← Quay lại trang sách

- XXVI - LÀM BÁO

“Vanhtrax, tại sao mày không làm báo?”

Tôi đã thử.

Tôi đã đạt được cái tôi hằng ao ước bấy lâu, đó là chân giữ bản thảo.

Người ta thấy tôi quá già, quá khỏe đối với cái nghề trẻ con ấy.

(Người ta chỉ cần một chú bé để lấy bản thảo và đọc cho người chữa bài, treo bản in thử, soát xem mình có để sót gì không, và xem bản in có đúng từng câu, từng chữ với bản thảo không.

Tôi buộc lòng phải giấu tuổi và người ta nhìn tôi như một hiện tượng.)

“Thế hắn không có nghề nào khác? Vậy chắc hắn nghèo, nghèo lắm?”

Vâng, tôi rất nghèo; vâng tôi không có nghề nào khác. Tôi xin được việc này là nhờ một thầy giám thị cũ ở Năngtơ, ông là bạn từ hồi nhỏ của viên chủ bút. Thầy có phần tự hào tỏ cho tôi thấy mình có thế lực, và cũng sung sướng (ông là một người tốt bụng) vì giúp chúng tôi kiếm được vài xu.

Tôi được ba mươi phơrăng một tháng, đấy là trị số của tôi! Trong nghề làm báo hay nghề dạy học, tôi đáng giá ba mươi phơrăng không hơn một xu.

Mẹ tôi đã có lý mắng tôi là đứa vụng về. Tôi làm nghề của tôi rất vụng. Tôi lẫn lộn bài vở, tôi làm lộn xộn những trang.

Tôi đọc nhanh quá – đôi khi chậm quá.

Người chữa bài là người xấu xí, rầu rĩ, một quả khô, coi tôi như anh tập việc kém cỏi.

Chẳng may tôi có giọng nói to, và thỉnh thoảng tôi lại buột ra những tiếng oang oang, như nện tôn, đột nhiên vang lên trong cái im lặng của nhà in.

Người ta quay lại, người ta cười, người ta kêu lên: “Đừng đọc to thế, ông giữ bản thảo!”

Rồi tôi lại hay đãng trí, bỏ sót không đọc cả từng đoạn câu một; thế là phải đọc lại; làm người chữa bài phát cáu, và nhà văn, đã bị tôi gán cho những câu văn ngớ ngẩn, nổi cơn thịnh nộ, buổi tối đến gắt ầm lên: “Nếu nó là thằng đần thì tống cổ nó đi!”

(Các biên tập viên thường qua lại, tôi muốn biết mặt, biết tên họ. Một người cao lớn, tóc đỏ hoe, trên má có vết, chân rất dài và mày tao với tất cả mọi người, đấy là Nađa[78], Và người này, cũng tóc đỏ hoe, nhưng béo tròn, thấp lùn, nước da như người Noocmăngđi, râu quai nón màu cát và mầu rượu vang xứ Angju xoẵn với nhau như vỏ hành, đó là Ghêrun[79], và nhiều người khác nữa!)

Cố nhiên là tôi không được việc.

Sau mười ba ngày người ta người ta đuổi tôi ra và thuê một thằng bé mười hai tuổi không có giọng kèn trômbon và không vặn sái cổ để nhìn tròng trọc vào các tác giả.

Tôi đã rất lố bịch với tính nhút nhát, với những cơn đỏ mặt, với giọng nói oang oang, với trò vặn sát cổ ấy, đến nỗi trong hai tháng trời tôi không dám qua phố Cốc – Hê rông. Bước đầu của tôi trong các nhà in hay như thế đó!

TẠI NHÀ 100.000 CHIẾC ÁO CHOÀNG

Tôi vừa gặp một chuyện may! Tôi có một quan thầy.

Đấy là viên quản lý nhà “100.000 chiếc áo choàng”: Cửa hàng may mặc lớn ở Năng tơ. Ông cắt áo cho một người bạn học cũ của tôi; người bạn này viết cho tôi:

“Cậu nên đến gặp ông Guya nhà “100.000 chiếc áo choàng”, ông hiện ở Pari để mua sắm, cậu sẽ gặp ông ta ở đường Hươu –to, ở cửa hiệu chính. Trước cửa có treo một chiếc áo choàng bằng sắt tây và những

áp-phích to. Ông có thể giúp ích cho cậu trong việc làm báo.”

