- XXVIII - LẤY VỢ
Tôi nhận được đều đặn bốn mươi phơrăng hàng tháng. – Đều đặn ư? Chao ôi! Không. Thỉnh thoảng chậm mất một hai ngày, thế là tôi rợn cả người vì bà chủ trọ chờ đợi. Dạ dày tôi cũng chờ đợi – thật là gay. Tôi nhiều phen bụng rỗng suốt hai mươi bốn tiếng đồng hồ, gọi là còn sức để nói khi nào phải dậy học. Không phải lỗi tự ai cả! Thầy tôi chưa bao giờ sai lời đối với tôi; nhưng tôi đã hoài công viết thư nói với thầy tôi rằng một sự chậm trễ vài giờ cũng làm tôi bị nhục nhã ê chề ở quán trọ mà kỳ hạn trả nửa tháng tiền nhà là những ngày nhất định, và đầy đọa tôi vào những cơn đói quằn quại. Thầy tôi không tin. Các bậc cha me ở xa Pari không hình dung được chuyện đó. ở tiệm cà-phê, họ hỏi xem tờ Sarivari, đọc những chuyện hoang đường của Gavacni nói về những củ cà-rốt do sinh viên nhổ. Có một lần tôi suýt nhổ trộm một củ tại cánh đồng Môngrugiờ để nhai nguyên cả củ vừa bẩn vừa sống, nghiến ngấu vì bụng đang kêu ùng ục! Lúc ấy tôi vừa lỡ mất hẹn của một người bạn có thể ăn chịu tại một quán lụp xụp ở ngoại thành.
Vừa lúc tôi cúi xuống thì một người đi qua: tôi bỏ đi như một thằng ăn cắp. Giá bị bắt chợt sớm hơn một chút, có lẽ tôi đã bị cáo là ăn trộm.
Chả! Mặc kệ, túng thì phải làm càn thôi!
Chính cuộc sống ở nhà trọ làm tôi khổ sở nhất. Tôi thường ở lẫn với bọn vô lại và bọn trộm cắp.
Sáng hôm nọ, cảnh sát ăn vận thường dân đã nhân danh luật pháp xông vào căn nhà ổ chuột của tôi, vây tôi trên chiếc giường nát như thủ phạm một tội ác gì không rõ.
Họ đã vào lầm buồng. Chính tay ở buồng bên cạnh đã ăn cắp hoặc hiếp dâm gì đó. Hắn có mặt ở nhà, đang hát nghêu ngao.
Người ta nhận ra giọng hắn, thành thử tôi được thừa nhận là vô tội! Nhưng giả sử tên vô lại nghe thấy tiếng cảnh sát lên, rồi hắn lẻ xuống cầu thang đi mất, thì tha hồ cho tôi giãy giụa, người ta cứ kéo tôi đi!
Tôi viết thư kể lại câu chuyện cho thầy tôi biết, và tôi xin thầy tôi bố thí:
“Thầy ứng trước cho con số tiền đủ sắm ít đồ đạc kê trong một xó buồng như một xà lim, ở đó con khỏi bị những chuyện tình cờ như thế. Con đã tìm được một buồng tám mươi phơrăng ở phố Côngtrexcacpơ. Người ta đòi phải trả tiền trước; con cũng xin thầy cả món này nữa. Con xin thầy chút tốn phí đó để tránh cho con bao nhiêu đau đớn và nguy hiểm!”
Trong bức thư, tôi – rụt rè – nói thêm rằng trong cuộc sống ở những căn nhà cũ kỹ và nghèo khổ, có ít của cải nào thì luôn luôn bị mất vì những vụ trục xuất, khám xét, vây ráp… và tôi đã để thất lạc mất một số tác phẩm…
Đúng như thế! ở các buồng trọ tôi đã để rơi mất, hoặc bị ném vào đống rác, hoặc bị lấp đằng sau một chiếc hòm, hoặc bị chủ trọ giữ lấy, những trang viết có lẽ mang cái hùng hồn đắng cay của chúng.
Thầy tôi không trả lời.
Ối chao! Tôi cảm thấy cơn hờn giận thủa nhỏ đối với thầy tôi lại dâng lên trong tôi không sao ghìm được!
“Thế ra anh không biết, một người bạn đồng sự cũ ở Năngtơ của thầy tôi nói với tôi – tôi bất chợt gặp ông ở một góc phố: một con người tốt bạn thân của gia đình tôi, tôi đã bầy tỏ với ông cảnh sống của tôi, buổi tối thật buồn, mưa rơi u ám, căn buồng của tôi dạo ấy lạnh lẽo quá! – Anh không biết là thầy anh không còn ở Năngtơ nữa à?”
Ông đã kể tôi nghe một câu chuyện đau lòng.
Thầy tôi đã gặp trên đường đời của mình một bà Brinhhôlanh khác, vợ góa của một viên tổng giám thị; bà ta đã yêu thầy tôi hoặc làm ra vẻ yêu. Thầy tôi trở thành nhân tình của bà, bị mang tiếng, đi đến làm công khai; mẹ tôi phát điên lên vì ghen và vì buồn phiền, mất bình tĩnh, đã tới cổng trường đánh ghen với bà kia; câu chuyện gây tệ hai và có báo cáo ghê gớm lên bộ. Người ta chỉ bắt thầy tôi thuyên chuyển, và bây giờ thầy tôi đang ở một thành phố ở miền Bắc.
Thế mà tôi chẳng hay biết gì hết! Cả thầy tôi lẫn mê tôi đều không nói cho tôi biết!
“Đó là vì, anh biết không, ông già đáp, tiếp sau là chan hòa nước mắt! Thầy anh lên đường một mình… Mẹ anh quay về quê, nơi cách đây ba tuần tôi có gặp bà, trông người khác hẳn, anh bạn ạ!… Bà cụ sống ở quê như một bà góa, giữa bức chân dung của thầy anh và của anh… Tôi đã dự cảnh chia tay… Thôi thì giành nhau người nọ xin lỗi người kia.
