- XIV - THẤT VỌNG
Dĩ vãng dính chặt lấy tôi như lá thuốc cao dính vào một vết thương. Tôi quay đi quay lại trong cái vòng ngu xuẩn trong đó trôi qua một phần trẻ của tôi.
Ngôi trường trung học cũ vẫn còn đe dọa tôi bằng cái bóng dáng ảm đạm, cái im lặng như nhà tu của nó.
Tôi không thể đi vào cái phố nhỏ chạy dọc theo dãy tường của nó mà không nhớ lại những năm tháng kinh khủng, mỗi ngày bốn lượt, tôi xuôi ngược con đường lát đá nhọn phủ rêu xanh ấy. Giữa đường, khi trời mưa, một dòng nước ngầu bùn chảy, cuộn theo những rác rưởi.
Mùa hè, đôi khi ở đó cũng thú vị; nhưng thầy tôi bảo: “Mày ôn lại bài đi”, thế là tôi chẳng có niềm vui được hít không khí trong trẻo, được nhìn, trong cái sân lớn, đung đưa những cây có ánh nắng xuyên qua và có rất nhiều chim.
Ở khuỷu đường, chỗ rẽ ngoặt của cái phố nhỏ, một ngôi nhà đầy hoa trên các cửa sổ, cứ đến mười giờ, lại phô ra một căn buồng rộng mở hóng mát, rất vui và rất linh hoạt.
Nhưng tôi bị cấm không được đứng lại nhìn, vì hình như nhà này là tổ ấm của một cặp vợ chồng vô luân, đôi trai gái thường đuổi theo nhau để hôn nhau. Một đôi lần tôi đã đánh liều ngước mắt nhìn; mẹ tôi đã bắt được và kéo giật tôi lại đằng sau tựa hồ như tôi sắp sa xuống một cái hố.
Mẹ tôi nhờ một mụ già quen biết ở trước cửa nhà đó báo cho mẹ tôi biết.
“Nếu thằng Jăc nó nhìn thì cụ mách tôi”.
Và mụ này rình tôi vào giờ đi học, mũi dán bẹt vào cửa kính, miệng nanh ác, vẻ bỉ ổi – còn bỉ ổi hơn nhiều cặp trai gái hôn nhau ở trước cửa.
Hiện nay mụ chỉ điểm ấy vẫn còn ở đấy! – bây giờ tóc mụ đã hoa râm, thò ra dưới chiếc mũ buổi sáng cáu ghét; mụ nhìn chòng chọc tôi bằng con mắt đục mờ, và tôi tưởng như mụ làm tôi già đi khi mụ tròn xoe con ngươi trố nhìn tôi!
Qua hàng rào sắt trường trung học, tôi nhìn thấy sân trường…
Vậy ra tôi đã đến nơi đây, từ lớp thứ ba tới lớp tu-từ học, sách cắp ở tay, bài làm trong vở ư? Phải đẩy cửa, vào lớp và ở đó suốt hai giờ - hai giờ buổi sáng, hai giờ buổi chiều!
Người ta phạt tôi nếu tôi nói chuyện, người ta phạt tôi nếu tôi dịch sai, người ta phạt tôi nếu tôi không đọc thuộc lòng được mười câu thơ của Êtsylơ, một đoạn văn của Xixêrông hoặc một mẩu văn của một người đã chết nào khác; người ta phạt tôi vì bất cứ cái gì.
Tôi giận điên người khi nhìn thấy cái nơi tôi đã đau khổ một cách ngu ngốc đến như thế.
Trước mặt là cái chuồng, ở đó tôi qua năm học cuối cùng. Tôi những muốn nhảy xổ vào đó và thét bảo ông giáo:
“Ông hãy rời bục xuống đây và tất cả chúng ta cùng chơi nhảy cừu! Thế còn hơn là lải nhải với họ những điều ngu xuẩn ấy, hỡi nhà sư phạm ngốc!”
Tôi nhớ nhất những ngày thứ bảy hồi ấy!
