầy của anh đã vẹt hết, và người ta chỉ cần sờ vào đôi giầy của anh. Người ta cũng đoán được ra tôi rất nhanh, vì lúc nào người tôi cũng sặc mùi phấn, tôi đã ôm hôn cô Alêcdăngđrin khá nhiều.

Chúng tôi đang ở cái tuổi mười tám, năm chúng tôi gộp lại được một thế kỷ; chúng tôi muốn cứu thiên hạ, chết vì Tổ quốc. Trong khi chờ đợi, chúng tôi đùa nghịch như đám nhãi ở trường học. Rôbexpie, nếu thình lình xuất hiện – như người ta thấy ông trong những bài báo hay – Rôbexpie sẽ cho là chúng tôi chẳng có cái gì giống người Xpactơ và chắc sẽ đưa chúng tôi lên máy chém.

Chúng tôi qua những buổi tối của chúng tôi như vậy; thỉnh thoảng chúng tôi ra tiệm cà phê – họa hoằn, rất họa hoằn.

Rơnun vẫn mặc chiếc áo ngủ; tôi vẫn ở bên cạnh Alêcdăngđrin; Sămpionnê thì đào món triết lý lịch sử trong xó của anh.

Chỉ có Rôc và Matutxanh, chẳng có Alêcdăngđrin cũng như áo ngủ, hay cái ham mê món triết lý lịch sử, nên ưa vừa chơi bài vừa uống cà phê.

Hình như họ mới phát hiện ra được một tiệm cà phê nhỏ thân mật, nơi đám sinh viên y khoa lui tới với những cô đã có con với họ.

Thật là kỳ quái! Chuyện đó đối với tôi có vẻ hầu như trái với tự nhiên! Có con ở trong khu phố La-tinh! Mùi sữa và mùi tã lót xua tôi đi như một nhà gửi trẻ. Tôi chỉ vào đó một hai lần để gọi Rôc đi, và lần nào tôi cũng suýt ngồi lên một đứa bé mà ngươi ta đặt lên ghế một tý, để ghi điểm bài lá.

Tuy nhiên thỉnh thoảng người ta cũng kéo cả bọn tới một quán rượu to, ở đấy tối nào cũng đầy những khách cộng hòa ồn ào.

Quán ấy ở ngay đầu phố chúng tôi, tại góc quảng trường Thánh Misen, bên cạnh bể nước. Người ta gọi nó là tiệm cà phê Phổ thông đầu phiếu.

Có những nhân vật tiếng tăm tới đó.

Chúng tôi hơi bị lạc lõng trong bầu không khí dân chủ được phép ấy, ở đó những đầu óc đã chín chắn; ở đó có những người mà người ta bảo đã từng chỉ huy chiến lũy ở Xanh-Mery, đã ngồi tù ở Đulen, đã khởi nghĩa hồi tháng Sáu; những người có uy tín vì đã đứng vào hàng ngũ cách mạng, đã chiến đấu và đã ở tù.

Có phải tất cả bọn họ đều có vầng hào quang ấy không? Trong làn khói này khó có thể thấy rõ hào quang.

Nhưng quả là có những bộ mặt thiện cảm và cương nghị. Điều làm tôi chú ý nhất, đó là vẻ hiền hòa của những người có tên tuổi, mà người ta bảo: “Ông này, chính hồi tháng Hai, đã bắn vào bọn hiến binh ở chỗ Két-nước”. “Ông kia, ngồi kia kìa, đã bị sáu tháng tù sau hồi tháng Sáu”.

Tôi lượn đi lượn lại trước những bàn đó để xem con người ra thế nào khi đã trải qua những cơn thử lửa ấy. Phải, đấy là những người la thét ít nhất và cười nhiều nhất.

Một hôm Rôc kéo tay áo tôi.

“Mày có nhìn thấy cái ông cao lớn kia không?

- Đằng kia, ở bên trái ấy à?

- Ừ, đừng làm ra vẻ nhìn ông ta.