- Chính tôi là kẻ có lỗi! Mẹ anh vừa kêu lên vừa quì xuống.
- Không, chính tôi, cuộc đời giáo sư đã làm tôi trở nên dồ dại và xấu xa…
- Chúng ta còn có thể sung sướng được, mẹ anh đáp. Phải không? Mẹ anh nhắc lại, và quay sang phía tôi, hỏi tôi bằng cặp mắt đỏ hoe.
Tôi phải nói để anh biết là tôi đã cúi đầu xuống và trả lời không! Tôi trả lời không; vì thầy anh say mê người đàn bà đã gây nên chuyện ầm ĩ kia. Rồi thầy anh sẽ lại bám lấy bà ta; quả nhiên thầy anh đã lại bám lấy bà ta thật… Con người lương thiện có vẻ như phạm một tội ác… Nhưng ông cụ nhà vốn tính thất thường, sự tình cờ đã đưa ông vào một nghề khổ sai, lại khiến ông lấy một người vợ quá quê mùa đối với một tâm hồn kiêu hãnh và đau đớn. Tôi rất hiểu chuyện đó, tôi là người đã từng đau khổ, đã từng yêu… mà không ai biết… Thế đấy, vì tôi đã trải qua chuyện đó, tôi lại biết rõ đầu đuôi câu chuyện, nên tôi khuyên hai bên nên xa nhau! Giả dụ mẹ anh không làm ầm lên mà cứ chết dần mòn vì đau khổ, thì trường Đại học vẫn có mật thám của nó, và sớm muộn thầy anh cũng sẽ bị bãi chức chứ không phải chỉ bị thuyên chuyển. Chính mẹ anh là người đầu tiên chịu hy sinh. “Phải, ta nên xa nhau thì hơn!” mẹ anh khóc nức nở và ôm hôn thầy anh như tôi đã trông thầy người ta ôm hôn người chết trước khi bỏ vào áo quan.
Tôi ngỡ anh đã biết chuyện này. Chắc hẳn thầy mẹ anh chưa dám nói cho anh biết!”
Ngay buổi tối hôm ấy – ngày 31 – ông bố của Côlinê đến chơi tôi và đem đến bốn mươi phơrăng.
- Từ nay, cứ đầu tháng, anh tới nhà tôi lấy tiền.
Ông không nói gì thêm mà tôi cũng không hỏi. Nhưng tôi viết thư cho mẹ tôi.
Ngòi bút của tôi lưỡng lự rất lâu; vì tôi giập xóa nhiều dòng, tôi còn làm nhòe một chữ vì nước mắt rơi không cầm nổi. Tôi không biết cách nào để gượng nhẹ với nỗi lòng của mẹ tôi.
Mẹ tôi đã viết thư trả lời.
“Phải, con ạ, thầy với mẹ đã xa nhau rồi, xa nhau tựa như cái chết đã xảy ra. Thậm chí mẹ muốn van con đừng nhắc đến tên thầy con trong thư nữa; vì mẹ đau khổ, con hãy tha cho mẹ điều đó.”
Do ông giáo sư già tới chơi, tôi biết là mẹ tôi đã hay chuyện bà Brinhhôlanh[99] đã lại tới chiếm chỗ trong giường thầy tôi, và đối với một số bà con, bà còn được coi là vợ chính thức nữa. Thế là hết, thế là vĩnh viễn góa bụa; tôi biết tính mẹ tôi. Tên thầy tôi không được chúng tôi đả động đến nữa nhưng vẫn còn ghi lại như bằng mũi dao nhọn trong tim người đàn bà tội nghiệp.
Tôi có nên viết thư cho thầy tôi không?Nói gì với ông? Có thể một ngày kia tôi sẽ tìm được lời nói hoặc tiếng kêu làm cho người bố xích lại gần đứa con, còn bây giờ thì hoặc phải tha thứ hoặc phải kết tội thầy tôi! Nhưng theo con mắt tôi, mẹ tôi đau khổ mà thầy tôi chẳng phải là có tội. Tôi đành phải nín lặng giữa hai nạn nhân đó.
Ông giáo sư già đã trở về quê cũ, có hứa với tôi là nếu như trong nhà người đàn đà bị bỏ rơi ấy xảy ra bệnh tật hay tai họa, ông sẽ báo tin cho tôi biết.
Chính mẹ tôi viết thư gọi tôi về.
“Mẹ van con, về với mẹ vì đã sắp đến kỳ nghỉ lễ Phục sinh và con có thì giờ rỗi rãi… hơn nữa mẹ đang ốm, và mẹ thường nghĩ bụng nếu chẳng may mẹ chết trước khi được ôm hôn con một lần nữa, thì giờ hấp hối của mẹ sẽ buồn biết mấy!… Con cố về, con ạ, con sẽ làm cho mẹ rất sung sướng.”
Tôi hơi run khi cầm tờ giấy do bàn tay thật thà của người đàn bà tội nghiệp viết từ nơi quê xa ấy!… những người ở quán bia sẽ cười tôi đến thế nào nếu họ trông thấy tôi!
Tôi có thể đi như mẹ tôi nói. Tình cờ tôi lại có một chiếc rơđanhgốt mới tinh và một chiếc mũ vừa sắm.
Về thăm quê cũ!…
Suốt buổi tối, tôi đi chơi một mình dưới những cây ở vườn Luycdămbua, suy nghĩ về việc đó. Tôi đã không đặt chân tới quán bia, sợ làm mờ mất niềm xúc động của tôi.
Thế là tôi lên đường! Tàu hỏa đã cách xa Pari một trăm năm mươi dặm!…
Cuộc sống làng mạc vụt qua trước mắt làm sống lại dĩ vãng thơ ấu của tôi!