Tôi tới đường Hươu-to.

Chiếc áo choàng sắt tây và những áp-phích to kia rồi.

Tôi lượn trước cửa hiệu, không dám bước vào.

Người ta xúm quanh tôi.

“Ông cần may áo… Có đủ loại thích hợp với mọi túi tiền…Cứ vào xem, chẳng mất gì…Ông cứ lấy quảng cáo của nhà hàng.”

Tôi quyết định nói mình tới hỏi ông Guya.

Ông Guya bước ra.

“Ông muốn gì?

- Anh bạn tôi là Lơroay, đã…

- A! được! Anh muốn viết, anh Lơroay đã bảo tôi thế!

- Đuynăng!…”

Ông gọi một người to béo, chân đi guốc, đầu đội chiếc cát két trùm kín tai và gáy.

“Đuy năng! Đây là một anh thanh niên muốn bôi đen lên giấy.

(“Để làm áp-phích à?

- Tôi không biết.

- Anh có thích viết áp-phích không? Anh có biết làm những cái như thế này không? Ông đưa tôi xem một tấm biển. Không. Tôi không biết làm những cái như thế. Thế tôi đã học hết các lớp để làm gì? Cái nhà ông kêu là Đuynăng thấy rõ những cử chỉ lo lắng của tôi).

- À! có lẽ để viết ký sự cho tờ Pierô?)

Pierô là tờ báo của nhà “100.000 chiếc áo choàng”.

Báo bán ở cửa các rạp hát. Báo vừa đăng chương trình các cuộc vui vừa đăng giá cả của cửa hiệu: Đại khai trương quần len mỏng! Thành công lớn của O. Mêlanhgơ![80]. Mười chín phơ răng một bộ com-lê! Tối mai, diễn lại vở Gax pa đô, người dân chài![81].

Có những bài tường thuật những buổi khai diễn, và những bài về sinh hoạt. Tất cả những bài về sinh hoạt ít nhất đều có một câu hỏi về hiệu Mười hai vạn chiếc áo choàng. Những bài tường thuật những tối khai diễn đều có những lời công kích ngầm đám thợ may- đo, họ đã mượn cớ lịch sự choàng trên lưng một số diễn viên những kiểu áo làm chướng mắt công chúng, làm ngang trở việc theo dõi vở kịch vì tiếng huýt sáo trước một kiểu áo kỳ quái hoặc một kiểu rơve áo quá quắt.

Người ta trao cho tôi viết một bài!

Tôi rất khó viết để bênh vực lỗi may sẵn ở cuối một cột! Nhưng rồi tôi cũng bênh vực nó, đồng thời tôi còn báo tin được một cuộc khai trương hàng. Trong bài ấy tôi phải phân tích một vở kịch của ông Anixê Buôc gioa.

Bài báo sẽ đăng vào hôm thứ năm.

Thứ năm, tôi dậy từ năm giờ sáng. Tôi tới ngồi trên một cái mốc, từ đó có thể nhìn tới góc ngôi nhà in tờ Pierô.

5 giờ, - 6 giờ, - 7 giờ, - 8 giờ!…

Tôi phát sốt. Cái mốc chắc phải nóng rực lên!

(- Thưa ông, tôi nói với một người có vẻ của nhà in, ông có biết người ta in tờ Pierô ở đâu không?

Ông ta không ở nhà in và ngỡ tôi gọi ông là Pierô. Hai bên suýt đánh nhau!)

Cuối cùng tờ Pierô đã ra. Tôi mua báo của người đầu tiên đem báo ra và tôi tìm.

- Chương trình …khai trương hàng, Quần, tiểu sử ông Hyaxanh, Quần áo vận ngày lễ thụ thánh thể đầu tiên! Kịch của ông Anixê Buôcgioa.

