- XX - BA BƠ BI BÔ BU (Ba be bi bo bu)
Tôi quay lại nhà ông Fiêcmanh, ông ta đi vắng; ông cưới con gái.
Tôi đến nhà ông Fiđen - một người tìm việc làm khác.
Ông Fiđen ở phố Xuygie, trong tầng nhà gần sát đất.
Không có ai để mở cửa cho khách. Ông chủ nhà không chịu bận mình ra mở cửa mà lại không có người ở gái hay đầy tớ để báo tin có khách. Cứ việc xoay quả đấm cửa rồi vào…
Một gian phòng đợi với những chiếc ghế gỗ mòn bởi mông đít của bọn người khốn khổ; đen - màu đen từ những đũng quần bôi mực thòi ra; bóng nhẫy vì đã dùng nhiều quá như những chiếc quần đùi; chân khập khễnh như chân những anh chàng đeo mã tiếng la-tinh - chân sỏ giầy thủng, lê bụng rỗng tới đây.
Buồng mờ tối, những chiếc rèm xanh đã bạc - người ta phải nín thở khi vào! Không khí im lặng như ở hành lang quận cảnh sát… buồng riêng viên cảnh sát trưởng - tôi biết lắm! - như ở hành lang ngồi chờ viên dự thẩm của nhân chứng hay người bị cáo…
Người ta nói chuyện thì thầm. Ông chủ bước ra. Mọi người im lặng - như ở trường học vậy.
Vậy mà, tất cả chúng tôi ở đây đều sức vóc đi lính được cả.
Tôi thấp thỏm chờ đến lượt mình!
Đối với lão Fiêcmanh thì thật là dễ chịu, tôi được ưu đãi, vì tôi đã đi cùng Matutxanh đến nhà lão. Nhưng Fiđen, ông tìm việc làm ở phố Xuygie, ông ta chưa bao giờ gặp tôi cả, và vẻ mặt ông chẳng niềm nở mấy, một bộ mặt vừa vàng vừa xanh với đôi kính lam và bộ ria đen bết vào da như ria giả để diễn kịch; tóc dài và phẳng, răng xún.
Tôi không hãi những người có bộ mặt dữ tợn; nhưng tôi lại run sợ trước tất cả những kẻ có bộ mặt hả hê. Chẳng thà tôi đứng trước nòng súng của Căngrôbe[65] hồi tháng Chạp.
Đến lượt tôi, ông Fiđen hỏi:
“Anh muốn gì? Anh đã dạy học bao giờ chưa? Lý lịch nghiệp vụ của anh ra sao? Anh có giấy chứng nhận gì không?”
Ông hỏi tôi, giọng cáu kỉnh, ông có vẻ đau lòng vì phải sống trên lưng những người nghèo khổ: ông cũng thấy họ thật ngu xuẩn nghĩ đến việc kiếm mẩu bánh mì mốc do ông tìm hộ!
Giấy chứng nhận của tôi ư? Tôi không có! Tôi không dám nói là tôi đã dạy ở chỗ Ăngtêta! Tôi không biết trả lời ra sao; tôi liền đưa ra mảnh bằng tú tài của tôi. Tôi viện thêm nghề nhiệp của cha tôi. Tôi sinh ra trong một gia đình Đại học.
“À! Thầy anh là giáo sư! Đáng lẽ anh nên ở lại trường của thầy anh, xin làm chân giám thị, còn hơn là thối rữa ra trong nghề dạy tư.”
Thế nhưng tôi không thể nói với ông rằng tôi ghét cái nghề giáo sư ấy, lại càng không thể nói rằng tôi không muốn tuyên thệ; ông sẽ tống cổ tôi ra cửa như một thằng ngốc hay một thằng điên, và ông làm vậy là phải…
Cuối cùng ông ném ra cho tôi, như một cái xương, lời đề nghị này:
“Ở trường ngoại trú phố Xanh-Rôc, có một chỗ từ tám giờ sáng tới bảy giờ tối. Nếu anh muốn bắt đầu ở đó để tập nghề?…
- Tôi rất muốn.”
Tôi khai tên tuổi và địa chỉ.