Cứ đến thứ bảy, ông hiệu trưởng, ông giám học và ông tổng giám thị tới công bố bảng xếp hạng và nghe đọc điểm.
Phải đâu những tên ngốc ấy, họ đã chẳng tự cho phép lắc lư cái đầu tỏ ý khen ngợi mỗi lần tôi lại được nhất!
Lũ Ngốc, ngốc, ngốc! Lũ tán dóc thì đúng hơn, bây giờ thì tôi biết rõ. Các bạn không lạ gì nó như đắp thuốc vào cái đầu bằng gỗ, cái trò nhồi tiếng La-tinh vào sọ tôi ấy!
Còn hơn là lại chui qua những vòm cửa ấy, là trở lại những lớp học ấy, và nhận những vuốt ve của bọn hủ lậu ấy, tôi ưng, trong cái sân giống như một đấu trường kia, vật nhau với một con gấu, đương đầu với một con bò mộng đang cơn điên, thậm chí phạm một tội ác để đi ngồi tù! Ôi! Nói thật, đúng như thế!
(Tôi nhận ra những phố lụp xụp ấy, với những bức tường long lở, vàng khè, nó giống như những tảng phomát Rôckơfo mốc đang đổ sụp. Các giáo sư sẵn lòng ở những nơi có bộ mặt phomát lâu ngày ấy. Ông giáo dạy toán các lớp nhỏ ngày xưa đã ở một xó tồi tàn như vậy. Một con người gớm ghiếc, chân thọt, lông lá, bẩn như chiếc lược và lỗ mũi bị nhiệt vì hút thuốc lúc nào cũng đỏ như mũi ngựa! Thầy tôi dạo ấy cho ông ta vay một số tiền mà ông không trả. Người ta cho tôi đến học ông để trừ nợ. Những giờ phút tôi ở đấy mới kinh khùng làm sao! Cái nhà ông lông lá ấy, ông ta đã dạy tôi lý thuyết số học!
Lý thuyết, nó là cái quái gì! Chẳng phải tôi còn nhỏ quá hay sao? Tôi mới mười bốn tuổi! Tôi muốn biết người ta làm như thế nào, có vậy thôi! Tôi không cần biết tại sao lại như thế? Tôi sẽ không bao giờ hiểu nổi, đầu tôi đến nổ vì theo dõi những điều ông nói. Tôi không muốn đầu tôi nổ…
Mẹ tôi rất hài lòng vì tôi chán đến chết. Ví bằng đó là một trò vui thì dù chỉ mất hai mươi xu cũng chẳng có.
- Lần trước con chán lắm phải không?
- Ồ vâng!
Mẹ tôi có vẻ thích chí – Thế chứ! thằng kiết xác cũng chẳng ăn không của ta tất cả! Hắn làm rầy thằng Jăc đến gớm.
Cuối cùng tôi cũng thuộc làu lý thuyết của ông! Ông đã hài lòng chưa? Tôi thuộc từng chữ một như ở trong quân đội, nhưng tôi không biết làm tính. Khi nào tính nhân có những con số không, tôi đã lúng túng lắm rồi. Nhưng đến tính chia thì tôi chịu chết!
- Ông ta còn nợ ít ra mười phơrăng nữa, con ạ, mẹ tôi kêu lên.
Thầy tôi muốn giải thoát cho lão già. Ông coi như đã được trả hết.)
Ta hãy đi xa hơn nữa!
Đây là một chỗ mà tôi rất ghét!
Ở nơi này người ta đã dẫn tôi đi từng nhà, các nhà người quen, vào một ngày phát phần thưởng, để khoe sách được thưởng của tôi.
Tôi có vẻ đi bán những bánh sôcôla.
Một bà xinh đẹp vận áo xám ánh bạc – nay tôi còn như trông thấy bà ta – đã không giấu nổi một nụ cười; bà thốt ra một lời tốt bụng:
“Tội nghiệp thằng bé!”
Cho nên tôi vẫn giữ một kỷ niệm về những buổi phát phần thưởng ấy!