Một cột rưỡi, và ở dưới ký cái tên tôi mới lấy – tên mẹ tôi! Tôi muốn đặt bước đầu vào nghề của tôi dưới sự bảo trợ của mẹ và tôi đã dùng cái tên con gái của mẹ[82].

Nhưng người ta đã cắt xén tư tưởng của tôi, bài thiếu mất một câu!…

Câu thiếu ấy lại đúng là câu tôi thích nhất! Tôi viết bài báo chính vì câu đó – Đó là quả đấm ở cuối bài.

Tôi thuộc lòng câu đó; tôi đã gọt giũa nó công phu!

Tôi đã nằm xuống giường, trùm chăn lên mặt, nhắm mắt lại để nhìn thấy câu đó rõ hơn.

Tôi đã đưa ra bài học luân lý:

(Thường họ kết thúc như vậy, những kẻ đốt cháy con tầu của mình trước căn nhà bổ mẹ để lao mình vào đại dương của cuộc đời bão táp! Tôi đã trông thấy bao nhiêu người vấp vì họ đã muốn chụm chân nhẩy vượt qua trên trái tim của họ!)

Phải chăng ở tòa báo họ đã biết tôi chưa bao giờ trông thấy ai nhẩy vượt qua trên trái tim của mình? Hình ảnh những người đem con tầu của mình tới đốt trước cửa nhà, sau đó lại xuống tầu ra đi, phải chăng họ cho là táo bạo quá?

Họ là những nhà cổ điển chăng?…

Tôi cứ lan man trong những giả định!…

Ta sẽ biết khi nào tới lĩnh tiền.

Người ta bảo tôi:

“Thứ bảy thì anh tới két lĩnh tiền.”

Tôi có thể cho không bài báo. – Hầu hết những người mới vào nghề đều hy sinh trái quả đầu tiên của cảm hứng.

Tạp chí Hai thế giới không bao giờ trả tiền bài báo đầu tiên. Tờ Pierô thì lại trả. Nhưng có lẽ tôi là người đầu tiên được như thế từ ngày có tờ Pierô. Chắc tôi đã gây chấn động!…

Người ta đã bỏ câu viết về những con tầu và chụm chân. Đó không phải là lý do để họ không chú ý tới nó, và rất có thể họ định ràng buộc tôi với họ, nên họ mới hy sinh tiền nong như thế.

Tôi không thể từ chối số tiền đó! Vả lại tôi sẽ dùng nó để trả tiền vá quần áo cho một hàng thợ may nhỏ.

Tuy nhiên tôi không muốn có vẻ vội vã tỏ ra bước vào nghề văn chương để làm giầu.

Thứ bảy – ngày đã định – tôi đi quanh một chút trước khi tới lĩnh tiền bài báo.

Cũng không nên để họ chờ mình lâu quá!

Tôi bước vào buồng giấy.

Buồng giấy là một cái hang nhỏ tối om, ở bên cạnh chỗ người ta để những hàng cũ ế.

Tôi hỏi ông chủ bút, người đi guốc và đội mũ trùm tai.

“Ông Đuynăng Mútxơ?

- Ông ấy không có đây, một người trả lời tôi, nhưng ông ấy nhờ tôi đưa ông tiền bài báo.”

Người đó đưa ra cho tôi một gói có dây buộc.

Trả bằng giấy bạc à? – Thế thì nhiều quá! quả là nhiều quá, một gói to như thế cho một bài báo có hai cột. – Thôi được!

“Nhưng tôi quên, ông Đuynăng Mutxơ có để lại cho ông một bức thư!”

Ta hãy đọc bức thư:

Thưa ông,

Người thư ký tòa soạn sẽ đưa ông tiền nhuận bút về bài báo. Kèm theo đây là chiếc vét-tông ngắn. Tôi muốn làm hơn thế; nhưng điều kiện của chúng tôi không cho phép. Người ta đã định chỉ tặng cho ông một chiếc áo gilê nhỏ. Tôi đã phải vất vả lắm để cho ông được chiếc vét-tông. Nhưng ông cứ làm việc đi, ông ạ, cứ làm việc! và chắc chắn chẳng bao lâu ông sẽ lên tới chiếc áo bađờxuy mùa hè, thậm chí cả chiếc áo choàng mùa rét.