Tôi đi ra với một bức thư gửi cho ông Bơnoazê ở phố Xanh-Rôc. Khi vào phố đó, tôi va phải lão mù ăn xin ở nhà thờ, người béo múp, chân đi giầy vải lót lông, mình vận chiếc áo nịt bằng len thô, đôi môi bóng nhẫy vì món xúp béo vừa mới ăn xong, hơi thở còn vương mùi bắp cải thơm theo gió bay thoảng vào mũi tôi.
Lão mắng tôi là “đồ tàn tật”, và làu bàu đặt lại chiếc bảng con đeo trên ngực.
Tôi tới nhà ông Bơnoazê.
Ông đang cãi nhau với vợ; họ văng vào mặt nhau những tiếng còn xơi mới có trong ngữ pháp! Tôi làm ngăn trở cuộc đấu khẩu của họ, họ không nghe thấy tôi bước vào.
Tuy nhiên tôi đã gõ cửa, và tôi ngỡ người ta đã bảo: “Cứ vào!”
Ông Bơnoazê vươn thẳng người như con gà trống và hỏi tôi muốn gì.
Tôi đưa bức thư ra.
- Anh đã dạy học bao giờ chưa?…
Bao giờ cũng vẫn câu hỏi ấy! - mà bao giờ tôi cũng đáp:
- Chưa, tôi đỗ tú tài.
- Tôi không cần đến tú tài. Anh có biết dạy BA, BƠ, BI, BÔ, BU không? Anh đã bao giờ nói suốt ngày BA, BƠ, BI, BÔ, BU chưa? - BA, BƠ, BI, BÔ, BU suốt ngày?
Chưa, suốt ngày thì chưa! Mà là vào hồi tôi còn nhỏ. Nhưng bây giờ tôi cần kiếm miếng ăn và tôi ra hiệu là tôi đã nói BA, BƠ, BI, BÔ, BU rồi - BBA, BBƠ… nói những vần ấy, môi tôi cứ dính vào với nhau!…
Bà Bơnoazê (Benoizet) đã đội lại mũ ngay ngắn, nói chen vào.
Ông cứ thử xem sao, bà vừa nói với chồng, vừa nhìn tôi từ đầu đến chân, như thể bà nâng xem miếng thịt nặng bao nhiêu ở chợ.
Và người ta thử tôi.
Ba mươi phơrăng một tháng. Ăn uống thì tôi tự túc. Tôi được nửa tiếng tự do vào buổi trưa để ăn bữa trưa.
Không có xe ngựa như ở trường Ăngtêta, cũng không có chuồng ngựa; nhưng giá có chuồng ngựa thì hơn, mùi chuồng ngựa sẽ át được mùi lớp học! Ồ! Giá như có chuồng ngựa!
Tôi ngạt thở, muốn buồn nôn; không khí này làm tôi khó chịu!
Nhưng tôi cố lấy hết can đảm, và tôi làm cả tháng, đúng như một chiếc đồng hồ. Tôi đến sớm, về muộn.
Buổi tối, tôi khóc vì kinh tởm khi trở về căn buồng tồi tàn của tôi, nhưng tôi đã thề với mình là phải can đảm.
Đám học trò của tôi vào lứa từ sáu tuổi tới mười tuổi.
Tôi dạy một sô học Ba, Bơ, Bi, Bô, Bu. Còn một số, tôi cho tập viết gạch thẳng.
Thỉnh thoảng tôi mở cửa lớp ra, nhưng vợ chồng ông Bơnoazê chửi nhau ở ngoài hành lang, và phải mau đóng cửa lại.
Đối với những đứa lớn hơn thì tôi cho học: A dài trong pâte! và ngắn trong patte; U dài trong flute và ngắn trong butte[66].
Hôm nay là ngày 30… Ông Bơnoazê (Benoizet) gọi tôi.
- Thưa ông, đây là tiền lương của ông.
À! Ông này là người lương thiện!
- Ông cho tôi tờ biên lai!
Tôi viết biên lai cho ông.
Ông Bơnoazê cất tờ giấy đi và nói với tôi như sau:
“Tôi phải báo cho ông biết trước rằng mười lăm hôm nữa buộc lòng tôi phải để ông thôi việc. Từ nay tới đó, ông hãy tìm một công việc thích hợp với sở trường của ông, với tuổi ông. Chúng tôi cần những người không thấy kinh tởm vì mùi trẻ con, và không cần phải mở cửa ra để thở.
