- XXVII - ĂN CHỰC
Những người làm việc cho một cuốn tự điển lớn đang xuất bản đã trở thành bạn thư viện của tôi.
Họ là cả một bày người sống vào quyển tự điển ấy, sống như những người đắm tầu trên một cái bè – tranh nhau rượu vang và bánh quy – con mắt dữ tợn, nỗi đói khát điên cuồng ở trong lòng. Cảnh tượng ấy thật là kinh khủng!
Một tay đốc công mặt mũi đê tiện phụ trách phân phối việc làm. – Đa số đối với hắn ta có thái độ của những kẻ man rợ trước ngẫu tượng và liếm giầy đã thay đế của hắn.
Có vài ba phen mừng hụt. Người ta ngỡ trông thấy – không phải một cánh buồm ở chân trời – mà là cái chết tới ăn thịt một trong số những người làm việc ấy.
Bớt được một người! Có nghĩa là sau khi đã mai táng, những người khác sẽ được thêm một số tử - phần tư của một chữ cái mà những người sống sót đem chia nhau – một suất làm tăng thêm bữa ăn của mỗi người, một giọt máu, để uống, một miếng thịt để nhai… – Hy vọng hão huyền!… Phải trải qua nhiều gian nan lận đận mới hạ mình xuống cuốn Tự điển và khi đã tới nước ấy, tức là người ta không muốn chết. Kẻ mà người ta tưởng sẽ đưa ra nghĩa trang lại thoát chết. Mọi người đâm ngấm ngầm oán giận anh ta.
Tôi đã hỏi xem có còn một vài mẩu nào cho tôi không; những chữ khó, những chữ hóc búa…
Khốn khổ! – Tôi có vẻ một thằng ăn cắp, gần như một tên phản bội.
Tôi phải vội khẳng định rằng nói chơi đấy thôi – nhưng họ chẳng tin lắm, và mỗi lần tôi bước vào phòng giấy là có những con mắt gườm gườm và những lời thì thào ghê gớm.
Uổng công nghĩ đến những chuyện kiếm lấy một xu ở đấy. – Chiếc bè đầy ắp rồi, cơ hồ họ sắp rút thăm xem ai là người đầu tiên sẽ bị ăn thịt.
Nhưng tôi nhớ ra cái nguồn sinh sống ấy một hôm nghe thấy người ta nói trước mặt tôi tên một nhà ngữ pháp trứ danh, hiện đang làm một cuốn Tự điển khác mệnh danh là Cạnh tranh.
Một người bạn cùng khu phố, quen anh con trai nhà ngữ pháp, đã xin việc cho tôi. Lời xin đã được chấp nhận.
Người ta mời tôi lại.
Số tôi khá may mắn, tôi hay gặp những người tốt bụng.
Tôi tiếp xúc với một người rất tốt, hết sức lễ phép, không úp mở, bảo tôi:
“Vừa hay tôi đang cần một người, nhưng tôi không giầu. Tôi sẽ trả anh ít thôi, có khi không trả nữa. Tôi sẽ kiếm cho anh một chỗ ăn chịu và một căn buồng. Tôi quen một người chủ quán và một người cho thuê buồng. – Đánh đổi lấy khoản vay nợ mà tôi chịu trách nhiệm ấy, anh sẽ đến từ chín giờ sáng tới sáu giờ tối thì về - nghỉ một giờ ăn bữa trưa. Con trai tôi chỉ công việc của anh. Tôi nghiền ngẫm tất cả từ mười lăm năm nay. Tuy nhiên vốn học thức của anh có thể giúp đỡ tôi, và anh sẽ sống được… Anh không có nguồn lợi nào khác à?
- Tôi có bốn trăm bốn mươi phơrăng một năm.
Thế là cũng đáng kể… nhiều đấy! Tôi thì tôi không có được bốn trăm bốn mươi phơrăng một năm! – mà tôi đã năm mươi nhăm tuổi. Với sự can đảm anh có thể khá lên được… Anh sẽ không chết ở nhà thương làm phúc… Nếu anh muốn, anh có thể ngồi vào ghế trong buồng ngay từ hôm nay.”
Việc đó kéo dài được một thời gian – nhưng một hôm có chuyện xích mích giữa nhà ngữ pháp và chủ nhà xuất bản – nhà ngữ pháp khốn khổ bị thua, đành phải xén bớt các khoản chi tiêu và cho tôi thôi việc.
