- XIX -2 - Cuối tháng
Ngày cuối tháng đã đến. Tối nay tôi sẽ được lĩnh mười lăm phơrăng.
Niềm vui lành mạnh được nhận số tiền kiếm xứng đáng – tôi có thể nói kiếm xứng đáng, vì mười lăm phơrăng ấy biểu thị công sức của hai người – một công việc đàn ông và một công việc đàn bà: truyền bá học thức, nhét áo sơ-mi vào quần.
Sáng nay tôi không lơ là, mà cong làm bổn phận của mình quá đáng.
Không một chiếc mũi nào, không một vạt áo sơ-mi nào, có thể hếch lên để chê trách tôi được! Con người ta khi thuận với lương tâm thì thấy mình khỏe lắm.
Nhưng tôi đợi ông Ăng-tê-ta (Entêtard) mãi không thấy ông ta gọi; đã đến giờ lên xe rồi mà tôi vẫn không thấy mặt ông đâu.
Tôi đi mà không lĩnh lương.
Về tới nhà thật là kinh khủng.
Lão cho vay lãi đã ngồi đó: cả Tuy-êc-kê nữa. Ô! Chắc là hai lão này canh ti với nhau!
Tôi giải thích là người ta quên, có sự chậm trễ… và xin khất đến mai.
- Không được tiền thì đành nhận lời xuông vậy! Lão chủ nợ làu bàu.
Thứ năm, 5 giờ.
Không thấy ông Ăng-tê-ta (Entêtard)ló mặt ra!…
Dấu hiệu khác: hôm nay là ngày ăn trứng, tôi chỉ nhận được mứt nho. Đây là bữa mứt nho thứ ba trong tuần. Người ta muốn làm cho tôi kiệt sức.
Tôi rình qua cửa kính lớp học… từng khắc đồng hồ trôi qua, trôi qua… Ăng-tê-ta không về.
Lão chủ nợ sẽ nói sao?…
Tôi không dám về nhà, tôi đi xuôi bến tàu, dọc theo song Xen. Khi tôi về đến nhà thì đã nửa đêm. Tôi nghĩ là mọi người đã ngủ!… Lơgrăng không khéo đã chết…
Họ đã ngủ thật rồi, Lơgrăng vẫn còn sống; nhưng chỉ có Chúa người hằng trông thấy đầu anh qua lỗ cửa – chỉ có Chúa biết anh đã đau khổ đến chừng nào! Anh nói cho tôi biết những nỗi lo lắng của anh.
- Mỗi giờ như một thế kỷ, cậu thấy không!
Hôm nay đến lượt tôi nằm giường, nhưng tôi lại nằm thò ra cầu thang để người đầy tớ gái đánh thức tôi dậy sớm, bao giờ cô ta cũng cù vào chân chúng tôi khi xuống cầu thang.
6 giờ sáng.
Bầu trời còn nhợt nhạt, đêm vừa mới tàn. Tôi sắp sửa lên xuống thang gác thật êm đềm để lánh mặt lão Tuy-ếc-kê, trốn lão cho vay nợ lãi! Tối nay tôi sẽ có tiền, chứ sáng nay tôi biết trả lời họ ra sao?
Thứ sáu.
Cái ngày!
Tôi trông thấy Ăng-tê-ta. Tôi bước tới để nói chuyện với ông.
- “Bận lắm, lúc này bận lắm!”
Ông xua tôi đây đẩy…
- “Vậy chiều nay chứ?
- Ừ, ừ! Chiều nay!…” và ông biến mất.
Sáu giờ rồi! – Ăng-tê-ta đâu?
Bác đánh xe gọi tôi…
Làm sao bây giờ?
Tốt nhất là đừng để ông ta có cớ chậm tiền mình. Tôi đưa trẻ về nhà, rồi sẽ quay lại.
7 giờ.
Tôi đã đưa trẻ về nhà. Tôi vội vàng phóng trở về học hiệu.
Ăng-tê-ta đâu? Tôi gọi!
Tôi gọi như người ta gọi đứa trẻ lạc trong rừng trong các chuyện cổ tích của thầy tu Smit.
