← Quay lại trang sách

- XXVI - (4)

“Phải đợi một chính thể mới”- đấy là tương lai của tôi!…

“Anh thoái chí rồi, anh định bỏ cuộc à? Thế không phải là can trường! Một người có tâm huyết nói với tôi. Định để khuyên ngăn tôi và an ủi tôi.

… - Cố lên một lần nữa, người đó nói. – Để tôi đi gặp P… đã bị đi đầy với tôi hồi tháng Chạp, tôi sẽ nói với ông ta lấy cậu vào tờ báo mà ông có cổ phần.”

Ông ta đã hỏi và đã được chấp nhận!

Tôi được trao viết một loạt bài về các giáo sư của nền Đế chế: giống như bài tôi đã viết về Niza. – Nếu các bài ấy viết hăng thì người ta sẽ đăng. Viết hăng đến thế nào mặc sức.

Tôi đang làm việc thì có tiếng gõ cửa.

Đấy là một giáo sư ở Năngtơ, một người khá tốt, có phần mến tôi và không nhạo mẹ tôi quá.

“Tôi đi qua Pari và nghĩ bụng tạt vào thăm người học trò cũ của mình.

- Cám ơn thầy.

- Công việc ra sao? tôi trông cũng biết là anh không được sung sướng!

- Không sướng cũng không khổ.”

Ông ta đả động tới cảnh nghèo của tôi để làm gì? Ông đến để bố thí cho tôi chăng?

“Bây giờ anh làm gì? Có phải vẫn viết lặt vặt như những cái trong tạp chí của Mônanh không?

- Vậy thầy biết là tôi viết à?

- Một anh bạn của Mônanh tới dậy lớp ba ở Năngtơ đã nói chuyện cho chúng tôi biết, nhưng, nói riêng với nhau, tôi không lấy làm hài lòng về chuyện đó lắm! Anh, một người cộng hòa, anh viết lờ mờ quá.”

Tôi cũng chẳng buồn giải thích cho ông hiểu vì đâu ông thấy tôi lờ mờ đến thế.

Nhưng tôi đọc cho ông nghe bài báo hăng mà tôi đang viết dở.

“Thầy có thấy bài này tốt hơn không?

- Cố nhiên! Anh bạn ạ, tuyệt lắm!”

Vài hôm sau tôi ở tòa báo ra, nơi bản thảo của tôi đã được đọc và được hoan nghênh nữa. Xem cung cách đám đầy tớ và đám nhép chào tôi khi tôi đi ra, tôi thấy là mình đã đặt chân được vào nơi này.

Nhưng về nhà tôi nhận được một bức thư của thầy tôi:

“Ông Crêtông đã nói cho thầy mẹ biết là mày sắp viết báo chống lại các bậc đại học lớn… Vậy mày muốn làm tao bị cách chức à?… Bao giờ thì bài báo ra? Bao giờ mày dựt miếng bánh ra khỏi miệng chúng tao?… Liệu mày có tìm được cho chúng tao một cái giường ở nhà thương làm phúc sau khi đã ném chúng tao ra ngoài vỉa hè không? Bây giờ mày trả ơn chúng tao đã cho mày ăn học như vậy đấy!”

Công cho ăn học!…, xin miễn nói tới chuyện đó.

Con sẽ rút bài báo về. Con sẽ không dựt miếng bánh mì ra khỏi miệng thầy. – Thầy nói đúng! Thầy sẽ bị cách chức và con không thể tìm được cho thầy mẹ một chỗ ở nhà thương làm phúc…

PHẢI GIAO DU RỘNG

LƠCAPÊ

(Ở dưới mái rạp Ôđêông có treo một tờ báo nhỏ, tờ Phong trào văn nghệ. Nó chỉ còn lủng lẳng một bên chân thôi, gió đã làm tuột một trong hai chiếc cặp gỗ cặp nó vào sợi dây.

Nó sắp rớt xuống và bị cuốn đi theo cơn gió bấc thổi hút vào các hành lang. Tôi tới cứu nó. Lão Bratxơ cám ơn tôi và nhân tiện tôi nhìn lướt qua tờ báo trước khi người ta lại cặp nó vào sợi dây.

Chắc là một nhóm thanh niên đứng đắn viết tờ Phong trào văn nghệ này. Một bài báo kết thúc như sau: “Chúng ta chạy theo tư tưởng chứ không chạy theo những con bướm”. Câu đó chỉ rõ đấy là các nhà tư tưởng… Tôi nảy ra ý muốn xem đám thanh niên ấy chạy theo tư tưởng.