Khi tôi còn làm việc với ông, tôi được ăn chịu trong một quán ăn nhỏ, bữa sáng hết mười xu, bữa tối một phơrăng hai mươi lăm – và được một buồng mười hai phơrăng – ôi chao! Rất xấu! Rất buồn! (hình như ông Nađa trọ ở khách sạn này! Tôi thương hại ông Nađa!)
Nhưng tôi đã đặt được chân lên bàn đạp.
Giữa các nhóm làm tự vựng, mọi người đều biết nhau. Có nhóm Betsơrelidăng, nhóm Boaxtơ, nhóm Poatơvina.
Một nhà xuất bản ở phố Êpơrông, cần những nhà nhữ pháp rẻ tiền, có đề nghị với tôi.
Người ta trả tôi một xăngtim một dòng – hai xu mười dòng – một phơrăng một trăm dòng – lại còn phải trích dẫn một số câu của các nhà nổi tiếng. Mỗi nghĩa riêng đều phải có ví dụ dẫn chứng.
Làm việc và sưu tầm các nhà văn nổi tiếng không thể nào kiếm được quá hai phơrăng rưỡi một ngày!
- Tìm những ví dụ trong các sách mất nhiều thì giờ!…
Tôi đã tìm được cách để làm nhanh hơn.
Thật là bất lương, tôi làm dòng suối văn chương vẩn đục!… tôi biến đổi tinh thần của ngôn ngữ… có thể di hại trong một thế kỷ… nhưng có ai biết và có ai thấy gì đâu?
Tôi làm như thế này.
Khi nào cần thêm ví dụ tôi chỉ việc bịa ra và tôi đặt trong dấu ngoặc (Flêsiê), (Bôtxuyê), (Matxiông) hoặc một nhà thuyết giáo lớn nào khác của bất cứ địa phương nào: Cămbre, Mô hoặc Pôngtoadờ.
Tôi giả mạo con đại bàng xứ Mô[94] khá nhất và nhiều lần nhất.
Nhưng nếu ngòi bút tôi không tìm ra một cái gì thật kêu, thật rỗng tuếch, thật long trọng, thật tròn trịa, tôi đi ngược lên một thế kỷ, tôi đặt những trích dẫn của tôi lên lưng các người thời Phục hưng hoặc thời Trung cổ.
Do đó tôi kiếm thêm được mười lăm xu một ngày.
Mười lăm xu! – Được một bữa ăn tối.
Một hôm, ở tiệm cà-phê Vonte, nơi lui tới của các bác đại học mà một đôi khi tôi cũng tới, đã xảy ra một cuộc tranh cãi dữ dội nhân những trích dẫn ấy.
Một giáo sư cầm trong tay tập mới nhất của cuốn Tự vựng, nơi tôi làm việc, và chúi mũi vào một từ do tôi soạn.
Ông đọc một câu của Sarông và xoa tay, đưa lưỡi liếm môi.
“Ôi! Những con người thời ấy!”
Đến lượt một bạn đồng nghiệp của ông cũng khoái trá, nhưng lại hiểu câu trích dẫn theo một nghĩa khác.
“Ông Vetxônô ạ, không bao giờ trong tư tưởng của Sarông lại có nghĩa ấy…
- Ngược lại, đấy đúng là tinh thần Sarông. Toàn bộ Sarông nằm ở trong câu này!
- Ông không đọc Sarông bằng tôi, ông Pierăng thân mến ạ…”
Tôi thản nhiên uống cà-phê.
Cuộc tranh cãi kết thúc bằng một lời châm chích chua chát cũng mượn của tập tự vựng đó.
“Ồ! Người ta rất có thể gán cho ông cái câu khác của Sămfo, đây này, câu được trích dẫn ở cuối trang ấy!…”
Câu ấy cũng của tôi. Nửa tháng mới rồi tôi rất túng, rất cần tiền, và tôi nhét rất nhiều Sarông và Sămfo vào trong tập sách.
(Tôi nổi tiếng đặc biệt ở nhà xuất bản ấy, nơi có không ít giáo sư già lui tới nói đến tôi… Cái gì chính của anh ta thì không đặc sắc nhưng anh ta đọc rất nhiều tác giả cổ điển và biết chọn những trích dẫn thật tài tình. Anh ta thạo nhất là thời Trung cổ!)