- Ai đấy?

- Một đại biểu của Phái Môngtanhơ[35], ông X…

- Ông ta không nói ở Nghị viện bao giờ à?

- Không, ông ta còn chờ thời”.

Đúng là Rôc nói như thế!

“Chờ thời! chờ đến bao giờ?

- Cho Quốc ước…”

Rôc có vẻ tin chắc là sẽ có một Quốc ước; tưởng như anh vừa nhận được tin ấy buổi sáng hôm nay; và đáng lẽ phải loan báo cho chúng tôi biết vào buổi chiều! Anh trở lại chuyện ông nghị sĩ X…

“Phải, ông ấy chờ thời cũng như Rôbexpie đã nín lặng chờ đợi, ở Quốc hội lập hiến…, chờ đợi cơ hội của mình”.

Nín lặng? Không! Rôbexpie đã có lần đứng lên để yêu cầu bãi bỏ tội tử hình. Mày biết không?

Có một tay vô kỷ luật, ngồi trong một góc, đang nhún vai và hét to:

“Tất cả cuộc Cách mạng của các anh, những bộ tóc dài của các anh Rôbexpie, Xanh-Juyxt, tất cả toàn là trò hề hết! các anh là bọ giáo sĩ của nền dân chủ! Dù Lơđruy hay Falux làm lễ thế phát cho các anh thì có bận gì đến tôi?… Dù sao cũng uống chúc sức khỏe các anh, bọn thầy tu đỏ!”

Những lời nói đó xoáy vào tim tôi! Vì có nhiều lần, vào những buổi tối ngồi một mình, tôi thường tự hỏi có phải mình đã rời bỏ một trò hủ lậu này để bước vào một trò hủ lậu khác không, và có phải sau những bậc kinh điển của Đại học, lại có những bậc kinh điển của Cách mạng – với những ông Hiệu trưởng đỏ, và một thầy tú Jacôbanh!

Có những lúc, tôi sợ tôi chỉ là một thằng ích kỷ như bác thợ già đã gọi tôi khi tôi nói với bác muốn đi học nghề. Tôi muốn tìm thấy trong diễn văn của những người cộng hòa những câu đáp ứng với những mối căm giận của tôi.

Họ không nói tới những trường học đen tối và độc ác, họ không nói tới đạo luật biến người bố thành đao phủ của con, họ không nói tới những người mà cảnh bần cùng biến thành trộm cắp! Tôi đã trông thấy biết bao nhiêu người như thế trong nhà tù ở quê tôi, họ sắp phải đi đày mà tôi thấy hình như họ còn lương thiện hơn cả viên Quận trưởng, viên Thị trưởng và các tay cầm quyền khác.

Ích kỷ! Ồ! không! Tôi đang sẵn sàng – Tôi thề như vậy! – chịu đau đớn và chết vì những cực hình đã làm tôi khổ mà bây giờ tôi không còn sợ nữa, nhưng tôi muốn được trông thấy chúng bị thủ tiêu trước mặt tôi…

Maututxanh chỉ nói đến những ủy viên đeo băng tam tài hoặc những hộ dân quan đeo phù hiệu mũ đỏ sẽ thay thế bọn Vua chúa và bọn phản bội… Cóc cần những cái đó!

Vậy bao giờ người ta mới đốt Bộ Luật và các trường Trung học!

Họ không nghe tôi, họ giễu tôi và kết tội tôi đã chửi bới các vị thánh của nền Cộng hòa!

Ấy thế là sinh chuyện! – Đã có những chuyện ghê gớm về Bêrăngiê!

Bêrăngiê!

Phải, chính ông ta là nguyên nhân làm cho Rơnun hít thuốc và vận áo ngủ, cái đó thì đừng ai hòng làm tôi nghĩ khác.

Chính ông ta cũng là nguyên nhân làm cho Rơnun lập gia đình.