Những ngôi nhà nhỏ có dây trường xuân leo quanh và mái ngói đỏ; những sân nuôi gà vịt bừa bãi những thân cây và lưỡi cày rỉ; những mảnh vườn con trồng hoa mặt trời bụng to vàng và rốn đen; những ngưỡng cửa lung lay, những cửa sổ, những con đường đầy nước phân và nứt nẻ; những rào chắn đường với những em bé tựa mũi lem luốc và trán dô vào để nhìn tàu hỏa chạy qua, vẻ giản dị ấy, chất thô kệch ấy, sự im lặng ấy gợi lên cảnh đồng quê, nơi hồi nhỏ tôi đã say sưa với tự do và gió lộng.
Trông những bà đang khom người rẫy cỏ, tôi ngỡ nhận ra các bà cô, bà dì nông dân của tôi; và tôi bất giác đứng lên khi trông thấy mặt gương của một cái ao hoặc một cái hồ; tôi cúi xuống, tưởng như có thể thấy lại chú bé Vanhtrax hồi xưa trong mặt gương xanh lục ấy. Tôi nhìn nước suối chảy và trông theo đàn quạ đen bay trong bầu trời xanh biếc.
Trong khoảng không gian này, với chân trời sâu thẳm và cảnh xa xăm mơ hồ kia, ý niệm về Pari nhòa đi và tiêu tan.
Tất cả đều nói lên với ký ức của tôi, bức tường kia xây bằng đá xếp bừa bãi lên nhau, để hổng những lỗ ánh sáng to như những lỗ châu mai của một chiến lũy bỏ hoang; chiếc thang hái nho kia làm những kỷ niệm về mùa hái nho lấp lánh trong óc tôi như bọt rượu vang mới cất – và cánh rừng tối tăm kia gợi cho tôi nhớ lại cánh rừng thông ảm đạm hồi xưa tôi thích đi sâu vào để được sợ hãi!
Tàu đã tới Lyông.
Tôi không còn ngắm trông những cây dương liễu, những suối, bầu trời! Tôi ngỡ chỉ còn thấy ở trên cao kia, trong mây, một hòn máu đỏ; ở phía dưới, tôi như nghe thấy tiếng bay phần phật của một mảnh tã rách để tang.
Tôi bỏ mũ ra theo bản năng – để chào lá cờ đen… lá cờ đen, lá cờ của công nhân dệt, lá cờ của ngoại ô Croa-Rutxơ.
Chính vào năm 1832[100] trên đỉnh đồi Croa-Rutxơ võ trang này, những người vận áo bludơ xanh, lần đầu tiên đã mang trên những ngọn súng chéo nhau chiếc nôi của chiến tranh xã hội!
May sao tàu chạy qua đó nhanh và không đỗ lại… Không thì tôi sẽ mất niềm vui của trầm mặc êm đềm và sâu lắng trong những cuộc viếng thăm những nơi người ta đã từng thét lên: Sống trong lao động, chết trong chiến đấu!
Tới Xanh-Êchiên, tôi đáp con tàu chạy dọc theo sông Loa.
Xưa nay tôi vẫn ưa thích những dòng sông!
Trong các kỷ niệm hồi xưa, tôi nhớ nhất là con sông Loa xanh biếc! Tôi nhìn ánh mặt trời vỡ tan trong dòng nước; bọt sủi ngầu quanh những vật tựa đá ngầm trắng tựa đăng-ten run rẩy trước gió. Con sông này xưa kia là vật sang trọng của tôi, và tôi đã đi tìm vỏ ốc trong cát mịn bên bờ với mối xúc động của người đi tìm vàng.
Con sông đu đưa trái tim tôi trong làn sóng trong của nó.
Thình lình bờ sông loe ra như một vết thương.
Đó là vì người ta đã phải dùng cuốc và mìn để phá các mỏm đá chắn đường tàu hỏa.
Ở hai bên bờ sông, tưởng chừng như đã có chiến sự diễn ra. Đất thó đỏ cạch, những cây cối chưa bị phá hủy trông buồn bã, cây cỏ tựa hồ như đã bị đại bác bắn.
Chất thơ ảm đạm ấy cũng biết làm tôi nao nao và xúc động. Tôi nhớ lại là tất cả những cuộc đi chơi thuở nhỏ qua đồng ruộng và qua rừng, đều kết thúc bằng những cảnh tượng có màu sắc dữ dội như thế. Muốn được trọn vẹn và sâu sắc, niềm xúc động của tôi cần phải gặp lại những vết sẹo ấy của thiên nhiên.
Cuộc đời tôi đã bị đau khổ cày xới và chà xát như rẻo đất bị cào xé đẫm máu này.
Chà! ta cảm thấy ta quả là một phần của ngươi, một mảnh núi đá của ngươi, hỡi xứ nghèo khổ tỏa ra mùi hoa và mùi thuốc súng, hỡi đất của ruộng nho và núi lửa!
Những nông dân nam nữ qua lại kia, đấy là những anh em vận áo len, những chị em đeo tạp-dề đỏ của tôi… họ được nhào nặn bằng cùng một loại đất sét, trong máu họ có cùng một chất sắt!
Vài tiếng thổ ngữ thình lình phá vỡ cái im lặng của một nhà ga nhỏ ở heo hút gần một cánh rừng thông suýt làm tôi bị ngất.
Tàu sắp đến nơi rồi!
Mặt tôi tái nhợt như tờ giấy, tôi soi thấy qua cửa kính, trông tôi như người chết.
Lơ Puy! Lơ Puy!…
Tôi nhận ra những biển hàng, một cái mũ bằng gỗ đỏ, chiếc ủng có quả tua vàng, hiệu Ngựa trắng, Khách sạn Vivare.
Ở cửa sổ nhà tôi, tôi bỗng thấy xuất hiện một khuôn mặt xanh xao với đôi mắt đen to, khóe mắt, và tôi nghe thấy một tiếng kêu…
- Jắc!
Đó là mẹ tôi gọi và giơ hai tay về phía tôi. Mẹ xuống cầu thang đón tôi và vừa ôm hôn tôi vừa khóc.
