- XV - LƠGRĂNG
Bất đồ tôi gặp Lơgrăng (Legrand)![44]
Ở trường trung học, Lơgrăng(Legrand) học dưới tôi một lớp và chúng tôi gặp nhau tại sân trường thôi; nhưng anh đã chú ý tới tôi vì cái vẻ bực bội của tôi, suốt đời bực bội.
Còn tôi, tôi đã chú ý thấy là anh ta cao lớn như một võ quan, là anh cũng như tôi – nếu không phải hơn tôi – coi khinh hoàn toàn và có ý thức nhất đối với những môn dịch xuôi, dịch ngược, thơ la-tinh, tiếng hy-lạp, triết học.
Ô thế đấy! Coi khinh hẳn hoi!
Anh không bao giờ học bài, không bao giờ làm bài, có hỏi anh chuyện đó thì anh đáp lại chẳng phải bằng chửi rủa, chẳng phải bằng nói dối; anh đáp lại bằng ngái ngủ và ngơ ngác…
Suốt bảy năm trời, khi người ta bảo anh đọc bài hoặc người ta ngạc nhiên thấy anh không bao giờ làm bài. Lơgrăng (Legrand) vừa trả lời vừa dụi mắt và có vẻ bị tóm lúc vừa ngủ dậy.
Khi người ta gặng hỏi, khi bị phạt, và giáo sư nhất định đòi anh phải nói rõ… khi ấy người ta chứng kiến một cảnh tượng thật thảm hại… cảnh Lơgrăng đứng dậy và nhìn về phía bàn thày giáo, mắt lờ đờ, mồm há hốc, tưởng như ở đấy đang xảy ra chuyện gì lạ, mà anh có lẽ rất muốn hiểu, nhưng anh chỉ thốt ra những tiếng ú ớ: không có cách moi được điều gì khác!
Anh không có vẻ nhạo báng cũng như hung tợn – Không! Anh rất muốn giúp đỡ người khác khi nào có thể, nhưng bằng những cử chỉ chẳng ra đâu vào đâu anh tỏ ra rằng anh không chủ tâm vào chuyện trò và thà cho anh vào một trại người điếc hoặc những người ngớ ngẩn còn hơn là học hành.
Mặc dù thế anh vẫn học được theo cách đó; bị đuổi ra khỏi lớp, chứ chẳng ra khỏi trường.
Người ta thương hại anh.
“Đi ra! Cút!”
Anh không nhúc nhích; hoặc giả người ta nắm vai anh đẩy ra ngoài thì anh thản nhiên ra ngồi ngoài sân giữa hàng cột: mùa đông anh thường vào chỗ nào có lửa sưởi, - và nhà bác gác cổng, bác không thể đuổi anh được, vì Lơgrăng co người lại, và bấy giờ thì anh nặng quá.
Anh còn vào cả lớp toán đặc biệt[45] hoặc toán sơ cấp, ở đấy bao giờ cũng chỉ có bảy tám học sinh như trong gia đình với giáo sư; người ta để mặc Lơgrăng ngồi cạnh lò sưởi như một ông già.
Tôi hết sức khâm phục anh.
Sự nhẫn nại ấy và giản dị hết sức ấy! – Chỉ việc dụi mắt ớ! ớ! Và bằng cách ấy thoát được món hy-lạp hoặc món la-tinh! Sao tôi không nghĩ ra cái ý ấy! Tôi sẽ bị coi là một thằng ngớ ngẩn; nhưng tôi chẳng thấy có lợi gì lớn khi được coi là có nhiều khả năng.
Người ta không chào tôi ở ngoài phố vì khả năng của tôi, và tôi vẫn bị đét đít thế thôi khi còn bé.
“Nhưng làm sao cậu lại nghĩ ra được cách ấy? Một hôm tôi hỏi anh với niềm kính trọng như đối với nhà sáng chế và với sự tò mò thường xen vào việc nghiên cứu một phát minh mới mẻ.
- Để tớ kể cho cậu nghe. Tớ quen thằng Janê thường sắm những vai ngố trên sân khấu. Tớ cũng muốn làm diễn viên và sắm vai ngố… Đấy tớ nảy ra ý ấy như thế. Lúc đầu tớ cũng không chủ tâm làm thế đâu, nói thật đấy.
- À, cậu muốn trở thành diễn viên!”
Đáng lý tôi phải đoán ra được. Lúc nào Lơgrăng cũng vận áo gi-lê có ve, áo vét nhung, quần kẻ ô; lúc nào không bắt buộc phải làm ra vẻ ngơ ngác, anh đi như tôi thấy người ta đi trên sân khấu; anh hất tóc ngược về đàng sau.
Anh có một cái ba-toong.
