- XIX - KÝ TÚC XÁ ĂNG-TÊ-TA (Entêtard)
Đúng vậy, phải kiếm sống cho Lơgrăng (Legrand) và cho bản thân tôi; tôi có trách nhiệm về sinh mạng; tựa hồ như tôi đã có con vậy.
Tôi tới nhà lão Fiêc-manh (Firmin), tay chuyên nghề tìm việc mà hồi xưa tôi đã tới gặp với Matutxanh (Matoussaint,), nhưng bây giờ, lúc đầu, lão không nhận ra được tôi – vì tôi đã có ria mép.
Tôi nói cho lão biết ý định làm nghề dạy học.
“Nhưng không phải múa! Khốn khổ cho anh, lúc này thì anh chẳng tìm được việc gì đâu.”
Phải tìm cho ra! Lơgrăng đói – tôi cũng đói…
Lão Fiêc-manh (Firmin) tiếp tục khuyên tôi đừng dạy học vào cái thời kỳ rất bất lợi trong một năm.
Lão không biết rằng Lơgrăng (Legrand) đã yêu và bây giờ chúng tôi phải gánh lấy sự trừng phạt, Tất cả bơ mặn đã nằm trong tay người quen biết, và bọn tôi đang thiếu bánh mì!
“Thôi được, anh đã nhất quyết như thế thì tôi sẽ tìm cho anh một việc gì vậy.”
Lão giở sổ ra.
- “Anh có muốn đi Acpajông( Arpajon) không?
- Tôi muốn không rời khỏi Pa-ri.
- Chà! Ai cũng thế cả… Pa-ri! Pa-ri!…”
Lão tiếp tục lật các trang sổ…
“Anh bạn thân mến ạ, không có gì ở Pa-ri – không có gì hết!… chỉ có một chỗ dạy cơm không ở phố Sô-pi-nel – tại gia đình Uy-gô-lin – chúng tôi gọi là Uy-gô-lin vì ở nhà ấy thì chết đói.
Tôi không thể nhận cơm không – vì cơm không thì tôi sống, mà Lơgrăng chết.
Bà Fi-êc-manh bàn góp vào.
- “Ông Fi-êc-manh này, ở chỗ người ta thổi còi ấy?
- Nhưng có lẽ ông Vanhtrax không muốn một chỗ người ta thổi còi?”
Tôi không hiểu họ nói chuyện gì. Nhưng sợ làm rắc rối thêm tình hình, tôi tuyên bố rằng trái lại, tôi rất thích chỗ đó. “Một chỗ người ta thổi còi chính là cái tôi vẫn mơ ước”. Rồi ta sẽ xem nó là cái gì! Trong khi chờ đợi, phải có cái ăn cho Lơgrăng; tôi không muốn thấy xác lạnh của anh trong giường tôi: đêm tôi sẽ không ngủ được.
“Thôi được! đây là thư viết cho ông Ăng-tê-ta, ở phố Va-nô. Anh được ăn bữa trưa ở chỗ dạy học và mười lăm phơrăng một tháng.”
Ăn trưa ở chỗ dạy học!… mười lăm phơrăng một tháng – vậy là mười xu một ngày. Ôi chao! Lạy Chúa! Tháng này có những ba mươi mốt ngày!…
Tôi cầm bức thư viết cho ông Ăng-tê-ta và tới phố Va-nô.
HỌC HIỆU ĂNG-TÊ-TA
Một cổng ra vào lớn với hai cánh.
Buồng người gác cổng ở bên tay trái.
Tôi bước vào – Bà gác cổng đang ninh món sách bò.
“Tôi muốn hỏi ông Ăng-tê-ta?”
Bà nhìn tôi từ đầu đến chân có vẻ nghi ngại và trùng trình chưa muốn trả lời. Cuối cùng bà tưởng như nhận được ra tôi.
- “À! anh đã tới vì chuyện quần đùi đấy phải không?
- Bà lầm rồi…
- Đúng, đúng, tôi nhận ra anh mà lại!
- Tôi cam đoan, thưa bà…
- Thế vì chuyện xúc-xích phỏng?”
Tôi cố giải thích mục đích cuộc thăm của tôi.
- “Tôi truyền bá học vấn…
- Thôi đi, thôi đi!” bà lắc đầu ra vẻ ranh mãnh.
Không có cách nào vào được. Bất khả!