- Tôi có kinh tởm cái mùi ấy đâu.”
Tôi còn có vẻ như nói: “Trái lại!” Nhưng ông Bơnoazê (Benoizet) đã quyết định rồi.
“Ít nhất ông cũng cho tôi giấy chứng nhận chứ? Tôi rất xúc động hỏi.
- Tôi sẽ cho ông một tờ chứng nhận ghi rõ ông đi làm đúng giờ, chứ không nói là ông có khả năng - tôi có thể nói vậy được: ông không có khả năng - ông là hiện thân của sự thiếu khả năng nữa kia! Hơn thế, ông làm cho trẻ con sợ ông.”
Ông ta nói với tôi như nói với một người đã nói dối ông, đã đánh lừa ông về khả năng Ba, Bơ, Bi, Bô, Bu của mình. Như thế kể cũng được; thôi được! Nhưng còn làm trẻ con sợ!…
“Đúng vậy, ông làm cho chúng sợ. Ông có vẻ như không muốn chúng quấy rầy ông… Không bao giờ ông đùa nghịch cả! Ông chưa có bò bốn chân lấy một lần! Thôi thế là được! Ông đã được trả lương. Mười lăm hôm nữa ông sẽ từ giã chúng tôi - không ai biết, không ai hay, - Tôi rất hân hạnh được chào ông!…”
Ông bỏ tôi đứng đấy, định đi ra: nhưng vì căn bản ông không phải người xấu, nên ông nói thêm như để xin lỗi về sự thô bạo của mình:
“Đấy, không phải lỗi tự ông; đối với loại công việc này, thì ông già quá, có vậy thôi… già quá.”
Tôi thì vẫn muốn ở lại nơi đây, mặc dù cái mùi ấy!
Suốt trong tháng ấy, tôi chỉ có một lúc yếu đuối và thèm muốn thấp hèn: ấy là lúc tôi ngửi thấy mùi bắp cải trong hơi thở của lão mù.
KÝ TÚC XÁ
“Không được đâu, anh bạn ạ, - ông Fiêcmanh (Firmin) nói với tôi, khi ông đã trở về và tôi lại đến gặp ông, để một lần nữa đặt tương lai của tôi vào trong tay ông - anh bạn, với tấm bằng tú tài, anh sẽ không bao giờ tìm được một chân giáo sư trong một ký túc xá ở Pari!… Đối với ký túc xá dạy trẻ con thì thế là quá nhiều; nhưng đối với các học hiệu lớn thì thế là quá ít. Ở các học hiệu lớn, anh làm giám thị thì được, chứ không làm giáo sư được.
“Anh hãy nghe tôi, nếu anh muốn đi vào con đường ấy thì tốt nhất là làm như ông Fiđen đã bảo anh, quay về chỗ thầy anh, bắt đầu tại trường trung học của thầy anh… Anh lắc đầu, anh có vẻ như nói: “không bao giờ!”
Quả là tôi đã lắc đầu và tôi nói: “Không bao giờ!”
Tôi rất muốn đi làm công nhật, đi làm thuê như một con ngựa, nhưng tôi không muốn khoác cái áo giám thị. Tôi đã trông thấy thầy tôi khổ sở nhiều quá rồi. Tôi không muốn bị xích vào cái cảnh đọa đầy ấy. Ngủ ở buồng ngủ chung, chịu nhịn viên hiệu trưởng, đến lượt mình hành hạ đám học trò, để chúng khỏi hành hạ mình! Không.
Tôi cảm ơn ông Fiêcmanh; vả chăng tôi từ biệt ông ta với ý nghĩ rằng hoặc ông lầm, hoặc ông định đánh lừa tôi.
Tôi gõ cửa những nơi khác… Tôi sẽ tới Belaghê, Matxanh, Jôfrê, Bacbê hoặc Fava và tôi sẽ nói với họ:
- Tôi chỉ cần kiếm ba mươi phơrăng một tháng; tôi sẽ dạy cho các ông ba tiếng, hai tiếng một ngày để lấy ba mươi phơrăng - tôi giỏi tiếng la-tinh, rồi các ông xem! Hãy thử tôi, ra thử cho tôi làm một bài dịch, một diễn văn, một bài thơ…
Tôi bắt đầu từ Belaghê (Bellaguet.).