Chắc hẳn anh là người độc nhất trong tất cả các trường trung học nước Pháp! Anh có một cái ba-toong mỗi tuần thuê mất hai xu: hai xu cho người vá giầy cũ ở trước cửa trường để họ giữ nó hộ anh trong lúc anh vào lớp.
(Anh đã dẫn tôi về nhà anh.
Gia đình anh quả là ngộ nhất, có thể thấy được – và tôi hiểu tại sao anh lại thích sân khấu.
Nhà anh là một tấn hài kịch.
Chỉ nghe thấy những tiếng la thét, những tiếng rên rỉ và tiếng gọi Trời. Ở đấy người ta uống mỗi ngày ba chục tách cà-phê, nó khiến mọi người ở trong tình trạng kích thích khôn tả.
Mẹ anh và chị gái anh – hai con người rất tốt – hiện thân của lòng tận tụy và của đức hạnh – tin ở Chúa lòng lành một cách ồn ào. Lúc nào họ cũng kêu Chúa, khi đun nước, khi đổ bã cà-phê, khi rót cà-phê vào tách! Một đôi khi người ta tưởng họ gọi người hầu gái. Thỉnh thoảng chính tôi cũng bị lầm! – Ông Jăc, thêm một chút nữa! – Ôi! Hãy rót cho chúng tôi! – Tôi không hiểu rõ người ta hỏi xin tôi một tách mà phải có lệ trong giọng nói và mắt ngước nhìn chòng chọc trần nhà! – Hãy rót cho chúng tôi niềm an ủi[46]!
- Như ở xứ Nócmăngđi ấy à? – Tôi liền đi tìm rượu mạnh! Nhưng ở đấy là họ nói với Chúa lòng lành – và họ gạt cút rượu ra với một cử chỉ thành kính!
- Hãy cho chúng tôi đường? Tôi không để mắc lầm lần nữa. Một lần là đủ rồi. – Ông Jăc, thế ông không cho chúng tôi đường à? Thế ra họ muốn lấy đường thật.
- Hãy ban phước cho chúng tôi, ban phước cho chúng tôi. Xin, hãy ban phước cho chúng tôi. Nói với tôi, hãy nói với Chúa?
Họ đang ở ngoài sân và trời tối nhìn không rõ lắm. Họ có vẻ đúng là quay về phía tôi để tôi ban phước cho họ. Có nên làm cử chỉ ban phước cho họ không? Ban phước thì làm như thế nào? – Không được đậm như lần trước! – Thì ra họ nói về cà-phê!
Mỗi lần người hầu gái đi đâu về thì cứ như thể bà Tu sĩ đẫm máu xuất hiện vậy – mỗi lần có ai gõ cửa thì tưởng như ma hiện về… Bao nhiêu cà-phê người ta uống đã làm cho cân não cả nhà nhạy cảm đến tột độ; một tiếng chuông réo, tiếng gà gáy, tiếng mèo kêu meo meo, một cái tủ kêu răng rắc, một con bọ hung đập vào cửa kính, động một tí là một tiếng thốt lên kêu trời, - trời mà họ trông thấy rất ít, không nhiều! Quả thật, ở đàng sau nhà tối quá, những con người mộ đạo đến thế đáng lẽ phải ở đàng trước – không phải ở tầng dưới cùng – hoặc ở hẳn tầng thượng cùng có cửa kính trổ ở mái. Khi họ nói: “Chúng con kêu lên tới Người, Chúa nhìn thấu hết thảy!” để tin rằng Chúa nhìn thấy họ ở tận trong ấy, phải cho rằng mắt Chúa rất tinh.
Ông bố có lẽ cũng tin ở Chúa nhưng ông ít trò chuyện với Người hơn, và không phải lúc nào ông cũng giật tay áo Chúa để nói chuyện với Người.
Cái chuyên môn của ông là chi tiền nuôi gia đình ít hết sức. Ông cho rằng cà-phê bồi dưỡng ghê gớm và ông keo kiệt về món thịt. Ông còn cho rằng Chúa không cần nhìn vào cách ăn vận và quả là ông bủn xỉn về mặt quần áo.
Nhưng, về bản chất, ông cũng tốt bụng như bà vợ và cô con gái, và tôi sống với họ như trong một gia đình mới.
Dù sao tôi cũng đi đến chỗ đoán ra được lúc nào họ nói với tôi, lúc nào họ nói với Trời. Tôi không còn tưởng lầm là có tai họa gì xảy ra khi họ hỏi tôi giờ giấc với một vẻ đau khổ não nuột và với giọng nói như xé ruột xé gan! Tôi biết rằng chỉ một lát sau họ sẽ nói: “Chắc lão Pinô bán thực phẩm lại trộn lẫn hạt cải đắng vào rồi!” hoặc “Hay ta mua một quả dưa để tối ăn!” Họ sẽ nói những câu đó với giọng của một giáo sĩ đang cầu Chúa cho bọn mọi sớm ăn thịt mình để sớm được lên thiên đàng.