- Con có vẻ vô tình làm sao! một lát sau mẹ tôi nói.
Quả là tôi đã cảm thấy như có một mũi dao lạnh nhói vào tim, khi mẹ tôi kéo tôi vào căn phòng như có mùi nhà thờ.
Chỗ nào cũng thấy những di vật tàn tạ: khung tranh cũ, tranh khắc ngả vàng vì thời gian… - Đó là những thứ còn lại của hồi thầy mẹ tôi chưa xa nhau.
Kia là bức chân dung thầy tôi, tóc để thành bờm theo kiểu hồi thầy tôi còn trẻ. Mặt gần như tươi cười và đầy đặn. Nhưng bên cạnh là một bức họa vẽ thầy tôi đã gầy đi và mắt buồn bã. Bức họa này vẽ vào hồi cuộc sống đã làm nét mặt thầy tôi tàn úa và hốc hác.
Đây là chiếc cặp da cũ màu xanh lục của thầy tôi, ở đó thầy tôi đã viết những bài ca thành hình chai lọ và bầu rượu, và trong một ngăn thầy tôi đã ép một bông hoa do mẹ tôi tặng… Bông hoa ấy, mẹ tôi vừa mới lấy ở cặp ra và đem áp vào môi, mẹ lại muốn tôi cùng áp môi vào. Tôi làm việc đó như cái máy và ngượng ngùng…
Tất cả những thứ ấy, hộp đồng hồ mua cách đây ba chục năm, mũ chùm đầu hy-lạp với những bông hồng bạc phếch và bụi bặm, bó hoa với những cánh hoa khô đối với mẹ tôi nó tỏa hương kỷ niệm một ngày hạnh phúc, giữa mọi thứ đó xen lẫn vào những nhánh cây của tuần lẽ Phục sinh và cả những hình thánh, và người đàn bà tội nghiệp vừa chắp tay và ngước mắt lên trời vừa khuấy lên những mảnh vụn của quá khứ.
Mẹ tôi đã im lặng trong đau khổ từ ngày chồng bỏ đi.
Cố nhiên tôi đã cảm thấy màng nước mắt khi khuôn mặt xanh xao và nghiêm nghị của mẹ tôi áp vào mặt tôi, khi mẹ tôi ôm tôi vào bộ ngực gầy gò và run rẩy; con người yếu đuối chỉ còn mỗi tôi để nương tựa, để yêu thương. Nhưng khi thấy mớ di vật kia dựng lên giữa ba người, mẹ tôi, tôi và người bố vắng mặt, thì tôi bỗng nổi giận, và nỗi buồn xâm chiếm tôi nhường chỗ cho một cảm giác khinh bỉ mà nét mặt tôi đã để lộ ra.
Tôi ra khỏi nhà để đi vơ vẩn trong thành phố.
“Con có tới thăm trường trung học không? Mẹ tôi hỏi khi tôi trở về.
- Không ạ.”
Mẹ tôi không hiểu những nỗi buồn bao la đã xâu xé tâm hồn học sinh của tôi trong những ngôi trường tường ảm đạm. Suýt nữa tôi đâm sẵng với sự âu yếm của mẹ tôi bằng những cử chỉ hằn thù man rợ và bằng những tiếng la giận dữ… Tôi đã phải cố nín!
Trường trung học ư? - Tôi đã cố đi tới cổng trường; mà tim tôi đã đập tưởng vỡ! Khi tôi bước vào cái phố nhỏ dẫn đến trường, tôi loạng choạng như người say rượu.
Nhưng tới trước cổng sắt, tôi đã phải tựa người vào một cái cột để khỏi ngã.
Chính nơi đây thầy tôi đã làm giám thị vào hồi hai mươi hai tuổi, đã có vợ, và đã là bố của Jăc Vanhtrax.
Chính ở đấy thầy tôi đã bị sỉ nhục trong bao nhiêu năm trời, chính ở đấy tôi đã trông thấy thầy tôi lén chùi những giọt nước mắt tủi nhục, khi viên hiệu trưởng nói với thầy tôi như với con chó; chính ở đây tôi đã cảm thấy gánh nặng nỗi đau khổ lớn của thầy tôi đè trĩu lên đôi vai nhỏ bé của tôi.
Không, tôi không dám bước qua cánh cổng ấy để nhìn lại chỗ góc sân có lần một đứa học sinh lớn đã nhảy xổ vào thầy tôi để tát.
Có vào không? - Tôi tưởng như tôi sẽ phải nhỏ máu trên mặt sàn buồng học của học sinh lớn, ở đó kê chiếc bàn học của tôi – bên cạnh bàn giảng là nơi mà người sinh ra tôi ngự toạ như tên cai ngục ngồi trên bục buồng ăn ở nhà tù.
“Con có nhớ là hồi học lớp chín, con đã giật được tất cả các phần thưởng không? Hôm phát phần thưởng, con được ba vòng hoa, vòng nọ xếp chồng lên vòng kia…”
Có, tôi nhớ những vòng hoa ấy: tôi rất muốn khóc dưới mớ hoa đó! Đấy là trò lố bịch đầu tiên đã làm sây sát trái tim tôi!
Nhưng bây giờ không nên làm mẹ tôi đến lượt phải khóc; tôi âu yếm tới gần mẹ tôi.
“Mẹ có điều gì cần nói với con…”
Mẹ tôi ho húng hắng, sửa chiếc mũ trắng ngay ngắn trên đầu, nhìn tôi bằng con mắt dịu dàng và sâu thẳm, rồi nhích ghế tới gần cầm lấy tay tôi:
“Con cứ sống một mình mãi mà không thấy buồn ư? Con không bao giờ nghĩ đến chuyện lấy một người đàn bà thương yêu con sao?”
Yêu?