Tiếng vang đáp lại Tê-ta, chỉ có Tê-ta! Còn Ăng-tê-ta thì không thấy đến.
Nhưng chắc vợ ông ta phải có nhà.
Tôi thấy có ánh sáng lọt qua cửa sổ. Tôi liền tới gõ cửa sổ…
Không ai ra mở cửa cho tôi.
Gõ một lần, hai lần!
Tôi ẩy cửa vào. Mặc kệ! Phải trả tiền cho tôi.
Đèn đỏ.
Tôi đang ở Sở cẩm, bị buộc tôi là đã dùng vũ lực đột nhập nhà bà Ăng-tê-ta và đuổi theo bà ta vào tận phòng ngủ, nơi bà chạy vào để trốn tôi.
Bà đã đóng một cửa, hai cửa! Tôi đạp tung cửa; tôi hét lên: Mười lăm phơrăng! Mười lăm phơrăng!
Vừa chạy bà vừa cởi quần áo ra, tôi không hiểu tại sao.
Khi mọi người nghe tiếng bà kêu chạy đến thì trên người bà chỉ còn mỗi cái váy lót và một chiếc áo nịt nhỏ.
Vậy thì chúng tôi phải ra Sở cẩm.
Ông Ăng-tê-ta xuất hiện…
Ông chui ở đâu ra không biết, vẻ phiền muộn, và xông vào buồng riêng của viên cẩm. Người ta tránh không để ông đi gần tôi; người ta sợ xảy ra chuyện ô nhục và đau đớn.
Con “chó” của viên cẩm theo chân ông ta vào buồng nhưng lát sau con chó ấy quay ra, tới gần tôi, đặt một bên đít trên ghế dài và thì thầm bảo tôi, có vẻ thân thiện và hiểu biết:
“Anh có tiền không?
!!!!
- Vì rằng nếu anh có tiền thì chuyện này có thể thu xếp ổn thỏa được.
- Vậy là không thu xếp ổn thỏa được à?…”
Có tiếng nói lọt qua cửa:
- “Cho tên Vanhtrax vào.”
Tôi vào.
Viên cẩm ra hiệu bảo tôi ngồi rồi bắt đầu:
- “Anh bị bắt do đơn kiện của bà Ăng-tê-ta, bà ta đã phải chạy từ buồng nọ sang buồng kia để thoát khỏi trò quỷ ám của anh, cho tới lúc bà tìm được cách đóng sập cửa nhốt anh vào một căn phòng nhỏ. Cảnh sát đã tới tìm anh ở trong căn phòng ấy…
- Thưa ông…
Viên cẩm chưa nói xong, còn một câu nữa:
- Chúng tôi đã từng xử những kẻ bị tình dục lôi cuốn lăn xả và những người đàn bà lương thiện; nhưng nói chung họ chọn những người đàn bà đẹp. Bà Ăng-tê-ta thì lại xấu…
Tôi gật đầu tỏ ra hoàn toàn đồng ý.
- Bây giờ anh mới nói thế, viên cẩm vừa nói vừa gật gù… Nhưng còn một điểm cần làm cho sáng tỏ! Người ta đã nghe thấy anh kêu lên: “Mười lăm phơrăng, Mười lăm phơrăng!” Anh định cho mười lăm phơrăng hay định đòi mười lăm phơrăng? Ở đây chúng tôi chỉ cần sự việc thôi. Nếu bà Ăng-tê-ta vẫn có lệ cho anh mười lăm phơrăng vì các trò ái ân tội lỗi của anh, thì như vậy tốt cho anh hơn; trường hợp của anh sẽ đơn giản đi nhiều; anh sống bằng nghề mãi dâm, có vậy thôi; lời buộc tội sẽ giảm tính chất nghiêm trọng đi rất nhiều.”
Sống bằng nghề mãi dâm! – như ở phố Pac-sơ-mi-nơ-ri à! – Như vậy còn hơn, chính viên cẩm nói thế!
Ồ! Không thể được!