Dù sao cũng phải được phần thưởng vì cái đó có ích cho thầy tôi.
Trong tất cả những phố có trường học và giáo sư ấy, tôi lại cảm thấy một nỗi đau buồn khôi hài. Tôi tưởng như đeo một bằng khen thưởng ở trên lưng và mẹ tôi thì đi theo sau với kèn nhạc! Tôi miễn cưỡng đi như một con voi nhỏ mà một gánh xiếc đem đi diễu phố.
Lát sau tôi gặp lại những anh chàng học dốt cũ, họ chẳng phải vì thế mà khốn khổ hơn. Họ không hề có vẻ nhớ là xưa kia họ đã bét lớp. Họ đã đi vào công nghệ, một số đã đi đây đó; trong vẻ mặt họ thanh thoát và cởi mở. Họ nhớ là tôi đã được coi như niềm hy vọng của nhà trường.
“Thế bây giờ cậu làm gì? Liệu có ngày cậu cho mọi người nói đến cậu không?
- Này, có đúng là cậu đã tham gia và suýt tử hồi tháng Chạp không?”
Anh này bị một anh khác cười và huých khuỷu tay ngắt lời:
“Thôi đi, chẳng phải là Vanhtrax dẫn thân đến nơi nguy cho tính mạng!”
Hiện giờ cậu làm gì? Liệu có ngày thiên hạ được nghe nói đến cậu không?
Trả lời làm sao bây giờ?
Một buổi sáng, tôi sẽ biến mất để khỏi xấu hổ trước mặt ai, vì tôi chẳng là gì cả, chẳng kiếm được cái gì; không một hy vọng trở thành ông nọ ông kia, cũng như kiếm được cái gì.
Có lẽ ở Năngtơ, tôi là kẻ duy nhất sống cuộc sống khốn khổ thế này.
Ban ngày tôi không ra đường nữa, tôi giấu mặt đi.
Tôi không thể giải thích với tất cả mọi người về quan hệ căng thẳng giữa tôi và thầy tôi; tôi không muốn vậy vì thầy tôi cũng như vì tôi. Người ta trách tôi sai, - thì để họ trách!
Người ta đổ cho tôi đã dồn thầy tôi tới chỗ tuyệt vọng. – Tôi tự bào chữa thì tôi lại càng có vẻ bất hiếu hơn.
Tôi sống như những vật ăn đêm, tôi tránh những phố có đèn sáng, tôi gặp những kẻ ăn mày và những kẻ dở hơi. Thật là kinh khủng!
Đi tìm chỗ ồn ào ư? Lẩn mình vào trong đám đông ư?… Tôi sẽ tìm thấy những cảm xúc gì ở đó?
Trong cái thành phố lớn ở tỉnh lẻ này, về mặt ồn ào và đông người, thì chỉ có những chợ ở đó người ta làm ầm ĩ, trên bờ sông Ecđrơ; nhưng tôi không thích những nông dân ở thành phố - với bộ mặt cáo dữ tợn của họ. – Tôi chỉ thích họ khi họ ở thôn quê, đi sau những con bò, hoặc đập lúa trong kho.
Nơi công cộng sang trọng, vào những giờ nào đó, người ta thấy đông người, nhưng một đám đông giống như đám đông ngày chủ nhật ở Pari, một đám đông không nhiệt tình trên mặt, và họ nói về tất cả cái gì tôi căm ghét, họ khinh tất cả cái gì tôi ưa thích.
Tôi cảm thấy ở họ cái láo xược khinh người và cái sung sướng tàn nhẫn…
Người ta nghe họ bông đùa về Bônapactơ:
“Dù sao thì ông ta cũng đã cho bọn cộng hòa vào xiếc hết!”
Và họ cười!…
Tôi còn ưa cái im lặng nặng nề của bến tầu và cảnh thê lương của đường phố hơn…
(Và bọn thầy tu, vẫn bọn thầy tu!