Nhìn cuộc đời chỉ là một cuộc chiến đấu; bản thân là một thằng đào ngũ mà đến bạn bè cũng lưỡng lự không muốn bắt tay, vì tôi có những lý thuyết đến là hung dữ, chửi bới và làm rày họ; không tìm thấy ở đâu một chỗ trú ẩn chống lại những thành kiến và tập tục đang bao vây và đuổi bắt tôi như bọn cảnh sát, tôi thì chỉ có cô nào cũng có tính nổi loạn như tôi mới yêu được thôi. Nhưng tôi đã nhận thấy rằng chất nổi loạn thường giết chết cái duyên dáng! Thế mà tôi thì lại muốn người mà tôi kết nghĩa trăm năm phải có vẻ đàn bà đến tận đầu móng tay, phải đẹp và thanh lịch, và đi đứng như một bà quý phái! Thật là kinh khủng, những sở thích quý tộc ấy gắn với những tư tưởng bình dân của tôi!
“Nhỡ ra con ốm khi ở xa mẹ, hoặc khi mẹ chết rồi!”
Ốm, thôi đi.
Phải giết tôi thì tôi mới chết được; và chắc chắn là người ta sẽ giết tôi trước khi tôi ngẫu nhiên bị bệnh. Tôi chạy theo khởi nghĩa và nổi loạn nhiều quá; chẳng mấy lúc không tránh khỏi ngã xuống trong chiến đấu.
Tinh thần nghỉ ngơi và thèm muốn cuộc sống yên tĩnh dưới vòm cây hoặc bên lò sưởi không đến với tôi! – Mẹ kiếp, không!
Trước hết tôi còn phải phá vỡ cái vòng vây bất lực trong đó tôi đang quay cuồng thất vọng!
Tôi tìm cách trở thành trong phạm vi sức lực của mình người phát ngôn và kẻ cầm cờ của những người bất phục tùng. Ý nghĩ ấy thao thức ở đầu giường tôi từ những giờ phút tự do đầu tiên của thời thanh niên. Buổi tối, khi tôi trở về cái hang của mình, nó ở đó nhìn tôi từ bao nhiêu năm, như một con chó đợi một dấu hiệu để sủa và cắn.
Vả chăng ma nào muốn lấy tôi, một kẻ không nghề, không tiền, không tên tuổi?
Hình như cái thị hiếu đó lại ẩn náu dưới một mái tóc nâu, thật tình trông cũng diễm lệ và sáng ngời cặp mắt tuyệt đẹp!
Do đâu mà người ta biết tôi?
Chính cô ta, cô gái có đôi mắt đẹp, trả lời:
“Do đâu mà biết anh à? Anh có nhớ hồi anh làm ở một toà báo và anh đã phải đấu gươm không? Anh đã đi tìm một học sinh trường Xanh-xia cũng người xứ Ôvecnhơ như anh, để làm nhân chứng. Người ấy chính là anh trai của đứa con gái hèn này; lạy Chúa, đúng thế. Người ấy cùng tên họ với kẻ đang nói chuyện với anh đây và đang phủi bụi trí nhớ cho anh… Anh không nhớ ư?
- Bây giờ thì… nhớ rồi!
- Anh nhớ anh em phải không? Còn em?… Không rồi, nhận đi!… Hồi ấy đối với anh em còn nhỏ quá… Tuy nhiên, xem nào, chắc anh phải nhớ là sau cuộc đấu gươm hụt anh đã đến nhà chú em… ở phố Vôgira… Anh đã ăn ở đấy vài bận… Thậm chí xem ra anh có vẻ đói lắm!… Tưởng như đã hai hôm anh chưa ăn gì cả. Mặc dù vậy, anh vẫn rất xược với con bé con này, nó rất giận anh. Anh tuyên bố khắp xó là anh không thích âm nhạc và anh lạnh như không khi em gõ dương cầm. Anh ưng sang phòng khách hơn để nói chuyện về… tương lai nhân loại với những ông hói trán. Anh đừng chối… Em đã nghe trộm ở cửa.
“Một ngày kia, anh em đã phởi mất với ngù vai thiếu uý. Mỗi lần nghỉ phép về Pari, anh em đều gặp anh. Nhưng anh chẳng xuất hiện trước con bé gõ dương cầm nữa. Câu chuyện như thế. Không, chưa hết… Em sắp đỏ mặt một tí.. đừng nhìn em… Anh đã làm em chú ý vì cái vẻ kỳ quặc của anh… Cái ý nghĩ đấu gươm vì chuyện không đâu, vì danh dự… vì thích nguy hiểm, điều đó làm em quên là anh không ưa âm nhạc của em… dạo ấy em hơi lãng mạn, anh như mang chút oan nghiệt trong người. Rồi anh em từ xa vẫn theo dõi anh trong cuộc sống, chúng em thường nói tới anh, - luôn luôn… Anh em đã kể với em là anh đã rất can đảm và vui vẻ chịu đựng một cuộc sống nào đó mà anh đã vui lòng nhận – để được tự do, - có khi phải ăn bữa tối bằng bánh ngọt chiêu đãi ở những nhà thuộc giới thượng lưu, cũng như hôm anh tới nhà chú em.
Một đôi khi em trút cho anh cả phần của em đấy… anh ạ, mà cả anh lẫn mọi người đều không biết… dù là bánh môka của hiệu Juyliêng mà em rất thích, nhưng em đã hy sinh để nhường anh… Tóm lại, em vẫn có tin tức về anh luôn; mà anh em trong thư từ thường xin bớt chuyện của em để nói về anh; em tưởng còn được đọc những lời đùa giỡn với em, ai ngờ giở sang trang thì lại là chuyện của ông Vanhtrax… Chà! Anh em yêu anh lắm… em đã ghen với anh đấy… nhưng để rồi anh ấy kể lại với anh vì anh ấy sẵn về đây chủ tâm để gặp anh, vì biết anh đang ở đây, vì có một âm mưu, vì anh ấy đã nhét những ý nghĩ gì đó vào đầu óc thầy mẹ em và cả bà cụ anh nữa!…”
Cô ta nghỉ một lát rồi lại nói tiếp, vừa lắc lắc cái đầu như con chim oanh vàng, với cái vẻ hờn dỗi và giễu cợt tí chút:
“Ồ! Không… không đâu!…”
Nói rồi cô bỏ chạy, nhưng cô gửi về phía tôi một nụ cười có cái duyên của một lời thú nhận, và cô nhìn tôi đắm đuối và âu yếm đến mức tôi thấy lạnh ở lưng và ấm trong lòng.
