- XIII - SAU CUỘC THẤT BẠI
Mồng 8 tháng Chạp.
Mọi việc đã xong từ ba hôm nay…
Tôi tưởng như mình già đi hàng hai chục tuổi!…
Sự khủng bố thống trị ở Pari.
Rơnun, Rôc, Matutxanh, tất cả các bạn cũng như tôi bị đè nặng vì đau đớn và nhục nhã. Chúng tôi vẫn gặp nhau – nhưng họa hoằn mới dám nói với nhau và ngước mắt lên. Tưởng như chúng tôi đã phạm một hành động xấu xa vì để bị thua.
Chúng tôi rồi sẽ ra sao?
Tôi thì tôi sẽ đi. Thầy tôi đã viết thư bảo tôi phải về - về ngay lập tức!
Tại Năngtơ người ta đồn rằng tôi tham gia khởi nghĩa và đã bị thương trên một chiến lũy. – Thầy tôi sẽ bị cách chức nếu tôi không về để cải chính tin đồn ấy bằng sự có mặt của tôi.
Trước mối lo sợ bị cách chức đó, tôi phải vâng theo, mặc dù tôi đang ốm.
Trong cái rét của ban đêm tháng Chạp ấy, cánh tay phải tôi đã bị tê cóng. Tôi không có một vết thương vẻ vang, tôi bị cái bệnh tê thấp khốn kiếp nó hành hạ vai bên trái.
Mặc dù vậy, tôi sẽ trở về. Nhưng có một vấn đề làm tôi rất khổ tâm.
Tôi đã mắc nợ khách sạn; chính nhờ có Alêcdăngđrin mà người ta đã cho tôi chịu.
Tôi định sẽ trả nợ một khi được sáng sủa trong nghề làm báo hay dạy học tư. Tôi nợ không nhiều trên một trăm phơrăng một chút. Có thế thôi.
Từ khi cái người Nga bỏ đi, tôi ăn theo mức ba mươi hai phơrăng một tháng – sáng cà phê sữa; tối thịt bò.
Tôi viết thư về Năngtơ trình bày tình cảnh và van xin gia đình gửi tiền để tôi trả nợ trước khi đi. Tôi xấu hổ vì mắc nợ người bố sau khi đã là người yêu của cô con.
Người ta trả lời sẽ xét sau khi tôi đã trở về.
Tôi đã khóc vì buồn bực và giận dữ; tôi quên chuyện bại trận, để chỉ còn nhìn thấy cảnh khốn đốn và dang dở của tôi.
Tôi lại viết thư và van xin.
Người ta gửi cho tôi năm mươi phơrăng và nhắc lại rằng mọi việc sẽ thu xếp xong ngay khi tôi đã bước chân về tới nhà.
Đành phải chịu nhục – nhờ Alêcdăngđrin nói hộ với bố để ông ưng cho cách thu xếp ấy.
“Không sao cả, cô nói, rồi cô an ủi tôi và khuyên tôi nên mau ra đi để trở lại thật sớm – anh sẽ thấy em vẫn như xưa, cô dịu dàng nói thêm”
Tôi cám ơn cô, nhưng tôi sẵn sàng đánh đổi cánh tay đau đổi lấy một trăm phơrăng ấy!
Cuối cùng mọi việc thu xếp xong.
Alêcdăngđrin vĩnh biệt tôi trong một xó nhà. Tôi cúi đầu xuống và trong tim tôi như có bùn.
Tôi đi tàu hỏa, lấy vé hạng ba. Vai tôi cóng lại trong những toa tàu trống gió ấy. Tôi không nhấc được cánh tay lên nữa, nó như chết khi tôi tới nhà.
“Nhưng với cánh tay chết này, mày có vẻ đã bị thương đúng như người ta đồn, thầy tôi giận dữ thét lên. Mày thử giơ nó lên một chút xem nào!
- Không, con không giơ lên được, nhưng con sẽ cố, con hứa với thầy; có điều là con đang có một gánh nặng đè lên lương tâm. Thầy hãy trút cho con gánh nặng ấy để con thêm can đảm! Thầy hãy gửi lên Pari ngay tối nay món tiền nợ khách sạn.”