Thật là buồn, những chiếc áo dài đen ấy. Những kẻ nấp sau chúng cũng rất buồn! Chúng béo vàng như một cây nến một xu của chúng, những mụ bán bùa và đồ cúng ba xu náu trong những góc nhà thờ. Chúng béo nhợt và bệu như lũ quái vật trong hầm, tất cả những kẻ mộ đạo, những ông bõ và những tay giữ đồ thánh.)
Cuộc sống! Vậy thì cuộc sống ở đâu?
Ở Pari, những người nghèo khổ hàng xóm của tôi là những kẻ phẫn nộ và có niềm an ủi ở những kỷ niệm về nền Cộng hòa, niềm vinh quang của những vết sẹo! Trên bờ sông, có những hàng bán sách cũ, có những chiếc áo bludơ qua lại!
Nhân dân! Vậy thì ở đâu là nhân dân?
Những người kéo tàu kia, những người vận áo thợ kia, những dân Brơtanhơ-hạ mang áo vải lấm bùn kia, những nông dân vùng lân cận mặc áo dạ xanh lục kia, tất cả những người đó không phải là nhân dân!
Tôi sẽ tìm thấy chăng, ở đâu đấy, ở một xó xỉnh nào, giữa những áo rơđanhgôt, nếu không là giữa những áo vét hoặc bludơ, một người nào tôi khả dĩ thổ lộ được nỗi khổ ải của tôi, họ có thể hiểu được điều tôi đau lòng, họ mang trong lòng một chút niềm tin cộng hòa của tôi, nỗi lo âu của kẻ thất bại!
Giá như ông Ăngđrêz, giám đốc Sở vận tải, hãy còn ở đây! Nhưng ông ta lại đi mất rồi.
Xưa kia ông ta chẳng có một người bạn thân tới ở Năngtơ hay sao?
Tôi hay tin là ông này vẫn còn ở đây.
Ông làm trưởng phòng ở chỗ nào tôi không biết. Ông đã ở Pari. Nếu tôi nhớ đúng thì ông ta đã xuất bản một quyển sách trong đó ông dựng lên một nhà gái điếm và trong đó công lý của loài người đã phạm một tội ác ngay giữa thanh thiên bạch nhật. Ông kể chuyện một người vô tội chết trên đoạn đầu đài, trong khi chính tên thủ phạm đứng xem cuộc hành hình, khoác tay viên chánh án tòa đại hình, và một con đĩ giở trò gạ gẫm đã giúp việc tên đao phủ.
Thật là táo bạo.
Có lẽ với ông này tôi có thể nói chuyện xã hội bất công, chuyên bênh vực nhân dân được.
Tôi leo lên gác nhà ông.
Bây giờ ông đeo kính, mặc chiếc áo rơđanhgôt hơi dài.
Ông tiếp đón tôi rất kỳ quặc; ông cho tôi cảm thấy rằng ông không được tự do muốn tiếp ai thì tiếp: ông nói rất khẽ và đi lại rón rén.
“Có ai thấy anh lên đây không? Ông hỏi tôi.
- Sao, ông là người đã viết quyển sách ấy, ông cũng sợ đến thế ư?…”
Mặc dù ông hơn tôi những hai chục tuổi, tôi ăn nói như thể ông chạc tuổi tôi, và tôi trách ông đã phản bội, hoặc ít nhất, - tôi nói để chữa lại lời giận dữ của mình, - ít nhất cũng là nhượng bộ.
“Nhượng bộ, thì đúng vậy, tôi đã nhượng bộ từ cái ngày tôi đã hèn nhát về ở đây sau hai mươi năm sống tại Pari!”
Và sau ba phút ông đứng dậy:
“Thôi, anh bạn trẻ, ta từ biệt nhau! Tôi không muốn đã bao lâu chịu sống hèn hạ để trong một khắc đồng hồ bị liên lụy vì tiếng nói oang oang của anh. Anh thì anh không có vợ để nuôi, có con để dạy.”
Có lẽ có cái anh hùng để làm như ông ta làm! Ông đã khắc phục lòng kiêu hãnh và bóp chết tư tưởng của mình để có được miếng bánh cho gia đình!