Với những câu thơ của ông, ông đã nhét vào đầu anh chàng hồi nhỏ ông đã cho nhảy trên đầu gối ông, cái điều nên có một nàng Lidet cũng như ông.

Về điểm này tôi bớt giận ông ta.

Cô Lidet này là một cô gái tốt. Nhờ có cô, bọn tôi có phòng khách của chúng tôi, với vẻ tươi vui của những chiếc áo dài tươi sáng làm cho căn hộ đầy duyên dáng trong những ngày hè và làm nổi bật những màu lam hoặc màu hồng trên nền đỏ tối sẫm của chúng tôi.

Chúng tôi được hưởng tất cả những cái mà chúng tôi không có ấy từ bàn tay trắng trẻo của một người đàn bà rải ra quanh đây đó.

Chúng tôi có một chiếc cối xay cà phê, những cái tách hoa, và người ta còn khâu cả cho chúng tôi một vài mũi kim khi áo rách.

Cô Lidet còn may những lá cờ Cộng hòa nhỏ nữa, và hứa sẽ làm cứu thương nếu có người bị thương.

Lại vẫn kiểu Bêrăngiê!… Hai thiên thần từ thiện!

Mặc dù vậy, tôi thấy hình như Rơnun, với đôi mắt to đẹp thật thà, với trái tim thẳng thắn, can đảm, sẽ ăn nói trẻ trung hơn và sinh động hơn nữa nếu khi mười bảy tuổi anh không có cô Lidet, hộp thuốc lá và chiếc áo ngủ. Tất cả những cái đó đều là nhặt trong chiếc áo choàng và những bài thơ của Bêrăngiê!

Bêrăngiê!

Thầy tôi có một chiếc cặp đựng đầy thơ của ông ta.

Bên cạnh những bài tửu ca bắt chước một cái cốc, một bầu rượu, có bài Những kẻ nghèo khổ:

Những kẻ nghèo khổ, những kẻ nghèo khổ

Là những người sung sướng.

Họ thân yêu nhau;

Những người nghèo khổ muôn năm!

“Những kẻ nghèo khổ là những người sung sướng, họ thân yêu nhau” – nhưng người ta nện nhau và người ta giết nhau giữa những người đói khát!

“Những kẻ nghèo khổ là những người sung sướng!”. Nhưng không nên nói vậy với những người nghèo khổ! Nếu họ tin là thế, họ sẽ không nổi loạn nữa, họ sẽ cầm bị gậy, chứ không cầm súng!

Thế rồi, thế rồi – Ôi chao! Điều đó tôi đã thấy đê tiện ngay từ buổi đầu! – cái ông Bêrăngiê ấy, ông ta đã ca ngợi Napôlêông!

Ông ta đã liếm vào cột đồng đen, ông ta đã đem hoa đến mộ tên Xêza, ông quỳ xuống trước mũ của tên kẻ cướp ấy, hắn đã dẫn dắt nhân dân bằng những cái đá, và đã beo tai những người cận vệ binh mà Hôtsơ đã dẫn tới sông Ranh và tới Văngđê: Hôtsơ mà có lẽ hắn đã sai bỏ thuốc độc, cũng như người ta nói hắn đã sai đâm chết Klêbe!…

Người thi sĩ vận áo rơđanhgôt dài ấy hôn vạt áo rơđanhgôt xám!

Hai chiếc áo rơđanhgôt mà tôi phỉ nhổ!

Đấy, đồ ngu, đấy gã liếm đinh thúc ngựa!

(Chà, quả vậy, tôi đã nói to điều đó với chính Rơnun một hôm anh khen thái độ khôn ngoan của Bêrăngiê đã từ chức Nghị sĩ sau ngày tháng Hai[36].

- Cái khôn ngoan đó à, nhưng đó là cái khôn ngoan của kẻ hèn nhát.

- Mày không được nhắc lại nữa! Rơnun vừa kêu nên vừa nhảy xổ vào tôi.