Ông ta điều khiển một ký túc xá lớn ở phố Pêpinie và đưa học sinh vào trường Bônapactơ (Bonaparte ). Tôi tự giới thiệu là cựu học sinh“Bônapactơ”.
ANH CÒN TRẺ QUÁ
Ông Bơnoazê (Benoizet) bảo là tôi già quá!
“Anh còn trẻ quá, ông Belaghê (Bellaguet) nhắc lại; phải tốt nghiệp Trường cao đẳng sư phạm mới được! Nếu lớn tuổi hơn, đã được mọi người biết tiếng, có người giới thiệu và tóc đã hoa râm, thì tôi chẳng từ chối!… Có những tay kỳ cựu kiếm được, không phải ba mươi phơrăng một tháng, mà là ba trăm, bốn trăm nữa có khi! Họ chẳng phải tú tài; nhưng họ có một phong cách mà ai cũng biết, người ta biết họ thành thạo môn bắt học trò nhai bài:
Đó là điều lão Fiêcmanh đã nói với tôi!
Tôi già quá đối với số người này, trẻ quá đối với số người khác.
Nghề dạy học tư đối với tôi bị cấm chỉ! Nhất thiết là phải bắt đầu từ cảnh ngục tù của nghề giám thị.
- Xin cám ơn ông.”
Ông Belaghê vừa tiễn chân tôi ra cửa, lễ phép, niềm nở, vừa nói khẽ rất buồn, như thể chính ông là một kẻ mang thương tật vì Trường Đại học, chán ngán vì xiềng xích của nó:
“Nếu anh có cách nào không phải đặt chân vào cảnh đọa đày này thì đừng đặt chân vào!”
Tôi sẽ không nản lòng; tôi chưa lùi bước!
Tôi đi khắp các ký túc xá, tôi xin làm với giá rẻ mạt: không nơi nào muốn nhận tôi cả.
Tôi không có giấy chứng nhận; - Trẻ quá hoặc già quá, nhất định như thế!
Cuối cùng, tôi tìm được một ông hiệu trưởng, xơ xác, ông bằng lòng thuê tôi với giá năm mươi phơrăng một tháng, một ngày dạy bốn tiếng.
Chính ngay ở phố Xanh-Jăc, ngay khu phố tôi.
Phải đến đấy, từ sáu giờ để chấm bài, rồi tối lại đến từ bảy tới tám giờ.
Sáu giờ sáng, không sao! Tôi được tự do gần hết cả ngày và gần hết cả buổi tối!
- Có điều là, ông hiệu trưởng nói, phải đợi tôi thải người mà anh sẽ thay thế đã: một ông giáo sư đã từ chối không chịu tuyên thệ hồi Tháng Chạp và sống bằng cách dạy tư ở đây và các nơi khác. Ông ấy lấy của tôi nhưng một trăm phơrăng, nhưng ông là người có danh tiếng, có học vị… ông ấy viết và có bằng thạc sĩ.
- Tên ông ấy là gì?…
Ông ta nói tên.
Một người cộng hòa có tiếng. Việc ông từ chối không tuyên thệ đã gây dư luận. Quả thật ông là người có danh tiếng.
Vậy ra tôi sắp thay thế ông ta!
- Thưa ông, ông cứ coi như tôi chưa nói gì. Tôi không muốn chiếm chỗ của ông ấy… Nếu ông ấy tự ý xin thôi, thì địa chỉ của tôi đây, ông viết thư cho tôi; chứ tôi không muốn cướp miếng bánh của ông ta.
Ông chủ ký túc xơ xác có vẻ ngạc nhiên và mếch lòng về quyết định và lời nói của tôi: tôi sẽ không có chỗ làm ở nhà ông ta, chắc chắn không bao giờ ông ta viết thư cho tôi.
Không sao!
Buổi tối, trong im lặng của căn phòng, tôi nghĩ lại chuyện đó.
Con người ta hèn nhát thật.
Tôi hầu như hối tiếc việc mình đã làm. Tôi có dịp để luyện tập, tôi sẽ lấy được một mảnh giấy chứng nhận, tôi được thừa thãi thì giờ, tôi có thể sắm quần áo và mua sách… Tôi đã đóng vai hào hiệp, ra điều ta đây; tôi sẽ không bao giờ có dịp may như thế nữa!