Tối đến, tôi hỏi mẹ tôi về chuyện đó. – Mọi việc đã đi xa hơn là tôi nghĩ. Theo lời mẹ tôi thì tất cả đều xong xuôi nếu tôi bằng lòng; với điều kiện là tôi phải ở lại Lơ Puy và không trở lại Pari trong khoảng một năm, có khi hai năm. - Chà! điều này làm hỏng hết.
“Sao, Jăc, con do dự sau khi mẹ đã phải chạy vạy, cô ấy lại ngoan ngoãn và vừa ý con, mà việc này sẽ giúp con thoát khỏi cảnh bần cùng?”
“Việc này sẽ giúp con thoát khỏi cảnh bần cùng!”
Nhưng nếu tôi muốn không khổ thì tôi đã không bao giờ phải khổ, vì sau những thành công ở trường trung học, tôi chỉ việc nhận đóng vai vĩ nhân tỉnh lẻ. Ngay ở Pari nữa, tôi vẫn có thể tìm được một cần câu cơm, một tấm ván nhảy; tôi vẫn có thể kiếm được quan thầy bằng mũi gươm, nhờ bản chất đa ngôn và sung huyết của tôi, nhờ vào tài bẻm mép và lối ăn nói táo bạo của tôi. Tôi có thể nhờ các giáo sư cũ của tôi ở trường Bônapactơ hoặc ở tỉnh lẻ để giành một địa vị nó sẽ đưa tôi tới mọi thứ. Người ta đã năm mười phen khuyên tôi như vậy. Nếu tôi nghèo, thì chính là vì tôi đã muốn thế; tôi chỉ cần bán cho những kẻ quyền thế tuổi trẻ và sức lực của tôi.
Tôi có thể vớ được từ lâu rồi một cô thiếu nữ cần gả chồng, cô ta sẽ đem lại cho tôi hoặc những đồng êquy hoặc những quan thầy.
Quan thầy hay đồng êquy đều có mùi máu của cuộc Đảo chính; thế mà tôi cứ nằm trong bóng tối để ăn những khúc đuôi cá của lão Tuyêckê.
Nhưng, giàu có, con có thể bênh vực những tư tưởng của con và đem những tư tưởng ấy viết vào sách, như vậy con sẽ giúp đỡ người nghèo được nhiều hơn là cứ ngập ngụa trong cái cảnh nghèo đói nó bó tay con lại, và (mẹ xin lỗi đã nói với con như thế) nó có thể làm cho lòng con trở nên chua chát.
Những lời lẽ ấy cũng có phần đúng.
Thấy tôi lung lay, mẹ tôi nói tiếp:
“Con ạ, con làm gì thì cũng là tốt thôi, mẹ sẽ không trách con đã không nghe lời mẹ… Bây giờ con lớn rồi… Mẹ đã phải tự trách mình nhiều vì đã không hiểu con khi con còn nhỏ… Nhưng mẹ xin con, con chớ nên hấp tấp!”
Được rồi, tôi sẽ không phá vỡ cái gì hết: tôi sẽ chờ đợi; nhưng tôi còn phải xem người muốn lấy tôi có muốn làm người bạn đường và người đồng bọn của tôi không…
Ngay ở nhà thầy tôi nữa, đời sống của tôi cũng được đảm bảo; dù có vẻ hết sức nghiệt ngã, ông giáo sư tội nghiệp ấy vẫn yêu tôi.
Tuy nhiên tôi ghê tởm cuộc sống đó! Tôi đã trốn nó, để bước vào những ngày không bánh mì, - vì toàn bộ khuynh hướng của tôi xung khắc với khuynh hướng của thầy tôi, vì toàn bộ tư tưởng của thầy tôi chống lại tư tưởng của tôi, vì trái tim hai cha con không đập cùng một nhịp và ánh mắt hai cha con, sau những cuộc cãi lộn cay đắng, đã, ngoài ý muốn, chứa chất đau khổ và oán thù…
Số tiền – một trăm nghìn phơrăng! Năm nghìn phơrăng thực lợi, hai mươi nghìn sau khi bố mẹ mất. – Thật là tuyệt! Có thể in được biết bao lời hô hào cầm vũ khí với số tiền ấy.
Nhưng nếu cô ta không nghĩ như tôi!…
Cô ta sẽ bảo là tôi ăn cắp hoặc phản bội cô ta, khi những mối giận dữ cộng hoà của tôi nổ vào cái xã hội thành phần của cô ta.
Từ buối sáng hôm nọ tôi biết rõ sự tình rồi. Thế là chấm dứt vĩnh viễn!
Hai chúng tôi tới một khu ngoại ô ở đó, một giáo sư đồng nghiệp cũ của thầy tôi đã tổ chức một thứ cơ quan cứu tế.
Lúc trở về cô ta bảo tôi:
“Khi nào chúng mình lấy nhau rồi, anh đừng dẫn em tới những khu phố buồn bã nữa. – Em trước hết, cô nói tiếp với vẻ mặt vô cùng kinh tởm, em không ưa những kẻ nghèo…
Chà! Cô gái đành hanh! Người mà tôi có thể cùng gắn bó cuộc đời! Cô gái nhà giàu đã vô tình khinh bỉ chính người mà cô định lấy làm chồng! Vì hắn, hắn vốn nghèo! Cô sẽ khinh hắn biết mấy nếu cô biết hắn đã đói!
Cô ta cảm thấy rõ là mình đã gây ra một vết thương.