- Tao sẽ không nhắc lại nếu điều đó làm mày phật ý, nhưng nếu tao có quyền được nói ý nghĩ của tao, tao sẽ kêu to điều đó lên ở giữa phố. Mày tưởng không có những người khác tuy không muốn ở Nghị viện nhưng vẫn ở lại đấy vì bổn phận hay sao. – Mày bảo là ông ta không biết nói! Không cần gì phải biết nói; ông ta vẫn có thể đứng lên vào hồi tháng sáu, với bộ tóc dài, với cái đầu đáng kính trọng của ông ta, và quát vào mặt Lamenne “Nguyền rủa, nguyền rủa bọn bắn giết nhân dân!”. Ít ra ông ta cũng có thể ra chiến lũy như ông Tổng giám mục. Ông ta vẫn có thể buộc bọn tư sản ở Nghị viện phái một tên cảnh sát đến lôi ông ta khỏi diễn đàn và móc kéo cái tuổi sáu mươi của ông ta nát bươm vì chiến đấu. Và khi người ta lôi ông ta đi, ông ta vẫn có thể bằng cái giọng già nua của mình thét lên: đình chiến, đình chiến!)

Bêrăngiê hầu như đã đào một vực sâu giữa chúng tôi! Mặc! Nếu tôi không nói như thế, tôi sẽ không tin rằng mình trung thực.

Có lẽ tôi sẽ không thể trở lại đó nữa; tôi sẽ mất cái nơi bạn bè và hạnh phúc ấy; nhưng tôi không thể che giấu nỗi ngạc nhiên, niềm đau đớn, cơn giận của tôi khi thấy con người đó được những thanh niên cách mạng mười bảy tuổi trọng vọng.

Quả thật là đáng nực cười!

Với cái dáng đi kiểu Linh mục thôn quê, làm vẻ hiền hậu và yêu nước, ông ta đi công cán tại nhà thường dân, ở các gác xép, các túp lều, để xoa dịu những mối căm giận, ngăn không cho nó lên men và nổ thành phát súng!

Và ông ta giễu chúng tôi!

Trong một căn gác xép người ta vui thú biết bao khi hai mươi tuổi!

Người ta vui thú ở đó như một kẻ vượt ngục, ở một xó tường, được một phút để nghỉ ngơi, để đo khoảng trời đất và băng bó vết thương. Người ta vui thú ở đó như tôi ở nhà Alêcdăngđrin – khi người ta là tình nhân của cô gái ở tầng dưới, và người ta luôn luôn ở tầng trên, ở đấy buồn quá, nóng quá hoặc lạnh quá, chỉ để mà sống theo kiểu mùa Đông thì rúc vào chăn, và mùa Hè thì nằm dài trên giường: ở đó không thể làm việc được vì có mùi kinh khủng, vì không có sách, vì có rệp! – Cái nhà ông tán dóc!

Này! Tên khốn kiếp, nếu người ta vui thú trong một gác xép khi hai mươi tuổi, thì tại sao ngươi lại đi xin xỏ Luyxiêng Bônapactơ một địa vị?…

Không ai nghĩ như tôi cả. Tôi có vẻ một thằng tàn bạo và một thằng điên.

“Mày chỉ cho chúng tao xem có ai trong những người tiến bộ mà lại nói, dám nói cái điều mày nói!”

Quả thật cả những người đỏ nhất cũng chào Bêrăngiê!

“À! cái ông ấy à?” – và họ ngả mũ ra.

Những người độ lượng nhất, khi nghe tôi nói, thì cười tủm tỉm và vỗ vai tôi như muốn nói: “Này cậu ơi! Cậu chẳng hiểu mình nói cái gì đấy!…”

“Đúng là để mọi người chú ý, để làm ra vẻ độc đáo”, những người khác vừa nói bóng nói gió vừa cười khẩy!

Lời ngu ngốc muôn thuở mà tôi nghe thốt ra tư miệng bọn trẻ cũng như bọn già! Nhưng làm ra vẻ độc đáo, thế thì ngu quá! Người ta đâm ra xích mích với tất cả mọi người. Chẳng thà tôi theo ý kiến của đa số; vẫn được uống ca phê, thêm vào đó lại được vì nể; mọi người nói: “Anh ấy thông minh” vì anh đồng ý với họ.