Tôi đưa ra bức thư thầy tôi sẽ trả nợ cho tôi ngay khi tôi trở về; thầy tôi chỉ ầm ừ và cứ thế kéo dài một ngày, hai ngày.
Thầy tôi không phải người ác. Tôi vẫn nhớ thầy tôi đã khóc nức nở cái buổi sáng, sau khi tôi đánh nhau vì thầy tôi, người còn chảy máu, tôi sắp bị bắt vì một lá đơn yêu cầu mà thầy tôi đã gửi đi từ tám hôm trước.
Nhưng, nỗi lo sợ bị mất chức, - thầy tôi sẽ ra sao? - mối giận vì thấy tôi đối đáp như một tên học trò ngỗ ngược – thầy tôi tự phụ là có thể trị được tất – cái không khí xôn xao sợ ô nhục đang lởn vởn lúc ấy! và thêm nữa – lúc đó tôi mới biết – một chuyện dan díu khiến thầy tôi thành nực cười và đau khổ; tất cả những cái đó đã làm con người đó vốn đã vì nghề nghiệp mà tâm hồn trở lên bệnh tật héo hon.
Mẹ tôi, từ cái ngày tôi thét bảo cuộc đời thơ ấu của tôi đã khổ sở bao nhiêu bên cạnh mẹ, mẹ tôi đã nương nhẹ trái tim tôi bằng những niềm âu yếm thần tiên. Chỉ có điều là mẹ tôi khó lòng hiểu được những chuyện nổi loạn, chiến lũy, những phát súng bắn vào quân đội!
Mẹ tôi không trách mắng tôi gì cả, nhưng tôi tin rằng trong thâm tâm mẹ tôi vẫn coi tôi là kẻ có tội. Dù không muốn, tư tưởng của người phụ nữ tư sản lương thiện khiến mẹ tôi cho thầy tôi là có lý và kết án tôi. Một đôi khi bàn tay mẹ tôi nắm lấy tay tôi trong xó nhà, nhưng đồng thời cặp mắt mẹ lại ngước lên trời, như để cầu xin Chúa thương xót hoặc tha thứ cho tôi! Người đàn bà tội nghiệp!
Mẹ tôi miên man với niềm đau câm lặng giữa những cơn giận dữ của hai cha con tôi.
“Để mẹ đi mời thầy thuốc, một hôm mẹ tôi nói.
- Con đỡ rồi.
- Con cứ để mẹ mời. Cốt để thầy thuốc thấy rõ đấy không phải là một vết thương. Ông ta sẽ nói lại cho cả thành phố biết”
Bác sĩ tới hỏi tôi điều này, điều nọ… - Tôi không kể cho ông biết cái điều tôi mang trong tim. Mặc ông xem xem tôi bị cái gì ở vai.
Ông ta nói những gì tôi không rõ, kê đơn ra sao tôi không hay, rồi cáo lui.
Mẹ tôi lập tức đi mua thuốc và trông nom tôi như một kẻ hấp hối.
“Nhưng vấn đề không phải là ở đó! Bệnh của con, thì có cái gì! Bệnh tê thấp, thế thôi! – Vấn đề là món nợ của con ở Pari – món nợ thiêng liêng!
- Tại sao lại thiêng liêng? Mẹ tôi hỏi”
Tại sao? – Tôi không thể và không muốn kể cho thầy mẹ tôi biết rằng Alêcdăngđrin với tôi, chúng tôi đã yêu nhau!… thầy mẹ tôi có thể cảnh cáo lão Mutông. Tôi chỉ có thể nhắc thầy tôi lời ông đã hứa, và, vì thầy tôi trả lời gần như mỉa mai, tôi đứng thẳng lên – cánh tay buông thõng, đầu ngẩng cao – tôi văng ra những lời giận dữ.
“Thế là thầy đã nói dối con, khi viết thư!”