Nhưng người ta vẫn có dưa ngon và người ta đã tẩy chay đích đáng lão Pinô vì lão vẫn tiếp tục cho hạt cải đắng vào cà-phê)
Tôi với Lơgrăng rất hợp nhau. Anh cũng ít nhiều theo đạo gia-tô, nhưng mặc dầu vậy con người anh vẫn như một ngọn cây tươi tốt, tự do và khỏe mạnh, nó không cự tuyệt cây rau cải đắng hoài nghi mọc ở bên cạnh anh, trong con người tôi.
Chúng tôi cãi nhau, cái đó thật rõ – nhất định là có những sự hiểu lầm – nhưng cả hai chúng tôi đều cảm thấy rõ rằng chúng tôi phải trả thù vì mang tiếng lố bịch và chúng tôi cần được dãn người ra hơn kẻ khác vì chúng tôi đã bị bóp nghẹt nhiều: anh ta thì bị giữa những trang kinh Thánh; còn tôi thì bị giữa cuốn tự vị la-tinh – Pháp của thầy tôi và nền giáo dục quê mùa của mẹ tôi!
Do đó, chúng tôi thả sức phóng túng! Quả thật, nỗi đau khổ nặng nề và tồi tệ của tôi, nỗi đau khổ có hơi hướng con sông đào đầy rác vỏ và cái phố dân nghèo; có cả hơi hướng phấn sáp bọn gái chơi của thủy thủ và rượu mạnh của những quán rượu tồi tàn; nỗi đau khổ hôm qua của tôi bây giờ đã biến thành một cơn sốt không còn mồ hôi bẩn và đen đến thế!
Chúng tôi tới gây sự trong các tiệm cà-phê. Đó là công việc của chúng tôi, của tôi và học trò của tôi – vì Lơgrăng là học trò của tôi. Với tư cách là bạn, tôi vào cái tầng cuối của gia đình, và uống lưng tách cà-phê đầu tiên; với tư cách ông giáo kèm học thi tú tài, tôi lưu lại đấy.
Tôi được coi như chuẩn bị cho Lơgrăng thi tú tài!
Tôi làm tốt việc gì có thể làm được – anh ta cũng vậy! Anh muốn thoát khỏi cái việc kiếm mảnh bằng ấy! Và tôi cố nhét cái món học tú tài ấy vào đầu anh bởi lẽ tôi thạo cái món đó hơn anh – tôi vốn được nuôi nấng trong chốn cấm cung, con giáo sư, con lừa tải thánh tích của những kỳ phát thưởng!
Tôi trả xuất cà-phê, phần dưa của tôi như vậy. Thầy mẹ tôi không nói gì cả, vì tôi không làm hạ giá những giờ phụ đạo bằng cách uống cà-phê và ăn dưa.
Tiệm cà-phê Môlie.
Chúng tôi tới tiệm cà phê Môlie.
Một tiệm cà-phê nổi tiếng, tiệm cà-phê của đám thanh niên giàu có. Tất cả những tay vong mạng của thành phố đều lui tới đấy. Những chàng trai đang phá tan gia sản.
Tôi không biết ở xứ này có cái giống người như thế.
Tôi đã không có những lúc mất tinh thần và tuyệt vọng sâu sắc đến thế nêu tôi biết từ trước đám người bất ổn và náo động ấy – những tay bốc rời, những kẻ giết ngựa, những tay bao gái, những kẻ ngổ ngáo, hiếu chiến và thách đấu.
Tôi không thể sống luôn luôn với hạng người đó – tôi không có của để tiêu sài – nhưng ở gần họ tôi thấp hơn.
Ở đây có tấn hài kịch của cảnh bần cùng đánh bóng bằng phấn bạc, với những trò ô uế ở dưới đáy, và có những hồi hộp của canh bạc trên thảm xanh ban đêm.
Trong những kẻ vui cười ấy, một số đã từng có ông bố bắn vỡ sọ tự tử sau hôm bị phá sản hoặc đêm trước ngày bị nhục! Có những kẻ bán thân sắp bị phá sản hoặc bị nhục, trước khi có được – như cha họ - cái khí lực của đấu tranh: bị nhục với bộ tóc vàng hung và bông hồng trên khuyết áo…
Nhưng tôi cảm thấy thoải mái ngay tức khắc trong tiệm cà-phê này, với loại người ấy. Họ chẳng có ý chế giễu một chiếc áo choàng hay mỏng – họ chẳng vui thú vì chuyện nhỏ nhặt như thế.