Xin chúc ông sớm có được một bộ comlê đẹp.

Đuynăng Mutxơ[83].

Có nên từ chối không? Dù sao đi nữa, vận áo vét-tông vẫn còn hơn là vận sơ-mi trần. Tôi mang cái gói về, và chiếc áo ngắn này rất được việc cho tôi.

Tôi chưa lĩnh được một xu bằng tiền nào về các bài viết cả. Tôi đã lĩnh được một đôi giầy của tờ Báo của Nghề giầy dép về một bài báo viết về cái gì tôi không nhớ! – về đôi ủng của Batxompie[84], thì phải. Người ta đã đưa cho tôi một đôi giầy: gần như giầy khiêu vũ mỏng dính.

“Vào nghề thế là khá đấy”, ông chủ bút nói với tôi, một ông to béo, cả ngang, khỏe và vui tính, vừa làm nghề thuộc da vừa làm thơ vừa buôn bán da vừa giao du với các Nàng tiên Nghệ thuật.

Đôi giầy ấy quả đã được việc cho tôi trong ít lâu.

Rồi vì nó rách, tôi đến tòa soạn đưa bản thảo một truyện ngắn để xem họ có bằng lòng vá cho một miếng không.

“Không vá, ở đây không vá.”

Nếu tôi chịu thêm vào truyện ngắn một đoạn độ vài dòng, người ta sẽ cho tôi một đôi giày vải vá da! Người ta chỉ có thể làm đến thế thôi, và tôi cũng không đến nỗi mất công không.

Tôi nhận lời, và thật may cho tôi. Tôi đã đi chơi cả một mùa với đôi giầy vải ấy.

Tôi đi từ Môngrugiơ tơi Grôcayu; nơi tôi có một số bạn ở một quán sữa nhỏ. Tôi ăn vận xềnh xoàng, tôi có vẻ ở lại xó đó, và đứng chơi vớ vẩn trên bậc cửa như ở tỉnh lẻ.

(Tôi rất muốn ngày nào cũng viết được một bài nhỏ và một truyện ngắn để kiếm một đôi giầy vải.

Mặt khác, giầy vải cũng có cái phiền của nó! Tôi không còn dám to tiếng trong các cuộc bàn cãi, tôi không còn dám bén mảng tới những chỗ người ta đang cãi nhau, mặc dù xưa kia tôi rất thích những nơi đó, nay tôi trở thành tồi, tôi đâm ra hèn nhát… Là vì nếu tôi to tiếng, thì với đôi giầy vải không thể đánh nhau được. Đá vào xương ống chân chẳng có ích gì vì tôi không đánh gẫy được, mà cũng không thúc được vào bụng như hồi xưa tôi thúc bằng giày da. Chẳng có ích gì! Tôi đâm rỉ cả người và đi men theo dọc các nhà như con mèo tránh mưa. Tôi chưa bị đánh lần nào cả. Bây giờ nếu đánh nhau với những người đi giầy tôi sẽ bị ăn đòn. Tôi lảng tránh những người đi giày, họ rất đông.

Một chiếc vét-tông ngắn và một đôi giầy. Tôi quen thế rồi! Giá bây giờ tôi tìm được một người cắt áo sơ-mi và kiếm được mũ.

Vấn đề về nhà ở thì đừng hòng, phải là họa sĩ mới được. Buốcgasa có thể thuê phòng chịu một thời gian ở tất cả các khách sạn vì theo anh nói anh đi vẽ ở các xó xỉnh hẻo lành nhất, cái đó làm anh được mọi người biết, vì vậy người ta có thì giờ để nghĩ đến anh.

Chứ như văn chương! tôi không bao giờ có thể đổi bản thảo lấy một nửa tháng tiền thuê buồng.

Không nên thất vọng ở Trời!

Người ta giới thiệu tôi với một ông đã trông thấy tôi đi giầy vải và trong lúc mọi người ngạc nhiên thì ông ta nói:

- Thôi tôi hiểu tại sao anh ta đi giầy vải.