Miếng bánh ấy nó đắt làm sao!…
Miếng bánh mà thầy tôi cho tôi cũng đắt.
Người ta giữ tôi như một thằng tù và đối xử với tôi như một kẻ ăn mày!
Thậm chí tôi cũng không được đứng dậy khỏi bàn sau khi đã ăn xong khẩu phần người ta cho tôi. Một hôm thầy tôi bảo:
“Bỏ đi như vậy là vô lễ, làm gì mà tiêu chóng như thế được!”
Bằng bất cứ giá nào tôi phải tìm được một việc làm.
Tôi đặt quyết tâm vào đó. Tôi hỏi anh em bạn cũ hỏi xem họ có bà con, bạn bè nào, lớn hay bé, cần tôi dạy tư không.
Họ cười! – Mới cách đây không lâu hãy còn là học trò, tôi nghịch ngợm với họ và tôi chế giễu môn la-tinh! Tuy nhiên, cuối cùng, một anh bạn giới thiệu tôi với bố anh, ông ta tìm được cho tôi một chỗ phụ đạo. Họ đã xuôi tai vì thấy giá rẻ.
“Ông muốn trả tôi bao nhiêu cũng được”, tôi đã nói vậy.
Tôi lại nói thêm tôi dạy học là để có việc làm hơn là để kiếm tiền và hai bên thỏa thuận với hai mươi phơrăng một tháng, tôi sẽ dạy mỗi ngày một tiếng cho một thằng bé lai đen mà bố anh bạn tôi là người bảo chứng. Ông ta sẽ trả tôi hai mươi phơrăng và có lẽ sẽ tính với gia đình đó năm mươi phơrăng; có thể vì thế tôi mới có việc phụ đạo ấy.
Tôi xem lại Buyêcnup[40], tôi lấy cuốn Cônxionơ[41] ở tủ sách của thầy tôi và tôi đi phụ đạo cho thằng bé lai đen.
Tôi về nhà – lúc đó là giờ ăn tối. – Chỉ có mỗi mình mẹ tôi ngồi ở bàn ăn. Mẹ tôi, mặt tái nhợt, báo tin cho tôi biết rằng thầy tôi cần hỏi tôi cho rõ một việc gì đó rồi mới chịu ngồi vào bàn ăn bên cạnh tôi.
“Việc gì thế mẹ?
- Hình như bây giờ con đi phụ đạo hạ giáo thì phải…”
Vừa lúc đó thầy tôi bước vào; thầy tôi cố bình tĩnh mà không được. Thầy tôi đành phải đứng lên và đi ra, mặt nhợt nhạt như tờ giấy.
Tôi hỏi mẹ tôi.
“Còn hỏi gì nữa, đồ khốn kiếp, nếu mày nhận phụ đạo với giá hai mươi phơrăng thì thầy mày làm thế nào đòi người ta bốn mươi phơrăng được!… Thầy mày phát ốm vì chuyện ấy đấy…
- Mẹ nói với thầy là đêm nay thầy có thể ngủ yên; con sẽ không phụ đạo với giá hai mươi phơrăng, con sẽ không làm hạ giá!”
Buổi tối hôm ấy, tại nhà mà tôi phải đến dạy học, người chồng bảo vợ:
“Bà có hiểu được thằng con trai nhà Vanhtrax không?… Hôm qua đã thỏa thuận là nó đến dạy thằng Viêcgin (tên thằng da đen), sáng nay nó lại viết thư bảo thôi không đến nữa.
- Đồ dở hơi!
- Đồ đại lãn thì đúng hơn! Trông nó tôi đã biết ngay là một thằng đại lãn!… Chà! Tội nghiệp bố nó thật không may!”
Hay bây giờ tôi đi tìm đám con chủ tầu? không phải để có chỗ phụ đạo nữa, mà để được đi theo một con tầu nó sẽ đưa tôi đi xa thầy tôi đã không may như thế, xa mẹ tôi đã đau khổ như thế, xa cái bến tầu hoang vắng đến thế, xa cái xó nước Pháp này ít giống Pari rộng lớn đến thế: Pari, cái nơi tôi đã đau khổ, nhưng ở đó mọi nỗi đau đớn đều có thuốc chữa và mọi mối nhiệt tình đều có tiếng vang!
Tôi sẽ đi bất cứ đâu: nơi có bệnh sốt rét vàng, có bệnh dịch hạch, có luật Lynsơ[42], nhưng là nơi tôi có thể bênh vực quyền tự do của tôi bằng súng hoặc bằng dao. Tôi sẽ làm người đi tìm vàng hoặc săn trâu rừng: có thể tôi sẽ đi cùng đám phiêu lưu xâm lăng một nước, giết một ông vua, vực dậy một nền Cộng hòa – cái gì cũng được! Hoặc tôi sẽ sống trên một chiếc tàu cướp biển, dù có bị treo cổ chết lè lưỡi trên ngọn một cột buồm…
Nhất định là như thế. Tôi sẽ tìm cách trốn thoát trên Đại dương.
Tôi sống cùng với thủy thủ. Một số bạn học cũ của tôi đã làm hoa tiêu tập sự hoặc làm thủy thủ. Một cậu có người anh làm quan hai trên một tầu buôn; ít hôm nữa anh này lại ra đi một chuyến xa. Anh ta sẽ mang tôi đi; tôi sẽ giúp việc dưới tầu để trả tiền vé. Trong khi chờ đợi, anh ta ăn chơi như người lính thủy thủ mới lĩnh lương và anh lôi kéo tôi vào các cuộc hành lạc.
Ôi chao những buổi tối, trước những vỏ chai biến thành chủy, trong những tiệm lụp xụp, ở đó người ta uống rượu say khướt và ở đó người ta nện nhau chí tử!
Nhưng trong lúc mọi người la hét và đánh nhau, tôi chếnh choáng ngồi yên nhìn mục tiêu của tôi qua làn khói những tẩu thuốc và máu đổ ở những vết thương.
Hôm sau mạng sườn tôi đau ê ẩm, tinh thần ốm yếu; nhưng cái im lặng trong căn nhà, cái lạnh giá trên các khuôn mặt còn làm tôi sợ hơn; và buổi tối tôi lại vui vẻ tới đâm đầu và dìm lòng vào đống bùn nhơ nhớp ấy.
(Thư viện thì có đấy, nhưng tôi đã đi đến chỗ đâm ghê sợ nó, căn buồng rộng rãi ấy, nơi hồi nhỏ tôi đã trải qua những giờ đẹp đẽ biết bao. Hồi ấy tôi tin ở những điều đọc được. Giờ đây tôi không còn tin nữa!
Loại sách có nhiều trong thư viện là những sách nghiêm trang hoặc cũ kỹ, chúng nhắc lại những điều người ta đã lải nhải nói với tôi ở trường học. Không! Không! Tôi không thể lại đặt mũi vào đấy, lại quay về cái trò mửa thơ la-tinh và dịch tiếng hy-lạp!
Tôi quay ra đọc những tác phẩm của Satôbriăng, Cadimia Đơlavinhơ, Alêcdăng Đuyvan óng ánh ở hàng đầu trên các ngăn sách. Satôbriăng! Có Natsê, Những người tuẫn tiết! Đấy là những cuốn mà người thủ thư hơi quen tôi đã giới thiệu và đem đến cho tôi. Ông ta làm tôi e ngại nữa, vì tôi không dám hỏi hoặc lấy trên giá sách những cuốn có vẻ phù phiếm hoặc quá tự do.
Hẳn tôi là đứa tiên thiên bất túc! Tôi trách bố mẹ tôi là sai, chính tôi chẳng ra gì. Khi còn ở nhà trường – các giáo sư muốn nói thế nào thì nói – tôi vẫn không thấy được niềm vui lành mạnh trong việc nghiên cứu thời cổ đại. Tôi cũng chẳng thấy gì hơn khi đọc nhà văn cận đại tên là Satôbriăng ấy.