Tên tôi không còn là Vanhtrax nữa, mà là Lơ-xuy-êc-kơ (Lesurques) [64].
Tôi yêu cầu được phục hồi danh dự.
Tôi bắt đầu trình bày – “Chiếc còi, khăn mùi-soa, áo sơ-mi, món mứt nho!”
Trông cử chỉ nhét áo sơ-mi vào quần của tôi viên cẩm thấy rõ là tôi có thói quen làm đỏm hơn thói quen đĩ bợm.
Viên cẩm mỉm cười.
Tôi nói rõ hết!… Tôi vạch ra những quần đùi, tôi moi ra những xúc-xích, tôi chỉ rõ bằng những con số rằng tôi đã làm hết tháng vào ngày hôm kia. Tôi đưa ra những bằng chứng xác thực. Ông Fi-êc-manh, người tìm việc làm chứng rằng giá cả đã định là mười lăm phơrăng!
Đó là nguyên nhân tại sao tôi kêu: “Mười lăm phơrăng, mười lăm phơrăng!” chứ không phải là trả tiền để mua ân ái, cũng không phải đòi tiền về các trò ân ái do tôi cung cấp từ trước.
“Vì bằng thế thì tôi sẽ đòi đắt hơn, tôi mỉm cười.
- Hà! Thế là được giá đấy!… Nhưng đấy là vấn đề hai bên mặc cả với nhau.”
Viên cẩm nghĩ một lát và nói tiếp:
“Tôi tin là anh vô tội. Với những hạnh đào, khoai tây rán và mứt nho, tình dục của anh phải êm dịu hơn là hăng hái… Cứ bốn ngày anh được một quả trứng thật đấy, nếu anh khai đúng - và nếu anh chứng minh được rằng ba hôm nay anh chưa được ăn trứng - thì không một thầy thuốc nào sẽ kết luận là có mưu toan cưỡng dâm được.
- Đúng thế phải không ông?
- Thôi ta nên dập tắt việc này! Tôi chỉ khuyên anh là thôi, đừng đòi họ mười lăm phơrăng nữa.
- Nhưng, thưa ông, tôi không phải chỉ có một mình!
- Anh có vợ à, gay nhỉ!
- Không, nhưng tôi phải nuôi một đứa trẻ mồ côi.”
Tôi nói dối Lơgrăng là trẻ mồ côi - tôi hy vọng sẽ gợi được lòng thương! Nhưng rồi phải xí xóa chỗ mười lăm phơrăng; nếu tôi không xí xóa, vợ chồng Ăngtêla sẽ tiếp tục đi kiện!
Vậy là tôi đã bị một thắng dòng ăn mứt nho, nhét áo sơ-mi vào quần, hỉ mũi cho trẻ, và tối nay tôi sẽ còn bị lão cho vay nợ lãi gọi là thằng ăn cắp, và ngày mai sẽ bị lão Tuyêckê đuổi đi; và thế là đã hai ngày, Lơgrăng nhịn đói!…
Thậm chí anh mà chết tôi cũng chẳng thể chôn được!
Đó là bước đầu vào nghề dạy học của tôi!…
Lơgrăng không chịu đựng nổi cái họa đã đổ lên đầu chúng tôi, và anh viết một bức thư có mùi đuôi cá xin gia đình hãy giơ tay đón lấy anh. Vài tuần nữa, anh sẽ trở về ngã vào vòng tay ấy.
Tay đã dang khi ném cho anh số tiền đi đường.
Anh ra đi, hơi ốm yếu và có phần sướng điên lên vì nghĩ rằng ban đêm, anh sắp được ruỗi thẳng chân - Ruỗi thẳng chân!
Anh ra đi, rộng rãi để lại cho tôi một ít tiền để trang trải món cá rán.
Tôi trang trải và lại ra đi, như Paturô gầy còm, đi kiếm một địa vị xã hội.
Chú thích:
[64] Bị buộc tội đã giết chết người đánh xe thư ở Ly-ông ( Lyon) và bị xử tử nhưng sau xét ra thì Lơ-xuy-êc-kơ(Lesurques) vô tội (1763 – 1796).