Đến đâu, khắp nơi, vẫn một câu trả lời.
- Không tốt nghiệp Đại học sư phạm, không có bằng cử nhân! Nếu làm giám thị thì chẳng phải nói… Mặc dù chúng tôi đã đủ người, và có đến mười người xin một chân đó. Tuy nhiên, vẫn có thể xét… bởi lẽ thầy anh là một giáo sư, và anh có vẻ yêu nghề dạy học!…
Tôi có vẻ yêu nghề dạy học? - Tôi căm ghét nó!
Các ông viện địa vị của thầy tôi? - Tôi xấu hổ về nó!
Những lời xin xỏ và những trò hèn nhát của tôi đều vô ích. Tôi chỉ tìm được những chỗ phải ngủ ở phòng ngủ chung! Chẳng thà tôi làm phu khuân vác ở Chợ!
Vả chăng tôi vẫn còn cầm cự được với số tiền bốn mươi phơrăng hàng tháng.
Giầy tôi đã long đế, quần áo xô chỉ…
Thôi được, tôi sẽ đi chân đất và mặc quần áo rách. Tôi không làm hại ai cả; tôi sẽ đi lang thang ngoài phố, không nhà ở, nếu tôi không có dũng cảm để bứt xén suất ăn và xà xẻo vào dạ dày để trả tiền một buồng trọ… nhưng tôi sẽ không làm giám thị và sẽ không ngủ ở phòng ngủ chung.
Ngủ giường của trường trung học sướng hơn, ngồi trong buồng học ấm hơn, ăn ba bữa một ngày. - Tôi ưng chết đói chết rét hơn.
Tôi chỉ dạy học nếu tôi có thể làm nhân viên của một ông hiệu trưởng mà không vận đồng phục và không tuyên thệ.
Tuyên thệ?
Người mà đáng lẽ tôi sẽ thế chân ở chỗ ông chủ ký túc xá xơ xác không phải là người duy nhất, sau khi từ chối không tuyên thệ trung thành với Napôlêông, đã tìm được việc làm ở các trường tư. Rất nhiều cửa đã mở ra trước tai họa và học vị của họ.
Nghề dạy tư thuộc về những người chiến bại ấy, và những cậu tú tầm tường, như Vanhtrax, thì chỉ có việc sống mốc meo ở các nhà Ăngtêta và Bơnoazê, để cuối tháng bị đuổi ra như đám tôi đòi!
Anh bạn ơi, hãy tiếp tục chạy chọt và lại leo cầu thang đen ngòm của các nhà tìm việc!…
Tôi đến tất cả các nơi đó.
Tôi làm vậy để khỏi áy náy với lương tâm, để có thể tự nhủ rằng mình đã không bị sa đọa trong cảnh bần cùng; chính vì vậy mà tôi còn đi tìm! Nhưng tôi chỉ mất thì giờ, mòn giầy, mòn lưỡi, nuôi những hy vọng ngu ngốc, những thất bại bẩn thỉu!
Giáo sư tự do! - Điều đó ở đâu cũng có nghĩa là: lớp học nhỏ hôi hám… bữa ăn với mứt nho, lũ chủ nợ làm ngăn trở buổi học… lương lậu bị từ chối, bị xén, bị quỵt!…
Có người bảo tôi: - “Rồi cũng quen đi, cuối cùng sẽ yêu cuộc sống ấy.”
Có thật thế không?…
Ô! Nếu vậy tôi sẽ không leo cầu thang nữa; tôi sẽ xóa tên tôi ở sổ các nhà tìm việc!
Thế là hết!… Tôi ưng tìm miếng ăn ở nẻo khác.
Đả đảo mứt nho! Đả đảo BA, BÔ, BI, BÔ, BU. - Đả đảo BA, BA, BU, BA!
Tôi đã đâm nói lắp mất tám ngày.
Chú thích:
[65] Tướng Pháp ủng hộ Napoléon trong cuộc đảo chính 2 - 12 - 1851.
[66] Tiếng Pháp, có a, u, dài và ngắn; không dịch được vì tiếng Việt Nam không có - ND