- XXIX - THƯA ÔNG, ÔNG BÔNÁCĐEN (Bonardel)
Làm gì?
Chép sổ sách chăng? Nhưng liệu tôi có làm được không? Chữ viết của tôi như trẻ con, rối rắm và khó đọc. Trong các lớp văn chương người ta thường nói: “Chỉ có bọn ngu mới viết đẹp thôi”; người ta hứa tặng giải thưởng tập viết cho anh nào ngu nhất. Và tôi, phụ hoạ với ông giáo của tôi, con người ngu ngốc ấy! Với thầy tôi, con người mù quáng ấy! Tôi đã gần như tự hào vì viết chữ rất xấu. Người ta thấy chuyện đó ở một anh học giỏi là độc đáo và có điệu.
Nếu hồi xưa không làm diễn văn la-tinh, mà tập viết, - không nghiên cứu Xixêrông mà nghiên cứu Favacgiê[101] – thì nay tôi có thể chép sổ sách ban ngày và được rỗi mỗi buổi tối, hoặc chép ban đêm để ban ngày học tuỳ ý; chỉ cần có thế để tôi được tự do.
Dù sao tôi vẫn đi tìm những nơi mượn người sao chép ở những bảng căng lưới thép ở Toà Án, trên các cột báo của tờ Quảng cáo nhỏ, trên những biển treo ở nơi đi tiểu, và tôi tới các địa chỉ được ghi.
Người ta cười vào mũi tôi khi tôi đưa ra những mẫu chữ của mình; người ta dẫn tôi đến trước mặt những người trông như hạ sĩ quan hoặc quản lý văn khế, họ viết không khác gì thợ khắc – cứ như in ấy!
Tôi chỉ chuốc lấy một phen xấu hổ mà thôi; tôi không thể kiếm ăn bằng cách ấy được.
“Dù anh có hoa tay đi nữa cũng vẫn khó khăn lắm! Làm việc này không sống được đâu; anh sẽ mờ mắt vẫn không kiếm đủ ăn”, một trong số những tay bút thiếp đỏ bảo tôi.
Cần phải quen những cửa hiệu nổi tiếng, - muốn vậy phải có thời gian và có quan thầy mạnh!…
Ông ta có vẻ quả quyết với tôi rằng việc ấy cũng khó được bổ tỉnh trưởng hoặc lãnh sự.
Có lẽ như thế thật! Mà cũng không chắc gì hơn!
Chữ viết của tôi nó giết tôi. Tất cả những mưu toan của tôi chui vào bất cứ đâu đều rớm máu và chết ngỏm dưới đầu ngòi bút vụng về của tôi.
Hay tôi có thể làm thủ quỹ, làm thư ký giữ sổ sách?
Tôi sẽ làm việc đó!
Tôi tưởng với ý chí con nhà nông dân, tôi sẽ có thể tự nhồi vào sọ những khái niệm khô khan cần phải có ở xứ sở của đá và sắt, tôi sẽ rèn được đồ nghề để làm nhân viên công xưởng hoặc nhà máy. Tôi sẽ học các con số, tôi sẽ bám chặt vào toán học như Quadimôđô[102] bám vào quả chuông, dù có bị rách màng nhĩ, ê chề đầu óc, gẫy cánh tưởng tượng.
Ôi chao! Thật là kinh khủng nếu tôi trở thành một tay tính toán, không ước mơ, không hi vọng nữa, một kẻ mà tư tưởng nổi loạn hay văn thơ đã tiêu tan! Nhưng tôi hình dung rằng người có tài năng sẽ chống lại được – và tôi sẽ chống lại!
Nào! Tôi sẽ tới gặp các thương gia, và tôi sẽ kêu bảo họ: - Đây, ba năm của tuổi thanh niên của tôi đây. Tôi sẽ bán, sẽ đong, sẽ hô tới quỹ; tôi sẽ đóng gói hoặc sẽ bán kim chỉ!…
Liệu ít ra, sau ba năm, tôi có chiếm nổi một chức vụ để được tự do không?… để còn thì giờ mà tự vấn và chuẩn bị việc bênh vực hoặc cuộc nổi loạn của ngưởi khác?
Một người bạn quê ở Len, sau khi nghe tôi nói chuyện đó, lắc đầu và bảo tôi:
“Sau ba năm, mày vẫn sẽ là nô lệ như ngày đầu tiên! Mày vẫn sẽ vụng về như bây giờ! Cứ cho là mày quen được công việc, mày không bị đuổi hết nhà này đến nhà khác – điều đó là nghiệp dĩ của con buôn – còn như được tự do! