← Quay lại trang sách

- XXIII - ĐỜI SỐNG PHONG LƯU

Tôi đến nhà ông Cômông (Caumont) và thấy ông đang ngồi trong phòng khách với vợ.

Ông tiếp đón tôi như thể tôi có bốn chục nghìn phơrăng thực lợi. Đây là lần đầu tiên tôi được đón tiếp lịch sự và được người ta lễ phép với mình đến thế.

Ông làm tôi hầu như phát ngượng… Tôi tự nghĩ là cần phải thú thực với ông cảnh nghèo của mình.

- Ông Ơđen đã nói với ông là tôi chưa biết đích xác khi nào có thể trả tiền ông được…

Ông Cômông có vẻ hết sức kinh ngạc.

Tôi nhấn mạnh thêm. - Chà! Thế này thì hỏng!…

- Ông Vanhtrax!… Nếu ông còn nói chuyện tiền nong, chúng tôi sẽ giận đấy! Nào, chúng tôi may gì hầu ông nào?

- Một áo rơđanhgốt (redingote)…

Một áo rơđanhgốt?… Ông Cômông sửng sốt; bà Cômông cũng vậy. Hai người đưa mắt hỏi nhau.

Tôi sợ mình đã đi quá xa. - Lẽ ra nên yêu cầu một cái áo vét-lông ngắn.

Tôi cố vớt vát sự vụng về của mình và tôi làm những cử chỉ đưa xuống ngang hông; bàn tay tôi cưa ngang mông.

- Vạt áo may bé thôi. Tôi thích vạt ngắn.

Điều đó không đúng; tôi thích vạt dài. Cũng giống như chuyện đầu cá ở nhà lão Tuyêckê - những vạt ngắn đỡ tốn dạ và người ta dễ cho tôi may chịu hơn nếu là áo may như cho một thằng lùn.

Vợ chồng ông Cômông thốt lên một tiếng kêu, tưởng chừng như trút được một gánh nặng.

- Vậy là ông nói một áo jakét (jaquette) [69]! Chúng tôi cũng nghĩ thế… áo rơđanhgốt thì chỉ thích hợp với những người làm bàn giấy và các cụ già, còn đối với một thanh niên như ông!… Ông cần cái thứ như thế kia kia…

Họ chỉ cho tôi xem một chiếc áo vắt ở ghế và trông kiểu lịch sự! Cúc nhạt màu, lót bằng lụa màu hạt dẻ, sắc xám, một màu xám dịu và tươi như mọt thép…

Người ta đưa cho tôi chọn.

Da sờ mịn làm sao! Tôi tưởng như mình đang vuốt ve và đếm giấy bạc.

Tôi đóng vai chàng lõi đời, tôi nhấp nháy con mắt làm ra vẻ sành sỏi.

Cuối cùng, tôi chọn một loại vải rất sẫm màu, tôi ghét màu sẫm, nhưng tôi cho rằng như vậy có vẻ đứng đắn hơn và chọn những màu buồn bã thì tỏ ra có nhiều đảm bảo về khả năng thanh toán hơn. Tôi đã tiếc là đã không đeo kính biếc.

“Thế này, nhất định là ông muốn vào Viện hàn lâm rồi! Ông Cômông vừa nói vừa mỉm cười tế nhị. Nhưng vận thứ vải này thì phải tuổi trạc tứ tuần! Khác gì đo cho ông một cái áo quan!”

Tôi lầm mất rồi: “Vanhtrax, mày lầm rồi! Mày đến tong bộ cánh mất!”

(Tôi lao vào thứ lòe loẹt và chọn một loại vải chói mắt! Tôi chọn thứ vải ấy như những con chó làm xiếc dùng răng cắn một quân trong cỗ bài bày trên mặt đất, đuôi gắp vào giữa hai đùi, mắt liếc về phía ông chủ xem ông có hài lòng không. Tôi giống con Munitô[70], một con Munitô ở đường phố, biết là sẽ khốn đến thân nếu nhặt quân chín “rô” chứ không nhặt quân đầm “tép”. Nếu tôi lầm một lần nữa, tôi cũng sẽ bị khốn như thế. Ông Cômông nhìn thứ vải tôi chọn. Ông sẽ nói gì? Phải, phải! - nhưng thứ này cổ rồi. Bà vợ ông liếc mắt rồi cũng nói: cổ rồi. Tôi cũng làm theo họ và nói: cổ rồi. Tôi không hiểu - tôi không biết đấy là một danh từ hay động từ. Nhưng tôi không muốn tỏ vẻ dốt, mà cũng không muốn trái ý họ. Có lẽ thứ này hơi cổ quá rồi, họ nhắc lại. Ông thấy thế à? Tôi nói “ông thấy thế à” như một người đã tỏ ra táo bạo và không lấy thế làm xấu hổ, một người có ý kiến riêng, có sở thích, có can trường. Cuối cùng tôi chọn một thứ vải không cổ mà tôi không thích, nhưng bà Cômông lại có vẻ thích. Chính tôi ngại bà Cômông. Về khoản mua chịu, tôi thấy bao giờ cũng phải xem vẻ mặt của bà vợ trước. Loại vải này bà ta thích - hoặc giả còn một mảnh mà bà muốn tống đi. Bà đính một chiếc đanh ghim lên mẫu hàng. Vậy là xong, tôi sẽ có chiếc jakét ấy.

- Quần với gilê cũng như thế phải không?

- Đúng thế.

- Bây giờ tới áo bađờxuy! Tôi sợ lại bị “hố” với áo bađờxuy.)

Tôi từ chối không xem các mẫu hàng, tôi tuyên bố là mình không biết gì về mục ấy cả; tôi viện lẽ, như một người mệt mỏi, là mình chuyên sống ở trong nhà.

- Tôi sống trong sách vở, tôi không mấy khi rời khỏi sách vở. Ông chọn dùm tôi được không?

- Chúng tôi không bao giờ làm như vậy cả. Khách hàng về sau ắt sẽ không hài lòng…

- Tôi hiểu… nhưng nói thật mà… thói quen hay suy nghĩ… Thế đấy, hiện lúc này tôi đang nghĩ tới một phong tục La-mã…

“Vâng, những người làm việc bằng trí óc! Tôi biết.”

Vợ chồng ông Cômông có vẻ thương hại cho bộ óc của tôi, và quyết định làm một việc ngoại lệ cho tôi. Họ chọn cho tôi một chiếc bađờxuy.

(- Ông sẽ đến thử áo. Hay đem tới nhà ông?

Tới nhà tôi! Nhưng ở nhà tôi thì không có cách nào thử áo được! Phải ra ngoài cầu thang để xỏ bít-tất chứ ở trong nahf thì sẽ bị đụng đầu.

- Không, không, tôi sẽ đến. Để khỏi phiền ông.

Tuy nhiên rồi vẫn phải cho ông ta biết hiện tôi ở đâu. Quần áo may xong, tôi không thể bọ vải lót đem đi, như kiểu đem trả đồ gia công, đi còng lưng xuống như một thợ may. Ông ta chưa hỏi địa chỉ của tôi. Lúc này ông mới chỉ hỏi thói quen của tôi về may quần.

Tôi không có thói quen riêng nào cả. Trước kia tôi có thói quen của mẹ tôi; sau này tôi có thói quen mua quần may sẵn.)

“Về quần, ông thích may đũng thế nào?

Phải cùng màu!… Ôi chao! Phải cùng màu! Gần đây những chiếc quần của tôi màu ở đũng khác xa với màu ở bụng, ở ống quần!… Phải cùng màu! Tôi sẽ quỳ xuống xin cho nó được cùng màu!

Nhưng tiết kêu đó suýt buột khỏi miệng tôi, như một chiếc quần khá rộng đã có lần tôi suýt để tụt xuống tại một nhà kia, vì đang nói chuyện hăng tôi đã quên không đưa tay ra đàng sau giữ nó lại.

“Ông không nói gì về đũng quần à?

- À! Phải!?

Tôi làm ra vẻ người đang nghĩ ngợi tận đâu đâu. Tôi lắc đầu mệt mỏi.. Ông Cômông gặng:

“Ông có thích bó… vòng khóa cao?… hay vòng khóa thấp?…”

Tôi muốn vòng khóa đúng ngang bụng. Khi nào không có gì ăn, tôi sẽ xiết chặt thêm một nấc, hai nấc!…

“Vòng khóa ngang rốn, ông Cômông ạ.”

Sang chuyện áo jakét.

“- Áo jakét của ông thường thường hình thế nào?”

Nói chung hình cái bị: một mảnh giấy báo bọc quanh một xương đùi cừu, một mảnh tã cuốn quanh một bó gậy - cho đến nay áo bađờxuy của tôi hình thù như thế; nhưng tôi trả lời ông Cômông:

“Tôi không bao giờ để ý tới kiểu áo của tôi (với một nụ cười nghiêm trang và lắc đầu). - Vì tôi sống bằng lao động trí óc!”

Nói dối! Nói dối! Tôi chẳng sống bằng gì cả! Một ít xúc-xích hoặc một mẩu phó-mát Rocơfơ, chứ không phải sống bằng lao động trí óc, cũng không phải vùi đầu vào sách! Vả chăng đọc sách thì tôi chán ngay lập tức; sách hơi dầy một chút là cứ như có thanh sắt đè ngang dạ dày.

Ông Cômông đo người tôi, rồi mở một quyển sổ.

“Ông cho biết tên ông viết thế nào?… Vanhtrax không có h chứ?”

Tôi sợ làm ông phật ý; có lẽ ông ta sợ chữ h. Tôi đành chịu giả mạo vậy, - Tôi làm sai cả tên ông cha tôi!…

“Vâng, không có h.

- Địa chỉ?

- Khách sạn Brutxe (Broussais,), phố Địa Ngục (d’Enfer ), số 52.”

Tôi không ở khách sạn Brutxe, phố Địa Ngục, số 52, nhưng tôi không thể cho biết địa chỉ thật của tôi được. Tôi đưa ra địa chỉ của một người bạn thuê buồng ba mươi phơrăng một tháng. Ở nhà anh ta, thật như một lâu đài!

Đây là lần đầu tiên trong đời tôi giữ được bình tĩnh, tôi tìm ra ngay lập tức điều cần phải nói; lời nói dối làm tôi vững tâm.

Ông Cômông lại biết đúng ngôi nhà ấy!

“Ngôi nhà có pho tượng Thần Vườn tược trong sân ấy phải không?

- Phải…”

Tôi chưa bao giờ để ý tới pho tượng ấy - nói chung tôi không bao giờ để ý tới các pho tượng - nhưng tôi nói bừa: “Phải”, vì ông Cômông có vẻ thích ngôi nhà ấy.

“Ông Van-trax, ông thích nghệ thuật thì phải?

- Thích lắm.”

Ông ta đang chờ đợi một cái gì hơn thế, tôi thấy rõ như vậy. Tôi đáp như thể ông đã hỏi tôi về một món ăn, món củ cải đỏ, món phổi bê băm viên; tôi cảm thấy cần nói thêm, cần phát triển tư tưởng của tôi thêm đôi chút và tôi nhắc lại, vẻ hơi bốc:

“Tôi rất thích nghệ thuật!”

Tôi đã có quần áo…

Người ta còn tìm thêm cho tôi một ông hàng mũ và một người thợ giầy nữa. Cứ mỗi lần đặt hàng thêm, tôi lại rùng mình.

Tôi ngần ngừ không muốn mang công mắc nợ, nhưng các bạn cứ đẩy tôi vào chỗ đó.

“Bây giờ mày sống vất vưởng với khả năng của mày; khi nào mày đủ quần áo để có thể đến được tất cả mọi nơi, mày sẽ kiếm thừa tiền để trả nợ, và hơn nữa!”

Thế là tôi buông trôi, hơn nữa tôi rất nóng lòng được vận đồ da mịn và đi giầy da dê.

Ở nhà ông hàng giầy người ta khen chân tôi. Hình như chân tôi cũng không đến nỗi xấu xí lắm - trước đây tôi không hề biết.

Xưa nay tôi toàn xỏ bít tất của mẹ tôi, hoặc vớ gì xỏ nấy - sáu xu một đôi - bao giờ cũng phải gấp đầu bít-tất xuống dưới ngón chân hoặc gấp gót bít-tất lại như gấp khăn mặt, điều đó làm cho nhiều lần ở Ôđêông (Odéon) tôi đã bị mắng là thiếu can đảm, vì, sau khi đi hàng một trăm hăm bảy vòng tôi kêu là không đi được nữa.

Người ta mắng người khác là thiếu can đảm! Người ta không biết bít-tất của họ như thế nào, bàn tay người mẹ có mạng chồng mạng đụp kiến bít-tất mọc u bay sưng bườu ở trong giầy không!

May thay, quần áo lót của tôi thì bao giờ cũng sạch sẽ! Tôi gửi quần áo về cho mẹ tôi giặt, khâu vá xong gửi lại cho tôi. Không mất tiền chuyên chở, nhà có ông Truytsê và ông Ăngđrê ở Sở vận tải; nhưng quần áo lót ấy bao giờ cũng giống như da anh lính cựu, vá chằng và chịt và khâu vụng.

(Hôm tôi thử giầy, đã có tiếng kêu thốt lên vì thán phục. Tôi để nguyên chiếc giầy cũ ở bên chân kia một lúc để nhận xét vẻ khác nhau. Đấy là vẻ khác nhau giữa bàn chân voi với bàn chân nai, giữa chiếc chân cụt với chiếc móng nhọn.)

Cuối cùng, tôi đã được trang bị từ đầu đến chân: áo jakét vừa khớp người; chiếc quần lót một dải băng da đỏ đẹp bó sát lấy háng rất thoải mái trong làn dạ mềm.

Tôi đã cho xén râu thành mũi nhọn; chiếc ca-vát trễ quanh cổ màu da tươi; cổ tay áo làm bàn tay màu vỏ chanh của tôi, lấp loáng trắng như tờ giấy lụa, tôn vẻ đạp của một quả cam.

(- Anh có vẻ trai tráng lắm, anh biết không? Cô vợ một người bạn bảo tôi, có vẻ như một tên mọi thấy một ông cố đạo béo tốt, và liếm môi nói: “Tao sẽ ăn thịt mày.”)

Tôi ngẩng cao đầu.

Đây là lần đầu tiên tôi ngẩng cao đầu như vậy từ ngày làm “sinh viên”. Cho đến hôm nay, tôi không thể làm được. Muốn thế phải hơi bốc một chút. Bấy giờ tôi quên mất là mình phải giấu vết nhờn bẩn của chiếc ca-vát.

Niềm sung sướng lớn của tôi là bây giờ có thể nghĩ tới điều mình nói.

Tôi đã có thể suy nghĩ riêng được, khi ngồi một mình trong những gian phòng thuê mười phơrăng, trước các bức tường vây quanh sân! - nhưng tôi chưa bao giờ suy nghĩ được về những điều mình nói trước công chúng.

Trong khi nói, tôi phải nghĩ tới chiếc quần muốn tụt xuống, tới chiếc áo mà tôi cảm thấy đang bục, lại còn phải giấy những chỗ rách và những vết bẩn, áo trong không có cúc, đàng sau mông bị hở.

Luôn luôn phải ở thế giữ miệng! Từ nhỏ tôi đã phải canh gác lòng tự ái lâm nguy. Tôi thức khuya, tay cầm kéo, sợi chỉ vắt vai, cân để gần lọ mực, để bôi đen bít tất ở những chỗ giầy bị rách.

Tôi thoát khỏi cuộc sống thô kệch ấy được ít lâu khi từ Năngtơ trở lại đây, nhưng ngay hôm sau sự tự do của tôi đã bị hoen ố vì cảnh tượng ghê tởm của bọn mật thám Đế chế và sự o ép của công chúng - bây giờ trái tim và lỗ mũi đã quen với cảnh ấy rồi, người ta không còn ngửi thấy mùi hô hám đã thở hít bao nhiêu năm: thính giác đã quy thuận!

(Tôi bị nỗi đau đớn tới bóp nghẹn họng, như nỗi đau sau ngày tháng chạp lúc tôi vận bộ quần áo mới đầu tiên. Tôi vênh váo trong bộ quần áo và vươn thẳng người trên gót giầy cao. Tôi cứ để nguyên mũ trên đầu… như một tay đại quí tộc Tây-ban-nha.)

Tôi lại cảm thấy tự hào và tự do!

Tôi không còn thót bụng cũng như thu móng lại, tôi không lê chân nữa, tôi không còn ăn nói dè dặt, tôi không nuốt giận hoặc nhịn cười nữa. Tôi không còn bước đi dưới mái Ôđêông như đám tù cầm cố nối đuôi nhau đi dạo trong đáy những nhà giam bi thảm.

(Lần đầu tiên, tôi đi giữa đường phố với nguy cơ bị xe chẹt, tôi cứ đi. Tôi sẽ chẳng gây cho mình thói quen đó, nó rầy rà lắm, nhưng tôi đã phải men sát bờ tường lâu quá rồi. Tôi cần có cái cảm giác về lòng đường mà tôi mới biết gọi là. Ngày mai tôi sẽ lại đi trên vỉa hè, nơi người ta sẽ thấy đôi giầy của tôi bóng lộn; trong khi chờ đợi, tôi làm lóa mắt bà con tầng trên hầm vì ánh mũ loang loáng của tôi. Tôi diễu qua dưới tất cả những tầng trên hầm nào thấy có bóng người đứng ở cửa sổ.)

Tiệm nhảy Mỹ.

Chúng tôi đã vận quần áo đẹp đi diễu trên các đại lộ. Có một tiệm nhảy Mỹ ở gần phố Jufroay, thường mọi người kéo đến đó vào khoảng bốn giờ.

Những tay buôn chứng khoán, đeo những viên kim cương to như quả hạt dẻ, những tay ăn chơi, những người nổi tiếng, tới đó vây vo trước các cô hầu bàn xinh đẹp rót rượu ngọt màu cỏ, màu vàng và màu máu. Họ sai đổi giấy bạc để trả tiền rượu ápxanh.

Những cô gái ấy không ghét tôi thì phải.

“Trông anh chàng giống con tenơvờ”, cô Maria nói.

Tôi ngỡ cô chửi xỏ tôi; nhưng hình như không phải!…

Trước khi có bộ cánh Cômông, tôi có vẻ một con chó chăn cừu, một con chó của người mù, một con chó bẩn thỉu bị cắt cụt đuôi. - Một người ăn mặc lúi xùi cũng có vẻ ngu xuẩn như một con chó bị cắt cụt hẳn đuôi. Dạo ấy, tôi có vẻ mắc bệnh, người ta có lẽ phải cho tôi diêm sinh. Bây giờ thì tôi là chó tenơvờ, một con tenơvờ mỹ miều…

“Và chẳng ngu”, một vài người đế thêm, ám chỉ những lời chuyện trò táo tợn của tôi.

Chẳng ngu? - Nhưng, nếu ngày mai tôi lại vận chiếc rơđanhgôt rách lót, thắt chiếc ca-vát sờn rách và sâu kèn, xé chiếc quần phanh thây như Ravayăc[71]; nếu ngày mai tôi lại đi đôi bít-tất quá rộng trong đôi giầy thủng thì ngày mai tôi sẽ lại ngu xuẩn và xấu xí, - ngu như con lợn, và xấu như con khỉ!

Vậy các bạn không biết tôi có vẻ thế nào suốt trong bốn năm ư?

Hai ba thằng hợm thường chế giễu sau lưng tôi hoặc nói xấu khi tôi ăn vận tồi tàn, bây giờ tới vuốt ve bộ quần áo mới của tôi.

“Bỏ tay ra”! Tôi vừa rít lên vừa thổi khói thuốc vào mặt chúng.

Tôi đối đãi chúng như những con chó.

À! Chúng mày định làm lành với Vanhtrax: cái thằng Vanhtrax mà bây giờ người ta bảo có vẻ sang trọng riêng của nó! Muốn thế thì phải chịu nhận lời đả kích độc ác hoặc đón chờ những cái tát sẵn sàng.

Tôi chưa bao giờ muốn tàn nhẫn với một kẻ xấc xược. Bây giờ thì tôi muốn. Tôi có thể tát vào mặt một thằng đeo găng bằng đôi găng mới của tôi.

Tuy nhiên phẩm giá tôi sút kém đi từ khi có bộ quần áo ấy!

Tôi đã phải dối trá với những thói quen lương thiện thầm lặng, phải từ bỏ lòng kiên trì sống đạm bạc. Phải vĩnh biệt những quyết tâm anh hùng của mình.

Tôi đã có chỗ đau lòng vì cái đó.

Trước đây, một đôi khi tôi cảm thấy niềm kiêu hãnh tự thề với mình sẽ cứ ăn vận tồi tàn cho tới ngày giành được vận may: khi chết, tôi sẽ tự tuyên dương trong di chúc bằng cách kể lại chuyện đời tôi, và dùng những quần áo rách cuối cùng để quất những kẻ còn sống mà mang công mắc nợ vì may mặc - tôi, tôi không nợ gì hết, ngay cả đôi giầy tàng.

Phẩm giá tôi sa sút. Tôi đã phải đóng trò hề để có quần áo, giầy và mũ - một tấn trò mà tôi xấu hổ.

Những đôi giầy rách là giầy của tôi; tôi có thể ném giầy vào đầu bất cứ kẻ qua đường nào mà nói:

“Có lẽ mày cũng lương thiện đấy, nhưng mày không lương thiện hơn tao được.”

Đối với một kẻ bị phá sản, tôi có thể kêu lên:

“Tao tặng mày một mũi giầy.”

Tuy nhiên tôi tin là mình sẽ kiếm được tiền để trả nợ! Anh chàng Vanhtrax đang đà phất.

“Nó đã pha nước vào rượu vang[72], người này nói; nó đã vứt bỏ cái ngông tuổi trẻ, người kia nói; cái anh chàng ấy, tôi vẫn bảo nó có chỗ tốt! Một người thứ ba nói.”

Tôi đã không pha nước vào rượu, tôi đã pha rượu vào nước. Tôi sẽ không vứt bỏ tính ngông cuồng, tôi sẽ vứt bỏ những quần áo tã.

Lũ ngốc!

Ở chỗ nào tôi cũng đắt.

Tôi trở thành một vĩ nhân tại nhà ông Joly.

Bây giờ tôi có thể cúi xuống không nguy hiểm để chấm bài.

Có một bà mẹ, ba mươi tuổi, tóc vàng, cười trong như bạc, lúc nào cũng có một cái gì để chỉ cho tôi xem trong… vở của con trai bà, và bà cứ cúi xuồng tì đầu vú lên vai tôi…

Một buổi sáng, chiếc jakét hình như rất ăn với người tôi trong ánh sáng nửa mờ nửa tỏ của lớp học la-tinh - áo lót của bà tóc vàng long lanh và thơm như một bó hoa to! Bà đã mỉm cười vẽ lên góc quyển vở một cái đầu bù rất giống đầu tôi.

Môi chúng tôi đã gặp nhau…

Tối hôm nọ, bà đã giới thiệu tôi với ông chồng.

“Cháu được kèm thêm liệu có tiến bộ không? ông hỏi tôi.

- Tiến bộ nhiều.”

Tôi không nói tiếng “nhiều” này như đã nói nhiều với ông Cômông nhân câu chuyện tượng Thần vườn tược khi ông hỏi tôi có yên nghệ thuật hay không.

Tiếng nhiều này rất lôi cuốn và say sưa.

Ông Macten (Martel), người chồng, như đã trông thấy con mình đang dịch “Verin”[73] (điều này chắc sẽ rất có lợi cho việc giao dịch của ông ta, phải không?) và ông hỏi tôi giá cả. Hồi xưa, ắt tôi đã đáp: hai phơrăng một giờ, có khi hai mươi xu cũng nên, nếu đít tôi phải ngồi lên đanh ghim. Bây giờ tôi không ngồi lên đanh ghim nữa, mọi người nên biết thế! Và nên hiểu rõ điều đó, một lần thôi!

Tôi không phải ngồi lên đanh ghim nữa, cho nên tôi đòi năm phơrăng một giờ!

(“Năm phơrăng một giờ, đồng ý. Ông sẽ thu xếp với mẹ cháu về ngày giờ. Mời ông uống một cốc sâm banh nữa!

- Xin cám ơn ông! Mấy hôm nay tôi dự tiệc nhiều quá và cứ phải uống loại rượu Jăckétxông.

- Jăckétxông!” Tôi muốn tỏ vẻ có một nhãn hiệu rượu sở thích!

Tôi đã trông thấy chữ Jăckétxông trên một cổ chai bọc giấy bạc nên mới nói: uống loại rượu Jăckétxông!

Ông Macten nhìn tôi. Cái nhìn ấy tôi đủ hiểu. Tôi bị hố rồi, tôi thấy ngay lập tức.

“Ông nói Jăckétxông à, ông vừa nói vừa có vẻ nhìn xem chiếc jakét của tôi có phải đúng của hiệu Cô trồng vườn xinh đẹp không.

- Không phải Jăckétxông”. Tôi nói với ông giọng gay gắt, như một người có chuyện với một thằng ngu và đang chỉnh hắn về tội dại dột.

“Không phải Jăckétxông! Ông biết tiếng Ănglê không?

- Không!” Chà! Ông ta không biết tiếng Ănglê! Thế thì được!

“Tôi không nói Jăckétxông! Tôi nói Jăcxơn! Một nhãn hiệu Ănglê, loại thượng hảo hạng của nhà Uyliêm Jăcxơn.” Tôi không kéo dài chữ n, tôi không phải kẻ đọc Lo Bairơn là Bairơnn khi nói chuyện với một tay người Pháp, và không muốn lạm dụng.

“Xin lỗi ông. Tôi ngỡ ông nói Jăckétxông, loại nhãn hiệu hai phơrăng một chai, rượu lê của Sămpanbơ!

- A ha!” Tôi cười như một trò chơi chữ giữa các hầu tước ở Pom-đơ-panh; nhưng hú vía. Ăn vận tồi, tôi sẽ không tìm ra được Jăcxơn, và sẽ không cười kiểu cười hầu tước như thế, cố nhiên.

Tôi đứng dậy khỏi bàn ăn hơi ngà ngà say, nói theo kiểu bà mẹ Mutông, nhưng cái say của tôi là ở chỗ ngỡ mình dòng dõi quý tộc, và tôi gác chân lên ghế bành kể một câu chuyện về một ông cụ tổ của tôi đã không chịu chào nhà vua. Mặc dù vận quần áo sang và đang cơn say, tôi vẫn không quên tư tưởng cộng hòa của mình.

Một ông cụ tổ của tôi gặp một ông vua, nhưng sự thực cụ đã phải chào vua. Bởi vì chúng tôi thuộc một dòng quý tộc chuồng bò. Về đàng thầy tôi thì trước kia nuôi lợn, về đàng mẹ tôi thì chăn bò. Trên huy chương của chúng tôi có hình chân lợn đuôi bò bắt chéo, với một đầu bê làm nền.

Tôi dạy học tư với giá năm phơrăng một giờ).

Ông Cômông tuyên bố là tôi cần một bộ áo buổi sáng.

Tôi thường thấy buổi sáng trong múa balê và trong các kịch thơ thể hiện bằng màu vàng tươi hoặc màu lam nhạt. Thế thì tôi sẽ vận buổi sáng theo kiểu kịch thơ hay vũ kịch thần tiên chăng? Tôi sẽ có những giọt sương trên người chăng? Có chỗ nào tôi hé mở đón bình minh chăng?

Không. Tôi có một chiếc áo mà chính ông Cômông cũng phải mê, nó “buổi sáng” rất mực. Ôi chao! Sao mà nó “buổi sáng” làm vậy!

Ông Cômông còn nói thêm rằng đây là áo vận từ chín giờ sáng tới trưa - không trước chín giờ, không quá buổi trưa.

Tuy nhiên tôi vẫn mặc nó tới một giờ, có khi hai giờ! - Vì giờ dạy học của tôi kéo dài tới đó. - Dạy học ư? Nghĩa là chấm vở của đứa bé mà người ta xua đi chỗ khác…

Người ta hé mở một chiếc áo ngủ rộng, kẻ sọc xanh lam, viền đăng-ten nõn, và bó lấy một thân hình như pho tượng…

Chú thích:*

[69] Áo dài đến trên đầu gối.

[70] Chó làm xiếc trứ danh, biểu diễn ở Pari năm 1818 biết chơi đôminô, chơi bài, trả lời những câu hỏi đặt ra bằng nhiều thứ tiếng…

[71] Người giết vua Pháp Hăngri IV (1610) bị tội phanh thây ở Pari.

[72] Ngạn ngữ Pháp, ý nói bớt hung hăng, dịu đi.

[73] Toàn bộ những bài diễn văn của nhà hùng biện thời La Mã cổ Xixêrông chống lại chấp chính quan Verét.