Tôi chật vật kiếm được khoảng bảy mươi phơrăng một tháng.
Tháng đầu tôi được lĩnh đúng hạn. Còn thiếu vài đồng nữa mới tới được con số tròn, tôi đã làm được ngót bảy xu với Macmôngten.
Ông già này cũng chưa đến nỗi tồi lắm!
Tới tháng thứ hai, tôi đợi tiền hoài.
Tôi dọa sẽ đi kiện… làm ầm lên… rêu rao…
Người ta trả tôi một nửa tiền – và đuổi tôi. Tồi cầm nửa tiền và bỏ đi, không khỏi càu nhàu – làm bọn chủ đâm cáu. Họ đi nói khắp nơi rằng tôi là một kẻ khó chơi.
“Đáng tiếc: Một anh chàng nắm vững các tác giả cổ điển đến thế!”
NHÀ THƠ TRÀO PHÚNG
“Anh là nhà thơ phải không?”
Đó là bà Gô, bán sách, một buổi sáng kia đã hỏi tôi vậy.
Tôi là nghệ nhân hát rong thì đúng hơn. Tôi ca hát tổ quốc, tôi ca hát những cái gì mà đám nghệ nhân hát rong thường ca hát – cứ việc xem tự điển khắc thấy. Dù sao cũng cứ cho là nhà thơ đi! Và tôi trả lời bà Gô theo cách để bà hiểu rằng tôi biết sử dụng cây đàn lia – biết búng dây đàn “luyt”[95].
“Thế thì tôi đã tìm được việc làm cho anh!”
Tôi vội vàng làm điệu kẻ đang có hứng cảm!
“Thế này, bà nói. – Có một ông thù một lão mõ tòa ở cùng nhà, ông ta muốn trả thù lão mõ tòa bằng một bài vè. Anh có biết làm cái đó không?”
Người ta đòi hỏi tôi cái món Acsilôkơ[96]. Phải nắm lấy ngọn roi trào phúng!…
“Tôi sẽ nắm lấy nó! Tôi bảo bà Gô; lúc đầu bà không hiểu, tôi phải nhắc lại và giải thích.
- Được – Anh hãy tới nhà thương Đuyboa. Anh hỏi ông Poariê và nói rằng tôi giới thiệu anh đến để nhổ vào mặt lão mõ tòa. Chính ông ta đã nói thế. “Tôi tìm một người để nhổ vào mặt lão mõ tòa.”
Tôi tới nhà thương.
“Ông Poariê?
- Ông hỏi gì ông ta?”
Tôi không dám nói tại sao mình đến. Tôi giảng giải: người ta không mở cửa. Cuối cùng tôi đành xin một mẩu giấy.
“Bác đưa họ mảnh giấy này cho ông ấy được không? Tôi nói với bác gác cổng.
- Được.”
Tôi viết vài chữa.
Thưa ông.
Tôi là người do bà Gô giới thiệu đến để nh.v.m lão mõ tòa…
“Bác có phong bì không?
- Không, bác gác cổng nhà thương đáp.”
Tôi gấp mảnh giấy làm tư, đưa cho bác ta.
Qua cửa kính, tôi thấy bác gác cổng mở lá thư nhỏ và đọc. Liệu bác ta nghĩ gì?
Nh, v, m, lão mõ tòa!
Giá tôi cứ viết nguyên cả chữ thì hơn. Như vậy ngay thẳng hơn. Sẽ khỏi gây ra những ước đoán này nọ.
Bác gác cổng quay ra và nhìn tôi một cách kỳ cục.
“Ông Poariê đợi ông ở buồng số 12, hành lang số 3.”
Tôi đi vào hành lang thứ ba, - tôi tới buồng số 12.
Tôi gõ cửa.
“Cứ vào!”
Ông Poariê có vẻ mặt ủ ê – ông ngồi trong ghế bành, nước da vàng, người gầy, nhưng vẫn còn vui tính.
“A! Bà Gô giới thiệu anh đến đây! Anh đế để cắn hả?…”
Tôi ngắt lời ông ta.
Tôi đến để nhổ!… Hay là tôi nhầm nhà?