Cô liền nắm lấy cánh tay tôi, đặt con mắt âu yếm của cô vào con mắt nghiêm nghị của tôi:
“Anh không hiểu em.” Cô khẽ nói, lo lắng muốn xoá nếp nhăn hằn trên trán tôi.
Xin lỗi cô tư sản! Lời nói mà cô buột miệng thốt ra đúng là tiếng kêu của trái tim cô và mọi cố gắng của cô để sửa chữa tai hoạ chỉ làm cho vết thương càng thêm nhiễm độc.
Còn tôi thì ức máu, ứa nước mắt vì chuyện đó! Là vì tôi yêu thương cô gái ăn vận đẹp và rất thơm tho ấy!
Nhưng đừng sợ, hỡi các bạn chiến đấu và các bạn cùng khổ, tôi sẽ không bỏ các bạn!
“Anh giận em, có thể nói là anh căm ghét em từ hôm nọ. Anh hãy nói thật đi, nào, cô vừa nói vừa đứng sững trước mặt tôi.
- Phải đấy, tôi giận cô – vì cô đã dọi một tia nắng vào bóng tối tuổi thanh xuân của tôi, và vì tôi khao khát yêu đương và hạnh phúc. Nhưng tôi còn khao khát công lý hơn nhiều… một tiếng làm cô buồn cười… có phải không?
Nhưng sự thực là như thế đấy… người ta chỉ kể lại cho cô nghe cái mặt ngộ nghĩnh trong cuộc đời giang hồ của tôi… nhưng cuộc đời ấy đã để lại cho tôi những cảm giác nhức nhối, lòng căm thù sâu sắc những tư tưởng và những con người đè nén những kẻ tăm tối và những người bị tước khí giới. Đao to búa lớn!… Biết làm sao được? Những lời ấy diễn tả đúng thực trạng tim óc tôi! Ở đấy vẫn còn chỗ cho vẻ kiều diễm của cô và những thú vui êm đềm mà cái duyên dáng của cô có thể đem lại cho tôi, nhưng cùng với cái sức khoẻ dồi dào của trinh nữ, cô còn cần phải mang một chút cái bệnh kẻ vốn dĩ nghèo của tôi…”
Và tôi đã để đứng sững đấy cô gái đã là vị hôn thê của tôi! Tôi chạy trốn, đầu rụt vào cổ áo rơđanhgốt như một con đà điểu, để mẹ tôi đau khổ ở lại. Tôi chuồn với chuyến tàu đầu tiên, tuyệt vọng.
Tôi sợ cái môi trường mà tôi sắp trở lại, tôi đã thấy nó ảm đạm khi tôi chưa vượt qua biên giới của nó, nhưng bây giờ như càng thấy nó âm u hơn sau khi đã trông thấy những dòng sông trong trẻo, những cánh rừng sâu; nhất là sau khi đã trông thấy một ngôi nhà sung sướng chan hoà ánh nắng, xa hoa và hạnh phúc; ở đó một nhân vật thanh lịch và tế nhị đã lượn quanh tôi với những điệu bộ tình tứ; ở đó tôi được người ta nhìn với con mắt đầy âu yếm và đầy ước mong.
Một lời nói, chỉ một lời nói đủ để bôi đen cái nền trong sáng ấy, để phết một vết ghẻ lở lên chân trời. Có những lúc, tôi thấy mình ngốc quá!… Tôi hối hiếc hành động can đảm của mình.
Ở một chỗ tàu đỗ, tôi đã mất năm phút do dự, sẵn sàng bỏ con tàu đưa tôi về Pari để đợi con tàu đưa tôi trở lại Lơ Puy…
Thôi! Tàu đã đến.
Lúc ấy ba giờ sáng.
Tôi để lại hòm ở phòng hành lý, vì không biết rằng ở nhà trọ, vào giờ này, sau khi đi vắng lâu, căn buồng của tôi có còn hay không, và tôi đi lang thang qua các phố cho đến sáng.
Lại thêm một việc can đảm mà tôi không thể làm liền hai đêm được: đi lang thang trên các vỉa hè, nhìn trăng lặn và mặt trời mọc!
Khi bình minh đến, đặc biệc có một lúc bầu trời giống như một rạng đông bẩn thỉu hoặc như một vệt sữa xanh lam nhạt; lúc ấy trong các tấm gương bên ngoài các hiệu bán đồ trang sức và các hiệu thợ cạo, người ta thình lình nhận ra mình: một bộ mặt nhợt nhạt trên một chân trời khắc khổ và buồn bã như sân một nhà tù.
Cái im lặng thật kinh khủng và hơi lạnh thấm vào anh: người ta cảm thấy da căng lên và thái dương thắt lại. Cảnh bình minh có những ngón tay hồng mà các thi sĩ thường nói đến ấy chụp lên mặt anh một chiếc mặt nạ bẩn thỉu, và rốt cuộc hai bản chân vấy cả bùn lẫn máu… Anh có dáng điệu một kẻ ăn mày và một người què cụt.
Tôi gặp những người không nhà không cửa, đang cúi đầu lê bước; tôi tìm ra những kẻ nằm dài như ruồi chết trên các bậc thềm trắng như đá mộ.
Trong số đó một người đã nói chuyện với tôi; anh ta gầy gò và lom khom, mặc dù tuổi không quá ba mươi; nước da anh hầu như xanh ngắt và hai tai vểnh ra như tai người lao phổi.
- Thưa ông, anh ta nói với tôi, tôi đỗ tú tài. Tôi đã bắt đầu học luật. Bố mẹ tôi chết, không để lại cho tôi gì cả. Tôi đã làm giám thị nhưng rồi bị đuổi vì tôi khạc ra máu. Tôi không có chỗ ở và chưa ăn uống gì từ hai hôm nay.
Tôi cảm thấy kinh sợ như một đêm, ở thôn quê, lúc rẽ vào một con đường ngập ánh trăng rằm, tôi bắt gặp một mụ ăn mày đầu đội một chiếc mũ trắng to, mặt tròn và tái mét, con mắt nhìn chòng chọc, mình vận chiếc áo dài đen.