Họ ở phía trong cùng của một mảnh sân! Rất ẩm thấp! Tôi bị chảy nước mũi thấm cả một chiếc mùi-soa. Tôi đẩy cửa. Họ không chạy ra! Buồng nhỏ quá khó mà chạy được – họ không chạy, trái lại họ đang ngồi.

Họ có ba người, ông chủ bút nói lắp, ông giám đốc nói ngọng và một người thứ ba có vẻ như đang chịu lễ. Người này nom giống một chú bé trong ban hát lễ có tóc hoa râm và da mắt nhăn nheo, hoặc giống một cô gái vẽ râu vẽ ria bằng nút chai đốt cháy. Người ta gọi ông là ông Lơcapê.

Ông ta gầy như cây củ hạ và trông điệu thật giống một cây củ hạ nhỏ vừa nhổ ở đồng lên, hãy còn dính đầy đất, với một sợi tơ nhỏ đóm dáng ở rễ. Lơcapê cũng có một sợi chỉ từ lần lót áo rơđanggốt thò ra. Tại sao ông ta lại thắt ca-vát ở phía sau thế? Tại sao ông không cài cúc áo sơ-mi mở phanh trước ngực, tôi trông thấy bộ ngực lép của ông. Khi ông cười khóe mắt nhăm làm nhăn hết cả bộ mặt choắt của ông. Hồi tôi còn nhỏ, trong những năm tháng đẹp đẽ của tuổi thơ ấy, mẹ tôi thường cho tôi ăn những chân gà vịt chết, mẹ tôi nhịn để nhường tôi, và tôi rút một sợi gân làm các móng co quắp cả lại. Thật là ngây thơ và bổ ích. – Ít nhất mày cũng học được một cái gì: mày biết được hệ thần kinh của gà. Bộ mặt ông Lơcapê khi cười giống hệt một chiếc chân gà bị rút gân. Chỉ còn thấy mỗi con mắt ông như mắt tôm lấp lánh bên trên cái mũi nhọn và xanh xao, một tí đầu lưỡi thò ra giữa hai hàm răng, trông thật trẻ con và chẳng khó chịu chút nào.

Ông cầm trong bàn tay mảnh dẻ, gầy, xám, một đôi găng tay đen mà ông rung lên: đôi găng đã sây sát vì cuộc sống, cũng nhăn nheo như cái cổ gà tây của ông.

Ông đang đọc thơ:

Không bao giờ chiếc áo choàng nặng của kẻ gian hoặc của tên bè phái

Làm sây sát đôi cánh tay trần của tôi bằng nếp áo lượn bay.

Ông vừa đọc vừa rung đôi găng như rung chuông làm lễ dâng thánh thể, và cái đầu lưỡi thò ra một cách tôn nghiêm – như đợi người ta đặt lên miếng bánh thánh! Nhưng về đôi cánh tay trần thì ông định nói gì? Có phải ông định đi dạo với đôi cánh tay trần không? Chắc cánh tay ông phải như que diêm, trông thật đáng thương! Ông nên mặc áo nịt dài tay thì hơn.

Phải, vầng trán tôi trang sức bằng duyên dáng và e lệ

Nhưng trán ông trông lại rất nhọ nhem!

Bao giờ họ mới chạy theo tư tưởng?

À! Họ đề cập tới một vấn đề văn chương.

Cho tới lúc này họ không hề để ý đến tôi. Lúc tôi bước vào và người ta hỏi tôi muốn gì, tôi đã giải thích rằng dưới mái rạp Ôđêông… – tờ báo – những bài báo nghiêm trang của nó – nghĩa là, tôi nảy ra ý tới làm thân với những người bạn ở nền Cộng hòa văn chương. Họ đã không tiếp đón tôi như một người anh em. Họ chẳng đáp lại bao nhiêu. Tôi cứ tưởng họ phải có vẻ thú vị hơn thế. Cũng còn do tôi ăn vận quá tồi! Tuy nhiên họ cũng ra hiệu cho tôi ngồi xuống một trong hai chiếc ghế của tòa báo. Rồi họ lại quay ra nghe Lơcapê. Tôi cũng đành chỉ ghé một bên đít, như mọi người, lên mép một cái gì đó. Như vậy một lát sau tôi thấy đau. Tôi đã chọn một chỗ rất bất tiện. Hay ra ghế ngồi cho nó lại người? Tôi không dám. Ngồi vào chiếc ghế ở giữa buồng ấy tôi sẽ có vẻ một người ngồi chờ cạo râu.

Người ta bỏ lơ tôi, bỏ lơ tôi quá. Tuy vậy khi Lơcapê đọc tới áo choàng của kẻ gian, tới đôi cánh tay trần, tới vầng trán trang sức bằng duyên dáng và e lệ thì tôi đã cựa quậy một chút: gỗ đã kêu răng rắc! Họ bực bội quay về phía tôi, như thể họ chỉ bằng lòng cho tôi ngồi đây với điều kiện không gây nên một tiếng động. Như vậy tiếng gỗ thở dài nghe như một lời than nghẹn ngào! Trong đầu óc cử tọa xảy ra một mối ngờ…

Lơcapê đọc xong, rụt đầu lưỡi vào, hạ mí mắt xuống, lắc lư cái đầu nhỏ và lấy chiếc găng tàng đập vào đầu gối nhọn hoắt. Mọi người im lặng một lúc. Mọi con mắt quay về phía tôi. Tôi đâm ngượng.

Họ chưa hỏi gì tôi cả, nhưng tôi trở thành đối tượng của sự tò mò chung đến nỗi tôi cảm thấy là phải nói hoặc là phải tự tử.

- Thưa các ông, những tình cảm vừa biểu hiện ra đó hoàn toàn là tình cảm của tôi – hoàn toàn hoàn toàn – tôi đem hết nhiệt tình vào lời nói và tôi nhắc lại chữ hoàn toàn với một vẻ ngang tàng, hầu như khiêu khích! Họ không trả lời gì cả. Nếu có một con bướm bay vào, ví bằng ở nhà này người ta chịu đựng được loài bướm, người ta sẽ nghe thấy tiếng cánh bướm!

Họ có vẻ sửng sốt.

Ý nghĩ về con bướm bay qua làm tôi bình tâm lại. – Chính một câu của các ông viết đã khiến tôi đến đây, một câu như một chủ nghĩa, một ngọn cờ! “Chúng tôi không chạy theo tư tưởng mà chỉ chạy theo những con bướm!”

Sau này tôi đã biết là mình lầm; ngược lại kia.

- Chúng tôi không nói thế, ông chủ bút nói lắp.

Hay tôi nhầm nhà? Tôi hỏi như thể mới đến:

“Đây có phải là tòa báo Phong trào Văn nghệ không?

- Thưa ông, vâng.” Một chữ “vâng” rất kiên quyết và rất dứt khoát.

Họ không phủ nhận căn nhà của họ, họ không xấu hổ vì tầng nhà dưới của họ. Có lẽ họ sẽ viết chính, ở đây, lên cửa, bằng chữ to, nếu họ không sợ một sự nhầm lẫn đáng tiếc.

- Thế nào! Chẳng phải các ông đã có vinh dự viết là các ông không chạy theo – cái này, cái nọ hay sao?

Tôi nói líu ríu tất cả; nào bươm bướm, nào tư tưởng nào bướm – tư tưởng; b-ướm; b-ướm – xin lỗi!

Mắt ông chủ bút tóe lửa. Họ ngỡ tôi nhại tật nói lắp để giễu ông. Tiếp đó là xảy ra chuyện cãi nhau, một cuộc đấu giữa những anh nói lắp muốn nổ ra, một người nói lắp thật và một người nói lắp giả.

Tình thế đáng buồn! Hiểu lầm đáng tiếc!

- Thế thì, ông đến đây làm gì?

Người ta tiến lại phía tôi.

- Để kết nghĩa anh em.

- Kết – kết – kết?

Ông nói lắp không nói được hết câu.

- Thưa ông, cha tôi là sĩ quan Vệ binh Cộng hòa, ông nói ngọn lên tiếng, và trong gia đình tôi có lệ phải sửa những kẻ láo xược hoặc tống ra cửa những tên ngu ngốc. Vậy ông là gì, một thằng mất dạy hay là một thằng ngu?

Tôi không muốn tỏ ra thù hằn hoặc kiêu căng mà chỉ là thật thà.

- Thưa ông, tôi là một thằng ngu.

Tôi nói vậy như xưng nghề nghiệp của mình, không xấu hổ! Việc gì phải xấu hổ? Không có nghề ngu, chỉ có những người ngu!

Một khi đã ngả quân bài, tôi cảm thấy thoải mái hơn! Bây giờ mọi người đã biết tôi là ai tuy có điều đáng tiếc là tôi không cho biết địa chỉ. Tôi nghĩ người ta có thể tin lời tôi được, vả lại tôi có lý do gì để lạm dụng lòng tin của mọi người?

Vậy là tôi không phản ai cả và vững ở lòng ngay thật của mình, tôi bình tâm trở lại.

- Nếu cụ thân sinh ra ông là sĩ quan Vệ binh Cộng hòa, thì chắc ông cụ là người cộng hòa…

Không nhất thiết. Nhưng tôi dựa vào đó để nói rằng tôi cũng là người cộng hòa – trước kia tôi thuộc một nhóm mà người ta đã nói đến ở Lớp giảng của Mitsơlê, ở các cuộc biểu tình và ngày mồng 2 tháng Chạp.

- Ông biết ông C,…

- Tên ông là gì?

- Jắc Vanhtrax.

- Thì phải nói ra ngay chứ! Chính ông đã gọi bọn Thánh –Vanhxăng lại để đá đít chúng chứ gì.

Tôi thấy thẹn, lương tâm tôi vẫn bị cắn dứt về điểm này. Cái đá đít ấy hiện còn đè nặng trên tim tôi.

- Chính ông đã định bắt cóc Hoàng đế phải không?… Và họ kể thêm nhiều chuyện khác nữa. Họ biết rõ cuộc đời bạo động của tôi hơn cả tôi. Họ biết những người bạn của các bạn tôi. Bulimiê đã đem thơ đến cho họ!

- Thưa ông, Lơcapê nói sau một lát trầm mặc, giọng rất dịu dàng và mắt nhìn xuống. Khi ông yêu cầu tên thanh niên trường Thánh-Vanhxăng phải đứng theo một tư thế thích hợp với những khái niệm của trí tuệ ông lúc ông không cảm thấy những cái gì là lý tưởng ở trong ông xáo động…

- Tôi không cảm thấy gì cả. Có lẽ một chút tê dại.

- Trong các năng tính của linh hồn ông ư?

- Không, ở đầu bàn chân đá ấy. Có lẽ tôi đã đá vào xương. Đó là một cái xương đặc biệt nên đá chệch. Nếu đá chệch, dễ bị thương lắm.

Lơcapê cám ơn tôi, một vẻ cao đạo và dường như lẩm bẩm nói một mình.

Tôi hay gặp lại Lơcapê.

Mỗi lần gặp lại thấy ông ta thiếu một sợi dây giầy, thiếu cúc ở áo, có vết nhọ ở trán, tóc dài như một cái đuôi nhỏ ở đằng sau và ca-vát thắt lệch sang một bên. Người ta thường trông thấy cái ngực lép của ông. Lúc nào ông cũng cầm một cái ô gẫy gọng, và cặp một quyển sách to dưới cánh tay phải, trong đó ông ghi trạng thái tâm hồn của mình.

Tối nào Lơcapê cũng ghi linh hồn ông đã làm gì trong ngày hôm đó. Khi nào quên thì ông ghi những dẫn chú. Chắc thỉnh thoảng ông cũng nhầm lẫn, ông ghi trạng thái tâm hồn của một người khác vì vô ý hoặc ghi trạng thái cái gì khác không phải tâm hồn, ghi sai, không thì giải thích thế nào được những giập xóa trong bản thảo của ông?

Linh hồn ông làm chuyện này, chuyện nọ, điều đó khỏi… phải bàn – và không thể lầm. Có lẽ đó là lỗi của tờ giấy thấm. Hình như tờ giấy thấm đó đã chơi ông nhiều vố khăm. Nó đã làm mực nhòe nhoẹt ở một số chỗ khi định làm khô những tư tưởng quá tươi, ở chỗ khác nó làm các chữ lẫn lộn, Lơcapê không còn nhận ra được. Trong trường hợp ấy ông ghi chú: “Tôi không chịu trách nhiệm về cái ở dưới vết rây mực” – “Tôi không thể đảm bảo được tính thuần khiết của tư duy ở những chỗ có vết cà phê hoặc có chút lòng đỏ trứng rớt xuống vì vô ý trong một buổi mơ màng.”

Trong một thời gian dài linh hồn ông toát mùi rau cải đắng trộn xà lách. Chúng tôi đã lấy quyển sách linh hồn trong túi áo ông và chúng tôi đem sát tỏi vào.

Vài hôm sau ông đến với chúng tôi, vẻ mặt mơ màng.

- Có một mối quan hệ bí mật, ông nói, giữa những hiện tượng tinh thần và hiện tượng vật chất. Tôi đã nghĩ suốt một ngày tới việc tôn thờ thảo vật của người Ai-cập vốn rất yêu quý rau cỏ và nghĩ tới những con gà giò mà đám pháp sư cổ La-mã cắt tiết. Thì hôm ấy, trong tư duy và trong quyển sách của tôi, lưu lại một mùi gà sống thiến và hình như cả một hương vị hành thờ. (Gục đầu vào bàn tay.) Điều này chứng tỏ rõ ràng tôi có một linh hồn…)