Cuốn Những người tuẫn tiết làm tôi thấy chán ơi là chán! Nếu không quen người thủ thư, có lẽ tôi đã ngủ rồi. Nhưng tôi sẽ có vẻ như không có tâm hồn, nếu đến để ngủ trên những kiệt tác. Hơn nữa lệ cấm không được ngủ. Chỉ còn mỗi cách cúi đầu xuống, nhưng không! Tôi sẽ ngáy lên ngay lập tức.
Tuy nhiên, bây giờ người ta không ăn nói như những nhân vật của Satôbriăng, - cả ở Pari lẫn ở Năngtơ. Tôi không phải là một trong những người Gia-tô-giáo đầu tiên. Tôi là một người Gia-tô-giáo già, nghĩa là đã có những người theo đạo Gia-tô-giáo từ một nghìn tám trăm năm mươi hai năm trước thằng con trai nhà Vanhtrax. - Phải đi ngược thời gian lên tới năm thứ nhất của công nguyên. Đi ngược thời gian! Bao giờ cũng đi ngược thời gian! Từ hồi ở nhà trường tôi toàn phải đi ngược thời gian – cuối cùng cũng đâm mệt! Những con ngựa kéo xe hàng còn may mắn hơn tôi; chúng không phải leo ngược dốc liên miên!
Cuốn Natsê đỡ “cao” hơn, đỡ phải ngược dốc hơn. Nhưng tôi cũng không cần biết người ta sống trong rừng hoang như thế nào. Tôi cần những thanh củi nhỏ hơn là những cánh rừng lớn. Hai xu củi thanh, đó là tất cả cái tôi cần để sống một tuần lễ ở Pari! Và tôi kiếm được cái đó ở hàng bán than đầu phố.
- Anh đọc xong Satôbriăng rồi à? Bác thủ thư bao che cho tôi hỏi.
- Vâng. – Bác bắt gặp tôi đang sắp bắt đầu ngủ!
- Anh không muốn đọc lại à?
- Để sau này.
- Giờ tôi khuyên anh nên đọc Macmôngten.
Người Anhca! Người Mêlê-Caxich! Nhưng tôi ưa những người mọi ở hội chợ hơn, nhưng tôi thích xem ăn gà sống cả lông hơn, chứ Goatimôzanh[43] làm tôi chán ngấy! Goatimôzanh đối với tôi chẳng là cái gì cả. Người ta muốn tôi khóc cho số phận của Goatimôzanh! Nhưng này anh, anh có thấy những đại bác hồi Đảo chính, những người bị tàn sát ở phố Môngnactrơ, đứa bé ở phố Ticơton không… Mặt trời nóng bỏng của xứ Anhca! Tôi thì tôi đã trông thấy bầu trời giá lạnh ngày mồng 2 tháng chạp!)
Chú thích:
40] Burnouf (1775-1844): nhà ngôn ngữ học và giáo sư, tác giả của hai cuốn Phương pháp học tiếng hy-lạp và Phương pháp học tiếng la-tinh rất được hoan nghênh.
[41] Conciones latinae (Những bài hịch la-tinh): cuốn sách nổi tiếng dùng cho các học sinh tu-từ-học, tuyển văn của những sử gia La-mã chủ yếu như: Titơ-Livơ, Xaluyxtơ, Taxitơ và Canhtơ Quyêcxcơ.
[42] Thủ tục xử tội sơ sài ở Mỹ; đám đông bắt kẻ có tội rồi xử luôn và hành hình ngay tại chỗ.
[43] Hoàng đế cuối cùng của dân Aztecơ đã anh dũng chống bọn xâm lược Tây-ban-nha, bị bắt năm 1522, bị tra tấn bằng lửa, rồi cuối cùng bị treo cổ. Người Anhca hoặc cuộc Tàn phá đế cuốc Pêru, thơ bằng văn xuôi của Macmôngten, nói về việc Pizarơ xâm chiếm vương quốc Quyzô.