- À! chắc có duyên cớ gì đây! người ta xúm quanh.

- Vì anh ta không có giầy da.

Ông ta thật cừ và quả nhiên người ta bảo ông là một trong những tay viết quảng cáo có triển vọng trên thị trường Pari.

- Anh túng đói lắm phải không?

Đâu có. Ô, xin lỗi! vừa đúng hôm này tôi đi giày da. Cẩn thận đấy, tôi không muốn người ta đụng đến cái nghèo khổ của tôi.

- Thưa ông, tôi sống bằng lao động của tôi!…

Ông ta không phải người xấu và xin lỗi tôi thẳng thắn về sự thô bạo của mình, mà vừa yêu cầu tôi cho ông biết tôi làm công việc gì ít tiền đến nỗi phải đi giầy vải từ Môngrugiơ tới Groo-Cayu, và lê giầy không đế trong cuộc sống như vậy.

- Trời mưa thì ông không ra phố được. Ông có muốn khi trời mưa cũng ra phố được không?

Tôi tưởng như tôi sẵn sàng trao cả một cuốn sách để được như thế!)

Khi trời ẩm ướt thì tôi không ra phố được! tôi chỉ biết cuộc đời vào lúc khô ráo. Từ hai tháng nay tôi không thể chạy theo một chiếc váy vén gọn, một chiếc tất trắng căng khít như trước đây vào những ngày dông bão! Cuộc sống tu sĩ giết tôi và tôi muốn đi giày có đế vì trái tim tội nghiệp của tôi.

(- Thế này! Tôi sẽ kiếm cho anh ủng, mũ, sơ-mi như ở hội chợ Bôke!

- Ông nói đi!

- Đây này! Tôi muốn ra một tờ báo loại tao nhã để đăng quảng cáo. Anh sẽ giữ mục tin tức giới thượng lưu.

Thế là tôi viết mục tin tức giới thượng lưu, lương hai mươi phơrăng một tháng tiền mặt, đều đặn, làm tôi không nợ ai một xu, rồi thợ may cắt áo cho tôi, thợ giầy đóng giầy cho tôi, thợ may sơ-mi may sơ-mi cho tôi. Người tôi thơm nức nước hoa! Nhưng tôi chỉ ăn toàn đồ hộp!

Tờ báo chưa đủ sức mở cửa các hiệu ăn đón tôi. Các hiệu ăn không ưng quảng cáo trong Tờ Báo của giới Thượng lưu. Nếu có một vài hiệu nào đâm đầu vào đó thì là ông Chủ bút được hưởng. Nhưng cái chính là một lý do nghiêm trọng khiến tôi không lui tới Nhà Vàng, hiệu Brêbăng, hoặc Đại phòng 16 của tiệm Cà-phê Ănglê.

Trong những bài ký sự của tôi, tôi thường vung tiền như rác, nốc rượu sâm banh như người Nga, rạch bằng kim cương cửa kính những phòng giấy hợp thời, và tôi bàn tán về con ngựa có nước kiệu hay của tôi, con vật quá quý, xin lỗi Ngài Bá tước, mà tôi không tài nào trị nổi.

Nếu tôi tới các hiệu ăn sang trọng, chủ hiệu sẽ trỏ tôi mà nói với bọn ăn chơi: “Kia là Tử tước X…”, thế là phải cầm trịch, kể chuyện giăng gió và ném hai mươi nhăm luy vào tay anh Kéo chị Cột, và cởi áo ra, mẹ kiếp quý tộc!

Tôi không thể cởi áo được vì chúng tôi chưa tóm được một tay bán dây đeo quần muốn quảng cáo, và tôi phải lấy dây gai để buộc quần. Đôi khi kể cũng bất tiện.

Tôi chỉ có mỗi nguồn thức ăn đóng hộp. Chúng tôi đăng quảng cáo cho một lão bán cá hộp, lão ta cũng không đến nỗi tệ với tôi lắm miễn là tôi nói tới lão trong bài ký sự. Kể cũng khá gay, tôi bắt buộc phải bịa ra những chuyện dài dòng văn tự. Thông thường là một gã con nhà khá giả đã đăng lính, và về nghỉ phép. Một người bạn gặp anh ta trên đại lộ.