Tôi muốn được mọi người chú ý, tôi muốn làm ra vẻ độc đáo! Khi cái đó làm tôi mất phần cà phê pha rượu và mất một chút an ủi.

Đơn độc, đơn độc với ý kiến của mình!

Khi không một người nào, nổi tiếng hay vô danh, không một quyển sách nào, dày hay mỏng, mép sách nhạt hay đậm, đã để lọt ra một lời – như một hơi thở của kẻ bị đè nén – chống lại con người nổi tiếng ấy, hắn đặt bàn chân mềm mại, mang giầy vải, lên trái tim nhân dân, và nhét bông tam tài vào lỗ tai quần chúng!

Vậy thì hãy cứu tôi với, hỡi con em những người nghèo khổ! Những kẻ có cha đã bị cuộc Trưng binh sát hại! Cứu tôi với, hỡi con cháu những người không quần cộc! Cứu tôi với, hỡi tất cả những ai có bà mẹ đã nguyền rủa tên yêu tinh đảo Coocxơ! Những ai sống ngạt thở trong các gác xép, những ai có những cô Lidet bị đói! Cứu tôi với!…

Tôi đến nước ấy vì cái lố bịch của tôi và cơn điên rồ của tôi, và người ta đi đến chỗ coi niềm giận giữ của tôi là chứng điên.

Cô bạn của Rơnun giận tôi đến lồng lộn! Chính là tôi đã động đến cô khi tôi vò nhàu chiếc mũ chùm đầu của cô Lidet của nhà soạn ca khúc.

“Thế nhưng chẳng có ai trả tiền quần áo cho cô cả, tôi nói với cô vào một buổi tối.

- Đồ xỏ lá!”

Cô đâm ra căm thù tôi, và nếu tôi không có những lúc làm thằng pha trò vui vẻ, một thằng hề biết làm cho cô bật cười, thì cô đã đuổi tôi đi rồi.

Tuy vậy, Rơnun ngăn không cho cô lộ vẻ ghét tôi thẳng thừng quá, và chính anh tự tay rót cà phê khi đến lượt tôi.

Cô trả thù lại về chuyện Hêgiêdip.

Tôi đem Morô ra để đối chọi với Bêrăngiê, Cô tá điền chọi với Lidet, vở kịch nói về những Nghị sĩ Quốc ước chọi với những bài thơ dài tán tụng Napôlêông.

Cô Lidet của Rơnun nhún vai:

“À! Đấy! Anh làm tôi buồn cười với Hêgiêdip của anh”

Tôi không mê Hêgiêdip – tôi sẽ công nhận điều đó, nếu tôi không phải tự bào chữa thái quá – Hình như ở chỗ này chỗ nọ, có khóc sướt mướt; nhưng dù sau cũng khác nhau biết mấy!

Buổi tối, một đôi khi ngồi một mình, tôi đọc lại thơ ông ta; và dường như tôi nhúng hai bàn tay có mùi thuốc lá của tôi vào một dòng nước tươi mát như những dòng nước chảy qua những cánh đồng cỏ ở Farâyron, làm rung rinh ngọn cỏ và những bông hoa bìm bìm vàng!…

(Vậy mày là cái gì về chính trị? Mày không đứng về phe Girôngđanh, mày ghét Rôbexpie, mày nói rằng Soomet vừa chửi rủa Chúa trời mà vừa là một kẻ cầu trời, vì ông ta muốn có ngày lễ Bậc chí tôn. Vậy mày là gì?

Tôi thật lúng túng khó trả lời. Tuy nhiên tôi lại tóm tắt ý kiến của tôi.

- Tôi tán thành cái máy chém.