Tôi giải thích điều đó và ông Poariê đáp:
“Nhổ! Cắn! Không hề gì, miễn là anh chửi lão Muytxi cho lão tức lên mà chết!… Phải, anh, phải cho lão tức lên mà chết!… Nếu anh không phải người có thể làm được một bài vè… cho lão Mutxy tức đến chết thì anh đừng xen vào chuyện này!…”
Tôi không dám quả quyết lắm.
Ông Poariê có vẻ lo lắng và gãi cằm:
“Trông anh có vẻ ngây thơ quá!”
Việc đặt hàng đến tong mất! Nếu tôi có vẻ ngây thơ quá thì hỏng! – Tôi liền làm vẻ mặt sa sầm, một nụ cười cay độc, mắt vàng ệch…
Ông Poariê có vẻ vững tâm hơn và mời tôi ngồi xuống:
“Ta cứ thử, ông nói, xem anh viết lách thế nào! Để tôi kể lại câu chuyện. Anh nghe cho kỹ nhé! Ngày xưa có hai vợ chồng lão mõ tòa là loại đểu cáng nhất vùng; chồng thì cao bằng chiếc ủng – vợ thì người vặn vẹo như cái mở nút chai; vợ chồng lão nuôi một con chó đuôi như cái kèn trompet. – Đấy là cốt chuyện của anh đấy! – Vợ chồng lão ta tên là… Muytxy – anh làm đi! – Phải làm cho chúng tức đến chết… cả thằng chồng, mụ vợ, lẫn con chó.”
Vậy vấn đề là làm cho chúng phải chết!…
Thoạt đầu tôi ra thư viện tra cứu những nhà thơ trào phúng để gây hứng. Tôi chỉ thấy nhức đầu. Cuối cùng cả đêm tôi đẻ ra năm đoạn thơ khốn khổ. Liệu ông Poariê sẽ nghĩ thế nào?
Tôi viết thư cho ông.
Ông trả lời:
“Vừa hay lúc này tôi khỏe hơn. Mai tôi sẽ rời khỏi nhà thương Đuyboa. Tôi đã mời đám anh em họ ở Nivecne tới nghe bài của anh. – Trưa mai anh hãy đến hiệu Foayô; lúc ăn tráng miệng anh sẽ hát bài vè của anh.”
Hôm sau, ăn bữa trưa kiểu Gacgăngchuya[97]. Patê gan mỡ, gà giò, thịt quay, rượu Buôcgônhơ, rượu ngọt, đồ tráng miệng, xì gà!
Và bây giờ nhường lời cho nhà làm vè.
Tôi đứng dậy, tôi ho, mặt tái nhợt, rồi lại ho nữa.
“Anh hãy uống một cốc vang!”
Tôi uống hai cốc! Và mặt đỏ, hơi bốc, tôi bắt đầu. Tiến lên!
Thành công!
“Ông Vanhtrax! CHÚNG NÓ SẼ CHẾT!”
Cùng lúc ấy, vui đến ngạt thở, quặn người vì hoan hỉ, ông Poariê kéo tôi vào một góc, lục tìm trong túi và giúp cho tôi bốn đồng luy!
“Tôi sẽ giúp ông kiếm được nhiều nữa, ông nói. Ông có biết phá quấy bọn quản lý văn khế không? Tôi còn muốn làm chết một lão quản lý văn khế!”
Đó là một nguồn cảm hứng. Tôi có nơi tiêu thụ tại các tỉnh miền Trung. Đơn đặt hàng ùn về. Từ các tỉnh lẻ người ta viết thư cho tôi! Tôi làm theo đơn đặt – tôi châm biếm theo ảnh.
Tôi gieo rắc thơ đả kích và mối bất bòa trong các gia đình. Kiếm được lắm tiền.
Nhưng gì thì cũng phải mòn! Được hai tháng thì tôi cạn sạch.
Vai trò thi sĩ trào phúng của tôi chấm hết! Tôi chết như con ong bị gẫy ngòi trong vết đốt, tôi chết trên một bài ca được trả mười phơrăng! Tôi đã tới nước phải châm chọc, nhổ và cắn theo giá mười phơrăng. Bài cuối cùng chỉ còn được bảy phơrăng rưỡi.