Tôi thất vọng, lượn quanh trước cổng! Tôi tìm cách xem có thể trèo qua tường được không!…
Trong lúc lượn quanh, tôi thấy một ông to béo bước vào, và một phút sau, bà gác cổng bỏ ninh sách đi ra.
Người to béo kia là “ông” gác cổng. Có khi bác ta dễ tính hơn bà vợ.
Tôi lại quay vào buồng gác cổng và nói rất nhanh trường hợp của tôi, lần này tôi đưa tên người tìm việc ra trước.
“Tôi đến…”
Bác ngắt lời tôi, vẻ như đã biết chuyện:
- “Anh đến vì chuyện xúc-xích chứ gì?
- Không, một Sở tìm việc làm giới thiệu tôi đến để làm giáo sư. Ăn sáng ở chỗ dạy học và mười lăm phơrăng một tháng.
- À, à! Anh nói thật chứ?
Tôi cam đoan là mình nói thật.
- Thôi được! anh vào trong kia, chỗ cuối sân, về bên phải.
Chắc ông Ăng-tê-ta hoặc bà vợ có ở đấy. Anh sẽ trình bày việc của anh.”
Tôi đi qua sân – Sao mà im ắng vậy!…
Tôi như thoáng thấy một bóng người chạy trốn khi tôi đến gần. Hình như tôi nghe thấy nói: “Hắn đến vì chuyện mứt đấy!”
Tôi gõ cái cửa bác gác cổng đã chỉ cho tôi.
Tôi cứ vào thẳng – mặc kệ!
Hình như có một con mắt dán vào lỗ khóa – một con mắt thao láo, như mắt vẽ ở gáy các đồ sứ.
- À! thằng nhóc!
Người ta mở cửa cho thằng nhóc…
Tôi xông vào, và xin vừa đặt chân vào, tôi thét ngay tên ông tìm việc lên thật to:
- Ông Fi-êc-manh!…
Tôi thét to như người ta gọi số xe ngựa ở cửa một buổi vũ hội! Tôi thét to mà không nhằm nói với ai cả, đầu ngẩng cao, mắt nhắm lại để tỏ rằng tôi không phải là một tên mật thám và tôi không đến vì chuyện quần đùi, xúc-xích, hay chuyện mứt.
Tôi nhắc lại, mắt càng nhắm nghiền, như thể có xà phòng trong mắt:
- Ông Fi-êc-manh, ông Fi-êc-manh!
Một bàn tay nắm lấy tôi, và tôi cảm thấy người ta dẫn tôi vào một gian buồng nhỏ.
“Anh đừng kêu to quá như thế!…”
Tôi làm thế với ý định tốt thôi.
Cuối cùng tôi đã ở trước mặt ông Ăng-tê-ta, ông ta nhìn vào bức thư của lão Fi-êc-manh, và bảo tôi:
“Thưa ông, ông biết rõ các điều kiện rồi đấy, mười lăm phơrăng một tháng, ăn bữa sáng ở lớp học và ông cung cấp còi.
Tôi nghiêng mình – định bụng không ngạc nhiên vì bất cứ chuyện gì.
Ông Ăng-tê-ta lại nói thêm.
- “Một ý kiến! Ông có khái tính không?”
Tôi ngỡ ông ta ưa những người có bản chất kiêu kỳ, hăng hái.
- “Vâng, thưa ông, tôi khái tính.”
Tôi cố làm cho có một tia sáng trong mắt. Tôi ngửng đầu mặc dù chiếc cổ bằng giấy làm tôi rất khó chịu.
“Thế à! nếu ông khái tính thì thôi. Ở đây không dùng được những người khái tính.”
Tôi run cho Lơgrăng, lúc này tôi cầm tính mệnh anh trong tay!
- “Khái tính cũng có ba bẩy loại…”
Tôi đưa vào giọng nói những tiếng kêu cứu của người chết đuối!
- “Thôi được, xem ra ông không phải như thế - không quá mức cần thiết bao giờ cũng vậy. Mai ông đến đây vào bảy giờ sáng; nhớ mang còi đến…”
Còi to hay còi nhỏ? – tôi không rõ.
Gặp thứ nào tôi mua thứ ấy, bằng gỗ màu vàng, có vẽ hoa thổi cả ra lưỡi.
Bảy giờ sáng hôm sau tôi đến.
“Ông kéo chuông và thổi còi ba lần!” Bác gác cổng đã dặn tôi từ hôm trước.
Tôi tới nơi, kéo chuông và thổi còi! tôi có vẻ một tên tướng cướp.