Tôi đã nhắc lại lời đó khi thầy tôi giơ cao nắm đấm! Thầy tôi đã không hạ tay xuống vai đau của tôi, nhưng thầy tôi lại thốt ra những lời này:
“Mày nên biết mày chưa đến hăm mốt tuổi và tao có quyền cho bắt mày đi”
Lại vẫn lời hăm dọa ấy!…
Cho bắt tôi đi, không phải cái đó sẽ chữa khỏi cánh tay tôi…
Thầy tôi đã nghĩ đến chuyện đó nghiêm chỉnh. Người ta sẽ để tôi ở tù ít lâu, một thời gian đủ để cho nguôi đi những lời đồn về chuyện điên rồ trên chiến lũy của tôi tại Pari.
Tấm gương về những biện pháp của người bố đó đã do một bạn đồng sự của thầy tôi tại trường trung học nêu lên, và còn ngang nhiên hơn. Người con trai của ông ta cũng đã thét lên giữa công chúng: “Đả đảo tên độc tài” tại một thành phố tỉnh nhỏ, ở Lơmăng thì phải.
Người bố đã làm gì? Ông ta bảo rằng con ông ắt phải mất trí mới làm như thế, và ông cho người bắt con ông giam vào nhà thương điên[39].
Sau hai tháng người ta thả anh ta ra, nhưng cô em gái nghe người anh bị điên đã xúc động đến sinh ốm nặng, và theo người ta nói, đang sắp chết.
Sự sợ hãi làm mọi người phải cúi đầu, sợ hãi đám công chức mới và bọn theo Bônapactơ reo khủng bố! Chúng đưa lưỡi hái trong các trường học và ném ra vỉa hè bất cứ ai có màu sắc Cộng hòa.
Tuy nhiên tới phút cuối cùng thầy tôi đã do dự… nhưng tay tôi đã khỏi, bệnh tê thấp đã bay từ lâu, thế mà thầy tôi vẫn chưa trả cho tôi món nợ ở Pari.
Tôi nhắc lại chuyện đó. Tôi không thể sống với ý nghĩ ấy, tôi thấy như tôi không còn danh dự gì nữa.
Cuối cùng thầy tôi đánh tiếng cho tôi là thầy tôi sắp trả; nhưng kèm theo tin đó thầy tôi có những nhận xét chua chát, hộc máu, khiến cha con tôi trở thành kẻ thù, và cuộc sống sẽ trôi qua ấm ức và kinh khủng trong gia đình Vanhtrax. Tình rạng đó giống như trước ngày tôi đi Pari lần đầu tiên.
Tôi xin đi xa…tôi sẽ sống lần hồi ở một nơi xa… Hoặc để cho tôi đi học nghề ở đây để làm thợ?
“Vẫn dân chủ xã hội phải không? Mày hãy đến nói với ông Hiệu trưởng là mày muốn làm thợ giầy, lăn lộn với đám hạ lưu đi! Hãy vận áo bludơ tới cửa lớp tao dạy đi! Có lẽ mày muốn vậy chứ gì!”
Tôi suốt ngày ở trong buồng. Thầy tôi bắt tôi ngày nào cũng phải làm xong một bài Hy-lạp hoặc La-tinh.
Đó, tôi dùng thì giờ như thế đó, tôi, một kẻ sống sót từ chiến lũy về.
Đấy có phải để trừng phạt tôi không? Đấy có phải một trò đùa của kẻ đao phủ không?
Sau khi đã nghiền La-tinh xong, tôi được tự do – tự do nhìn ra bến tầu.
Bến Rítsơbua
Ôi chao, cái bến tầu Ritsơbua ấy mới dài làm sao, hoang vắng làm sao, buồn làm sao.
Không còn là cái mùi thành phố nữa, mà là mùi con sông đào. Dòng nước rác bẩn trải ra dưới các cửa sổ, thuyền bè dân hàng hải như nổi trên làn dầu, từ đó bốc lên, qua một cái ống, khói nồi súp đang đun. Thỉnh thoảng chị chèo thuyền lại nhô đầu lên và trèo lên sàn để ném sác vỏ xuống sông.
Thật là đầy những rác vỏ, cái con sông không chảy này!
Đó là giấc ngủ của nước. Đó là giấc ngủ của hết thảy.