- Ồ, cai rồi đấy!

- Phải, bạn ạ, xácđin[85]! Xácđin như bọn mình vẫn ăn khi lão cho vay nợ lãi tớ! Xácđin thời nhiếp chính, xácđin của giới thượng lưu, xácđin của (chỗ này điền tên lão bán cá hộp vào). Bây giờ là xácđin của Buygiô[86], anh ta vừa kết luận vừa cười phá lên…

Còn món cá tông đóng hộp thì sao?

- Bây giờ ai lên tông[87]? Mười tháng nay mình không ra khỏi lâu đài!

- Ai lên à? Vẫn là mụ Clara. Còn ai bán, thì vẫn là ông này…

Tôi viết những trò ấy lên giấy với cảm giác sâu sắc về sự nghiệp thấp kém của mình, mặt đỏ lên, và tôi kéo rèm để khỏi ai nhìn thấy mình. Nhưng tôi sống vì những trò đó!

Ăn đồ hộp mãi, sót ruột hết sức, không bao giờ có thịt tươi. May thay ngành nước hoa lại quảng cáo rất nhiều ở trang tư, và tôi có tất cả các loại nước để rửa chất muối. Tôi súc miệng như người ta rửa cá thu cho đỡ mặn!

Dù sao căn buồng tôi vẫn nồng mùi biển, và với đống đồ hộp nó giống như cabin của người đầu bếp trên con tàu biển đi vòng quanh thế giới.)

Một buổi tối, tôi thấy một bức thư để ở bên cạnh cây đèn nến.

Tôi bóc thư ra.

Matutxanh, mà hàng thế kỷ nay tôi chưa gặp lại, hiện nay làm biên tập viên của tờ Thuỷ tiên. Anh viết thư để báo tin cho tôi biết – bức thư giản dị, không có gì nặng nề, không đụng chạm đến tình cảnh tối tăm của tôi.

Tôi tới văn phòng của tờ Thuỷ tiên; ở gần các đại lộ, bên kia sông. Sung sướng cho Matutxanh!

Anh đã qua cầu, thoát khỏi cõi tối tăm, đi tìm vinh quang, ở giữa dốc lên Capitôn[87.2]!

Ngôi nhà trông vẻ thanh nhã – bên cạnh treo tấm biển đề những chữ:

Chú thích:

[78] Nhà văn, nhiếp ảnh, họa sĩ và nhà hàng không. Cộng tác với nhiều tờ báo. Năm 1863 ông cho làm một quả khí cầu lớn có lắp cánh quạt, đặt tên Khổng lồ và thực hiện nhiều cuộc bay trên cao.

[79] Nhà văn và nhà chính trị, hồi trẻ theo phái Xanh – Ximông, sau ngả theo Đế chế.

[80] Diễn viên và nhà điêu khắc.

[81] Kịch của Jôdep Busacdy.

[82] Paxcan: Valex đã sống ẩn danh dưới tên ây tại Luân - đôn.

[83] Đuynăng Mutxơ không phải là nhân vật hư cấu. Ông ta bán quần áo cũ, kiêm viết văn, làm báo (những tờ Pie rô, Loa, Bất lịch sự v.v…). Viết văn kém nhưng là nhân vật kỳ quặc, chuyên viết những quảng cáo ầm ĩ, bất ngờ, để câu khách.

[84] Thống chế Pháp (1579 – 1646 ).

[85] Chơi chữ không dịch được: tiếng Pháp, xácđin là cá chích, mà trong tiếng lóng của lính lại có nghĩa là lon cai.

[86] Tướng Pháp, chỉ huy quân đội Pháp thời ấy.

[87] Chơi chữ: ton là (giọng) và thon là (cá thu) trùng âm tông.

[87.2] Đền thờ thi thần Apôlông ở Cổ La-mã. Ý nói lên đài danh vọng