Người ta mở cửa cho tôi. Tôi đến hơi sớm một chút.
“Không hại gì, bác gác cổng nói, để tôi mặc quần áo; ông ngồi đây.”
Bác mặc áo sơ-mi trần nói chuyện với tôi.
- Ông xem tôi như thế này đây, tôi làm gác cổng Học hiệu từ mười năm nay; suốt chín năm trước là một ông khác không phải ông Ăng-tê-ta cai quản cái tiệm này – Ông đó làm ra vàng, ông ạ! – Nhưng ông Ăng-tê-ta là một người vụng về đã mất khách, mang công mắc nợ ngay, và được đến đâu hay đến đấy!… Ông ta sa lầy đến nỗi phải mua chịu quần đùi để bán lại, và phải cho học trò ăn toàn xúc-xích Đức làm chúng xót cháy cả ruột. Ấy, bà nhà tôi biết hết!… Ông ta chưa trả tiền quần đùi, xúc-xích cũng chưa! Ông ta đã không trả, ông ấy sẽ không trả ai cả, không một ai hết! Ông ấy nợ cả Chúa lẫn quỷ sứ, nợ hàng quần đùi, hàng xúc-xích, hàng sữa và hàng cỏ khô…
- Cỏ khô?
- Cho con ngựa – có một con ngựa và một chiếc xe, ông không biết à? Buổi sáng người ta đánh xe đi đón học trò, chiều tối lại đưa học trò về nhà. Tôi làm gác cổng kiêm đánh xe. Vậy ra là ông sắp làm giáo sư kiêm bảo mẫu à?”
Quả nhiên tôi làm bảo mẫu, buổi sáng và buổi chiều. Còn suốt trong ngày tôi làm giáo sư.
Buổi trưa, tôi ăn bữa sáng tại chỗ, tức là trong lớp học.
Hôm đầu, niềm kinh ngạc của tôi thật sâu sắc, bao la. Người ta đem đến cho tôi ít mứt nho đựng trong một chiếc đĩa kê chén, với một khoanh bánh mì để ở cạnh đĩa.
Mứt là món đầu tiên ư?…
Món đầu và món cuối! Mứt nho, có vậy thôi…
Ngày thứ hai, khoai rán.
Ngày thứ ba, hạnh đào!
Ngày thứ tư, một quả trứng!…
Quả trứng này đã làm tôi lại sức – (cứ năm hôm, người ta lại cho tôi một quả trứng, để tôi khỏi chết).
May sao ổ bánh mì lại to – nhưng vợ chồng Ăng-tê-ta không trả tiền đều ông hàng bánh, nên ông này cung cấp cho họ thứ bánh mì có nhiều cứt gián.
Trường chỉ có những học sinh ở nửa ký túc xá, chúng đem theo làn đựng bữa trưa và đến trưa thì ăn tại lớp – một bữa ăn có mùi thịt thà ngon lành!
Tôi thì tôi nhai ngấu nghiến chiếc bánh mì của tôi với một giọt mứt đinh râu, hoặc với quả trứng làm giọng tôi trong ra. Giá tôi muốn làm ca sĩ giọng nam cao thì rất tốt; nhưng tôi không muốn làm ca sĩ.
Tôi cảm thấy như tôi đói hơn là không ăn gì.
Qua tám ngày, không ai còn nhận ra tôi nữa; quả là tôi đã được ăn lòng trắng trứng thật – và người ta bảo lòng trắng trứng rất bổ. – Nhưng lòng trắng của một quả trứng độc nhất trong bốn ngày, thật là quá ít đối với tôi.
Buổi tối, Lơgrăng với tôi tiêu chín xu cho bữa súp tối, chín xu!… Chúng tôi đã bán non tháng lương cho một lão cho vay nợ lãi, và lão đưa chúng tôi chín xu, để cuối tháng chúng tôi trả lão thành mười.
Chính là lão Tuy-êc-kê bán cá rán, chủ nhà tôi trọ, đã giới thiệu lão ta với chúng tôi. Chúng tôi rất muốn được trước cả mười ba phơrăng mười xu một lần. Như vậy chúng tôi sẽ dự trữ được thực phẩm; mua cả mớ rẻ hơn nhiều; mua xỉ rất tốn. Nhưng nhỡ tôi chết đi…
Lão chủ nợ chỉ dám liều xuất vốn ra dần dần thôi, tối nào tôi cũng buộc phải tới lĩnh tiền. Những hôm ăn trứng, mặt tôi khá tươi tỉnh và lão có vẻ yên tâm… nhưng những hôm ăn mứt nho, lão ta run…
Vậy là tôi đi xe ngựa đón và đưa lũ trẻ con tận nhà.