Không một tiếng động. Ba bốn vệt người trên dải băng vàng lợt của bến tàu.
Trước mặt, ở đằng xa, những công trường rỗng vắng, vài người lảng vảng cầm búa trong tay, chốc chốc lại nện một nhát vang xa tới nửa dặm, ảm đạm như một tiếng chuông nhà thờ.
Bên trái, cánh đồng Môvơ cỏ cháy vì băng giá.
Bên phải, con sông dài, quãng này quá hẹp tầu lớn không vào được. Ở đây những ống khói tầu vận tải xếp hàng như ống khói bếp lò dựa vào một bức tường; và những cột với buồm giống như chiếc sào có treo những áo sơmi – cái khúc sông Loa này như thứ nhà kho bỏ hoang, chiếc sân dài nhà thợ giặt, hành lang nhà máy cũ!
Bầu trời trên cao nhợt nhạt và trong trẻo; cái trong trẻo và nhợt nhạt nó chọc tôi như một nụ cười của thằng ngố, như một sự nhạo báng tôi không trị được mà cũng không với tới được… Thật là kinh khủng, cái bầu trời sáng ấy! trong khi ấy trái tim tôi rỉ máu đen trong ngực…
Ôi! Cảnh im lặng ấy! – chỉ bị khuấy động bởi tiếng chuyện trò giữa đám thủy thủ! Hoặc tiếng hò dô chậm chạp của những người trên đường men sông kéo một con tầu ngược dòng…
Tại sao chuyến tầu hỏa đưa tôi về lại không nổ tung lên! Tại sao tôi đã không có gan lao đầu vào gầm tầu mà lại trèo lên toa ngồi như một kẻ bị tử hình ngồi trong chiếc xe bò chở hắn băng qua đồng ruộng tới pháp trường! Có những người ngồi trên xe như thế ba tiếng đồng hồ bên cạnh tên đao phủ! Nhưng, khi tới nơi thì họ chỉ còn khổ một lát nữa thôi, họ sắp được giải thoát; tôi, tôi đã tới nơi mà không biết bao giờ kết thúc cơn hấp hối!
Ở trên xe hỏa, tôi ngồi cạnh một người khi xuống xe là đáp tầu biển; ông ta đi tới xứ sở của phiêu lưu và của mặt trời, ở đó người ta đâm nhau trong các tiệm rượu, ở đó người ta giết nhau bằng súng lục ở ngoài phố!
Đáng lẽ tôi phải nói với ông ta:
“Ông cho tôi đi theo với! tôi sẽ ở bên cạnh ông nhảy vào các cuộc ẩu đả - ông hãy trả tiền tầu cho tôi, tôi xin bán tính mạng cho ông trong thời gian cần thiết để trả hết món nợ! Tôi sẽ không chó má đâu, tôi có thừa máu đến mửa đi”.
Tại sao tôi không nói thế với ông ta?
Thật là kinh khủng! tôi tưởng như quả tim tôi rơi đâu mất và tôi sủa lên vì đau đớn.
Trước mặt là bến tầu hoang vắng, dòng sông lừ đừ, con kênh bẩn thỉu; bên trái là đồng cỏ tràn đầy rầu rĩ…
Đằng sau, chạy dài đường phố lát gạch nham nhở, hai bên là những nhà dân nghèo, - như tất cả những phố cùng khổ - đầy những trẻ con rách rưới, những phụ nữ nhếch nhác, những cụ già lê đi!
Trong đám ấy có một người da đen năm con, chân không giầy và đầu trần, đi xin việc làm và xin ăn…
Có một người què hôm nọ đến kêu dưới một cửa sổ: “Vợ tôi đói, vợ tôi đói!”
Và tiếng kêu trong phố đó chẳng hơn gì tiếng một con vật rống lên ngoài bãi cỏ hoặc tiếng một con chim kêu trên cây!
Chú thích:
[39] Chính J. Valex đã bị như thế, Valex bị giam 60 ngày tại Nhà thương điên Thánh Jacques. Ở đây Valex, vì tiết tháo, đã nói trệch sang một người khác.