Đây là ý kiến của tôi. Tôi tán thành việc người ta lên đoạn đầu đài, việc những đầu rơi, việc thành lập một Ủy ban Cứu quốc, điều đó thật rõ ràng. Chỉ cần đọc lịch sử phái Môngtanhơ của Exkirôx, của Viliômê, cả của ông Chie nữa, ông đã đặt vòng hoa lên cái đầu to tướng của Đăngtông… Nhưng tôi không muốn người ta dừng lại ở giữa đường, hình như những người của phái Môngtanhơ đã đổ vì họ dừng lại ở giữa đường. Ngày 9 Tecmido, Rôbexpie đã bị thua vì ông ta không lên ngựa…

Tôi sẽ học cách cưỡi ngựa, và tôi là một người phái Môngtanhơ. Những người Girôngđanh đã ước mơ một nền tự do có đôi mắt biếc. Tôi có đôi mắt đen. Họ thuộc về Ailen, phái Môngtanhơ thuộc về Xpactơ. Tôi thuộc về Xpactơ với thứ cháo loãng màu đen. Đó là thứ cháo loãng đen ở gia đình Vanhtrax.

- Mày muốn một chiếc áo có ve, một chiếc mũ cắm lông, và một chiếc thắt lưng tam tài, một anh to béo ngồi ăn với chúng tôi bảo tôi, anh ta không có chính kiến gì cả đã bảo tôi vậy, nhưng mặc dù thế - thật là kỳ - anh ta có vẻ một chàng trai rất tốt và rất gan dạ.

- Tao sẵn sàng chiến đấu, tao muốn hy sinh, tôi lúng túng đáp lại và ngỡ rằng đấy là câu trả lời giải quyết được hết.

- Tao cũng tin như vậy, nếu mày không có cái đó, thì mày đáng để người ta tát vào mặt mày và giết chết mày! May mà mày lại có cái can đảm của thói kiêu căng và cái anh hùng của sự ngu ngốc. Mày chỉ là một thằng nhãi mắc sai lầm, một ranh con hủ lậu bị lạc lối: mày sẽ bị đánh bể sọ ngay ngày đầu. Thế đấy! Nếu người ta không đánh bể hoàn toàn, nếu còn sót lại một mảnh, thì mảnh đó cũng sẽ được chín chắn ra.

Tuy nhiên tôi không nghĩ mình làm điều gì xấu và giữa tất cả mọi cái đó tôi quả thật nghĩ đến việc giải phóng nhân dân.

Đúng là tôi rất ưng có một chiếc mũ to cắm lông chim, một thanh gươm đeo ở đầu một sợi dây và chiếc thắt lưng to tam tài. Thuở bé tôi đã ăn vận quá xấu xí….

- Mày thích đời sống ở trại lính vì đấy vẫn là một thứ nội trú, thứ nội trú lớn, vì mày mới ra trường mà mày không ưa, nhưng mày căm ghét bọn giám thị vì mày đã bị đánh đập, bị roi vọt, bị làm nhục, và đến lượt mày, mày muốn đánh người khác. Mày đã bị roi vọt trong các xó xỉnh, nay mày muốn quất người khác trước Lịch sử. Người ta sẽ giam mày lại; mày muốn đầy người ta đi Xinnamari[37], nhãi con tưởng mình nghĩ việc cứu vớt thiên hạ; mày muốn bắt nhân loại trả nợ những bài chép phạt của mày.)

Chú thích:

[33] Hãy để họ yên nghỉ! (Tiếng La-tinh)

[34] Ủy ban Cứu quốc do Hội nghị Quốc ước thành lập năm 1793 để trấn áp bọn phản cách mạng và tổ chức chống ngoại xâm.

[35] Phái Montagne (Núi) gồm nhóm Nghị sĩ Quốc ước (1792-1795) ngồi ở ghế cao nhất và có tư tưởng cực tả.

[36] Đây nói cuộc Cách mạng tháng Hai 1848.

[37] Làng ở Guyan (Nam Mỹ), thuộc địa Pháp, nơi đi đày.