Đấy là tiếng hót thiên nga của tôi! Tôi sẽ không kiếm thêm được một xu với thể văn đó nữa. Tôi không còn muối, ngay để bỏ vào một đĩa xúp.
ĐIÔGIECNƠ
Thỉnh thoảng tôi tới một quán bán cơm bữa ở phố Bămbutô, vào lúc hai giờ kém năm. Tôi đến vào lúc ấy vì đến hai giờ thì hết bữa sáng và bắt đầu sang bữa chiều.
Bữa sáng giá nửa phơrăng.
Với nửa phơrăng người ta được một đĩa thịt, bánh mì, một thức tráng miệng. Vào giờ ấy trong ngày, bữa ăn bắc cầu giữa sáng và chiều nên rất có lợi.
Tôi có quyền lưu lại đến lúc nào tùy thích, tôi đọc báo và suy nghĩ.
Quán ăn ở gác một. Phải qua một lối đi tối om để vào, nhưng buồng ăn rộng rãi, sáng sủa, có những tấm gương khung bọc sa trắng.
Bao giờ cũng có mùi bầu dục sao, ngửi không mất tiền.
Từ cửa sổ, có thể nhòm được xuống phố, trông thấy tương Người khổng lồ ở Rôđơ, và đông đảo thợ thuyền qua lại.
Tôi cảm thấy vui thú khi nhìn đám đông bình dân; họ có cái vẻ giản dị, thoải mái, những cử chỉ ngay thật, những trận vui đùa thẳng thắn. Không cau có và căng thằng như cái giới trong đó tôi đang kéo dài cuộc sống vô dụng.
Hễ có dịp là tôi xuống chỗ chợ búa ồn ào đó và vào cơn lốc bình dân đó.
Muốn thế tôi phải có nửa phơrăng trả bữa ăn trưa, cộng thêm hai xu cho bồi; cũng phải ăn vận không lố lăng quá và đừng có vẻ xơ xác quá. Có thể vận chiếc áo bludơ bẩn – vì lao động mà giây bẩn – nhưng một bộ áo đen nhàu nát ở những khu phố xuềnh xoàng này sẽ bị mọi người chú ý. Người ta tưởng bộ áo bị uế tạp vì trụy lạc.
Tôi ăn tráng miệng xong, đang chúi mũi vào tờ báo.
Chủ quán bước vào với một người mà tôi nhận ra được.
Người này đã hát Rượu vang bốn xu, vào thời Khách sạn Lixbon, khi bọn tôi tới Mông ru giơ – dưới gian nhà trống rộng lớn – nơi người ta ngồi trên ghế dài gỗ uống rượu bằng cốc to.
Chủ quán với người kia là bạn, và họ tới nốc một chai rượu Boócđô lạnh, xa lò lửa nóng.
Họ chạm cốc, lại chạm cốc, chuyện trò và bàn cãi về vấn đề bài hát.
Tới một lúc, họ cần tìm người để hỏi ý kiến.
Chủ quán nói:
“Ta hỏi ông kia xem.”
Ấy là lão nói tôi, và lão quay về phía tôi.
“Mời ông uống với chúng tôi một cốc vang? Và ông sẽ bảo cho giữa hai chúng tôi ai là người lầm.”
Lời mời thành tâm nên tôi nhận.
“Câu chuyện thế này: tôi bảo ông Rôgiê đây là không được nói Điôgienơ mà phải nói Điôgiecnơ – không phải Gienơ: Giecnơ![98]. Giờ tôi nhờ đến ông, lão chủ quán vừa nói vừa ấn cái mũ trắng nhà bếp trên đầu; ông là người có học. Ông hãy phân xử hộ.”
Gay thật!
Nếu tôi xử lão ta thua, liệu sau này lão còn để cho tôi đến ăn bữa trưa vào lúc hai giờ kém năm không, mà tờ yết thị dán trên tường đã nói từ hai giờ trở đi, các bữa ăn đều mười sáu xu?
Tôi lưỡng lự.
Lão chủ quán vừa nhắc lại, vừa vỗ lên mặt bàn:
- Tôi cho rằng điệp khúc bài hát là thế này:
Lão hát:
Đấy là chiếc đèn lồng
Của ĐiôgieCnơ
Người kia nhìn tôi. Tôi tuyên bố:
“Phải, người ta nói là Điôgienơ!”
Những ai không biết bữa ăn bắc cầu ấy cứ nhặt đá mà ném tôi! Còn những ai biết thì hãy tha thứ cho tôi!
Tôi đã không thể khăng khăng theo con đường giả dối ấy được! Lão chủ quán vừa đi khỏi, tôi tới bên ông Rôgiê, xin lỗi ông bằng cả ánh mắt lẫn giọng nói, đầu cuối xuống:
“Ông ạ, vừa rồi tôi đã nói dồi. Người ta nói Điôgienơ!
- Không có chữ C?
- Không có C.
Tôi buông thõng hai tay và đứng trước người xét xử tôi như một pho tượng gẫy.
- Nhưng tại sao thế?…”
Tôi mở cả lòng và dạ tôi nói với ông. Tôi giải thích cái bữa ăn bắc cầu.
Ông ta mỉm cười – gọi một chai rượu nữa.
“Ông uống thêm với tôi một chầu nữa nhé?
- Thôi, cám ơn ông!
- Ông sợ không mời trả lại được chứ gì?
- Lạy chúa, có thế!…”
Ông Rôgiê ngồi im một lát.
“Ông làm gì để sống? Ông biết bắt vần không?
Tôi kể ông nghe câu chuyện Muyxy, loạt bài thơ đả kích bọn quản lý văn khế…
- Nhưng tình ca! Ông có biết làm tình ca không?
- Tôi chưa thử làm bao giờ.
- Ông không biết đặt lời cho một đám mây, một con ngựa, một mỹ nhân à?
- Tôi không biết nữa…
- Hay thể loại nhẹ ông làm tốt hơn? – loại chú thỏ con của vợ tôi ấy? Ca hát cái bình hoa – hay cái bình đi tiểu đêm – ông thích cái nào hơn?
- Bình hoa! – mà không khinh cái bình đi tiểu đêm, tôi vội vàng nói thêm, vì không biết khẩu vị của ông ta và khôn ngoan bắc cầu giữa hai cái.
Nhưng tôi đã thất bại ở cả hai thể loại!
“Ông không có cái chất dí dỏm”. Ông Rôgiê nói với tôi, một buổi sáng.
Vì lòng tốt, ông đã đưa tôi làm bài tập về lối chơi chữ.
“Ông không cần phải tự mình sáng tạo, ông sẽ không bao giờ làm được đâu, ông bạn trẻ tội nghiệp ạ; cứ giở sách ra mà tìm, không sao cả!”
Tôi ra thư viện cóp ở những tập danh ngôn cũ.
(Người ta đã bắt chợt thấy tôi làm việc ấy, thật là tai họa, và tôi phải mất nhiều năm mới gỡ được tiếng.
Mỗi lần tôi nói một lời bông đùa, người ta lại bảo: “Sáng nay mày mới đọc được ở thư viện chứ gì”.
Người ta ngỡ tôi tới thư viện tìm những điều sẽ nói vào buổi tối để ra vẻ mình láu lỉnh và bông lơn. Cái trò ấy có thể đã kéo dài từ lâu rồi, người ta nói vậy.
- Vậy mà chúng mình tin cứ cười mãi!
Về mặt khác, những người đứng đắn trước để ý đến tôi nay lại không tin tôi nữa và cho tôi là một thằng súc sinh ghê tởm đi mò những sách phóng đãng làm thức ăn hàng ngày và thỏa mãn trí tưởng tượng của thằng múa rối và gã trụy lạc.)
Và như thế được năm phơrăng – không thêm một đồng kẽm hào! – một xu một trăm câu chơi chữ - xin mời!
Chẳng thà tôi vận quần áo anh hề, rao hàng như vậy ở các quán vui. Tôi còn kiếm được nhiều tiền hơn.
Chú thích:
[94] Tức Bôtxuê.
[95] Lia, luýt: những cây đàn cổ mà các thi sĩ hát rong xưa kia thường dùng để đệm khi hát, và được coi là biểu tương của thơ ca.
[96] Thi sĩ trào phúng cổ Hy-lạp, người phát minh ra thể thơ trường đoản cách, là vũ khí ghê gớm của ông trong thơ trào lộng.
[97] Nhân vật ăn khỏe trong Gacgăngchuya của văn hào Pháp Rabơle.