Thình lình chiếc áo vén lên bằng một cử chỉ vụng về, qua làn áo động đậy, tôi nhận ra đó là một người đàn ông mặc giả đàn bà! Tại sao vậy? Hắn là một thằng điên hay một kẻ sát nhân? Một kẻ trốn khỏi nhà thương điên, một gã xổng tù mệt mỏi vì chạy trốn đang dừng lại một phút giữa nhà tù và máy chém?
Qua môi hắn chỉ lọt ra mấy tiếng như sau:
- Anh đừng sợ, cứ đi! Anh hãy thương tôi.
Trước con người của Pari ấy với đôi tai vểnh, và đang thều thào: “Tôi đỗi tú tài, tôi khạc ra máu, tôi chết đói”, trước sự hiện hình đó, cũng như trước người đàn ông mặc giả đàn bà, tôi đã cảm thấy kinh hoảng!
Anh ta cũng đỗ tú tài như tôi… và anh đi ăn mày; và anh không còn sống nổi một tuần lễ nữa… có thể anh sắp thốt ra tiếng kêu cuối cùng rồi tắt thở!
Trong cái yên tĩnh bao la của ban đêm, giữa đường phố vắng vẻ, thật là buồn!
Tôi đã bỏ đi; bỏ đi không ngoảnh đầu lại…
Vì anh là người ngang hàng với tôi về học thức và y phục! Vì anh cũng hiểu biết như tôi – có khi hơn tôi nữa!
Anh ta bước đi, bụng rỗng, mắt ngơ ngác… Anh bước đi và cái chết chưa ban ơn cho anh, nó chưa vặn cổ anh!…
Tim anh vẫn đập, óc mệt mỏi của anh vẫn suy nghĩ – và tim ấy, óc ấy không tìm được cách gì giúp anh khỏi chết như con chó – không; không tìm được cách gì hơn là hành khất, hành khất đẫm lệ!
Đáng lẽ tôi phải nói chuyện với anh, đưa tay cho anh vịn, đỡ anh đứng trên vỉa hè! Tôi đã sợ bị lây bệnh sốt của anh, bệnh của người lao phổi và những kẻ ăn mày…
Buổi tối, tôi kể chuyện lại cho các bạn nghe.
Họ không rùng mình như tôi đã rùng mình, họ lại còn bông lơn tính đa cảm và nỗi khiếp sợ của tôi.
Một anh trong đám cử toạ, sống với nghìn phơrăng thực lợi và được mệnh danh là Nhà hùng biện, vì một đôi khi anh có những cử chỉ và những cơn hùng hồn, đã chua chát mỉm cười:
“Các cậu sẽ nói gì về một người thuỷ thủ suốt đời chỉ phản nàn cho những kẻ bị đắm tàu và có vẻ van xin đại dương đừng gây ra cảnh hấp hối của biết bao nạn nhân!”
“Buồng của anh vẫn để không đấy”, ở khách sạn cũ người ta trả lời tôi khi tôi trở về vào buổi sáng.
Nhưng mấy lá thư, đã cũ từ tám ngày, báo cho tôi biết là hai chỗ dạy học, hai chỗ tốt nhất đã bực mình vì tôi và đã rẫy tôi. Chỉ còn lại chỗ xoàng xĩnh. Thế là nhào! Tôi lại ở tình trạng y như lúc mới bắt đầu.
Phải bắt đầu lại tất cả sau bao nhiêu do dự, bao nhiêu cố gắng, đau khổ! Thì tại sao tôi lại bò về cái xó tỉnh lẻ ấy? Làm gì có thì giờ để giở chuyện tình cảm và nghỉ ngơi khi đã phải buộc mình để bán tiếng la-tinh và hy-lạp vào giờ nhất định và khi đã có những thời kỳ bất khả xâm phạm để làm chuyện đó?
Tôi đã mơ ước thăm lại quê hương như Cô gái quay đàn trong kịch bi lụy hoặc như Chú bé miền Xavoaya! Bộ ba ngốc!
Tôi lại chạy tới những chỗ dạy học đã mất, tôi đã có can đảm tỏ ra hèn nhát và xin lỗi người ta.
Nhưng những chỗ ấy có người cả rồi và người ta không thể hoặc không muốn đuổi những người đã thế chân tôi.
Nếu phải đợi một tháng nữa mới kiếm được ít tiền thì tôi sẽ không còn có tư cách để ló mặt ở đâu nữa. Tôi hiện chỉ còn mỗi một bộ quần áo sạch sẽ, áo rơ-đanhgốt, quần và gilê toàn đen – còn hơi đen, tuy có chỗ đã trơ cả sợi.
Tôi có đủ tiền để ăn và trả một buồng trọ tồi tụy với số tiền hai mươi sáu xu và ba xăngtim mỗi ngày của tôi, nhưng quần áo đối với tôi là công cụ. Tôi cần có quần áo sạch sẽ và tươm tất.
Tôi quen thuộc Xixêrông, Viêcgin, Hôme, tất cả các đại tác gia cũ nhưng tôi không quen một hiệu thợ may nhỏ tồi tàn để vá hoặc may quần áo cho tôi.
Đã lâu lắm rồi tôi không dám đi qua cửa hiệu Cômông, vì tôi không trả được giấy đòi tiền cuối cùng của họ. Tôi đã tìm một chỗ dạy học rất tốt ở gần đấy. Nhưng tôi không dám nhận, sợ gặp ông thợ may và nhỡ ra ông ta gây chuyện ầm ĩ.
Chú thích:
[98] Điôgienơ: triết gia Hy-lạp cổ, đã có lần cầm đèn đi giữa ban ngày “để tìm một con người”.
[99] Về bà Brinhhôlanh cũ, xem tập: Chú bé, chương XVI.
[100] Đúng hơn, ngày 21 tháng 11 năm 1831.