Những tay ăn chơi ấy khinh bỉ cái nghèo khổ chứ chẳng khinh người nghèo: tôi cảm thấy thế. Tối nào họ cũng kề ngay bên vực thẳm…, họ biết quá rõ cảnh phá sản đến nhanh biết mấy… bọn chủ nợ dễ dàng trở nên láo xược biết mấy!… Cho nên bộ quần áo của tôi không làm tôi ngượng nghịu. Có lẽ đấy là lần đầu tiên.
Ở tiệm cà-phê Môlie, người ta không để một cái tát kéo dài trên má.
Tôi đã thấy ngọn cỏ nhuộm đỏ, sáng hôm nọ.
Đó là người anh của một bạn học cũ của tôi đã đấu kiếm; chúng tôi được báo tin trước. Chúng tôi, đứng núp sau một khóm cây, nhìn thấy được hết.
Trong đầu tôi đã nảy ra những ý nghĩ điên rồ. Tôi muốn là người làm chứng của kẻ bị thương, nhặt gươm từ tay anh ta rớt xuống.
Tôi xấu hổ thấy mình sống như con nhái trong ao; tôi muốn thoát ra khỏi cảnh tối tăm và im lặng của tôi – vì hoạt động hay vì kiêu ngạo, tôi không biết!…
Lơgrăng thì cũng như tôi – còn tệ hơn nữa…
Anh là con người của sân khấu.
Tôi thực sự tin rằng anh thích mình bị thương hơn, để có một vai trò đẹp hơn, một màn hay hơn, để nắm cái chỗ mũi gươm đã thọc vào và để ngoẹo cái đầu như ta thường thấy trong những lúc hay ho nhất của các vở kịch gây cảm.
Anh muốn thế, anh thèm chết được, tôi tin chắc như vậy!
Tôi thì hèn hơn…
Nhưng tôi không hiểu được rằng người ta sợ một cuộc đấu gươm. Phải chăng vì tôi thấy đấy là dịp để được ngang hàng với một kẻ giàu có, thậm chí làm cho kẻ giàu có ấy đổ máu, đổ máu trầm trọng, nếu mũi gươm thọc vào sâu?…
Phải chăng vì tôi tưởng rằng người ta không thể giết được tôi? Tôi tự cảm thấy mình thừa sức lực! Chết ư, thôi đi! Tôi còn có việc làm trước khi chết!
Tự xét mình, tôi thấy rằng tôi có, không kém gì những tay ăn chơi kia, cái họ gọi là dũng khí của người quý tộc. Tôi sẽ không thiếu can trường ở trên bãi đấu.
Chà! Tôi tin chắc như thế! Đã có hai ba dịp để thi thố. Chúng tôi lăn xả vào, Lơgrăng và tôi.
Chúng tôi tới mức, ham đấm đá, hăm hở tóm lấy cơ hội. Tôi thấy như mình sẽ lớn lên khi cầm lưỡi thép tuyệt vời ấy, mình cũng sẽ nguôi lòng khi giết một người, một trong những kẻ coi những ai đứng dưới một lá cờ là ngu dại.
Chắc chắn chúng tôi sẽ đi tới một cuộc đấu gươm với bất cứ ai, nếu một hôm ông bố Lơgrăng không bảo với con trai:
- “Mày muốn đi Pari à? – Thì đấy, cho mày đi! Mỗi tháng tao sẽ gửi cho mày một trăm phơrăng.”
Lơgrăng muốn tôi đi cùng.
Tôi nói chuyện với thầy tôi, ông lại làm bộ mặt giá lạnh, cái điệu hăm dọa – cảnh sát ở đằng đầu kia. Tôi vẫn chưa đến tuổi thành niên!
Tôi đã chúc cho Lơgrăng may mắn, trao cho anh những thư giới thiệu với đám bạn tôi, rồi từ cửa sổ ngôi nhà buồn bã tôi nhìn theo làn khói lượn trên con tàu thủy; tôi nhìn về phía Pari, tái mặt, bực bội. – Tại sao người ta giữ tôi ở đây?
Cái đạo luật khốn kiếp: nó đặt thẳng con người dưới gót của bố cho tới năm hai mươi mốt tuổi![47]
Chú thích:
[44] Tên thực là Pupa-Đavin. Về sau viết kịch và làm chủ nhà in.
[45] Lớp học toán cao cấp để thi vào trường đại học lớn.
[46] Nguyên văn chữ consolation có thể hiểu theo hai nghĩa: niềm an ủi hay rượu mạnh.
[47] Luật ngày 20-6-1838 đã cho phép Luy Valex bắt giam con trai sau cuộc Đảo chính mồng 2 tháng Chạp.