Tôi đã dùng hỏng mất một chiếc còi.
Nhiệm vụ của tôi là thổi còi trong sân các nhà, để báo đám phụ huynh.
Đây, tôi dẫn con trai ông về đây…
Tôi thổi còi. Trẻ con xuống xe.
Bà mẹ rửa ráy qua quít cho đứa bé… Bà ta chẳng phải chỉ có mình nó, phải không? Người ta đã quên những chăm sóc nhỏ nhặt!… Bà mẹ thường đứng ở cửa sổ réo tôi:
- Ông làm ơn hỉ mũi cho cháu hộ tôi!
Tôi cầm chiếc mũi nhỏ của lũ trẻ ngây thơ ấy trong chiếc mùi-soa và cố để khỏi làm chúng bị sây sát…
Nói chung đám trẻ không phàn nàn về tôi; một vài đứa còn chờ để tôi hỉ mũi cho, và thơ ngây giơ mặt ra cho tôi; nhiều đứa thích cách hỉ mũi của tôi hơn cách của mẹ chúng.
Bao giờ cũng có những kẻ bất công… một vài phụ huynh kêu lên:
- Đừng làm mạnh thế! Ông định dựt đứt mũi thằng A-đôn-phơ đấy à?
Không, tôi dùng mũi ấy làm quái gì!
Mặc dù một vài chuyện bội bạc ấy, tôi vẫn được mọi người quí, rất quí.
Người ta còn tỏ ra tin cẩn đối với tôi không như đối với tất cả mọi người.
Nhiều đứa trẻ đó còn nhỏ - nhỏ lắm – quần áo xẻ đũng như quần tôi hồi xưa, lạy Chúa!
- Ông ơi, ông nhét hộ áo sơ-mi vào cho cháu.
Tôi mới vào nghề nhà giáo, cuối cùng sẽ có một sự nghiệp đẹp đẽ, phải làm tròn mọi việc cần làm, và phải chú ý chiều lòng mọi người ở bước đầu!
Tôi nhét áo sơ-mi vào cho đứa bé.
Người ta có vẻ hài lòng – tôi khéo tay trong việc này, làm gọn, dường như có hoa tay, như người phụ nữ lấy ngón tay nhẹ nhàng uốn chiếc nơ hoặc miếng giấy cuộn tóc. Khi nào tôi làm thì người ta nhận ra ngay.
- Cái nhà ông Vanhtrax! (người ta đã biết tên tôi, việc đó đã làm tôi nổi danh), không ai bằng ông ta, ông ấy có cái cách, cái kiểu nói khéo… Nhất ông ấy đấy!…
Một đôi khi người ta xông xáo vào đón đầu ngựa: đấy là cánh Quần đùi. Một người thứ hai đâm bổ vào cửa xe: đấy là đám Xúc-xích, hung dữ, nóng nẩy, rướn mình hăm dọa và kêu đói!… Đám Quần đùi thì kêu rét.
Người ta gây sự với tôi, như thể chính tôi đã đặt mua xúc xích với quần đùi.
Cảnh đó kéo dài khá lâu.
Mọi người ngỡ là cướp đường, họ xúm lại… may thay cảnh sát tới can thiệp.
Tôi đã phải dẹp chính kiến lại, hạ cờ xuống, và tôi – một người cộng hòa – tôi đã phải cầu cứu một tên cảnh sát của Đế chế… Chẳng thà tôi phải hỉ mũi cho mười bốn đứa trẻ trên sân khấu, nhét mười bốn chiếc áo sơ-mi nhỏ vào quần ở hậu trường. Người ta không phải bao giờ cũng được làm những điều chính mình thích.
Khéo nhất là tôi.
Điều lạ, và tôi lấy làm hài lòng như một triết gia là tôi không vì thế mà kiêu; tôi vẫn giữ được nguyên cái tính khiêm tốn. Tôi lẳng lặng làm bổn phận của mình trong sân các nhà với chiếc còi, với chiếc mùi-soa… Và tôi sử dụng cái hoa tay của tôi, chẳng vì thế mà kiêu hãnh hơn và chẳng lung túng như vô khối người khác, những người miệng luôn luôn khoe khoang mà không bao giờ bắt tay vào việc.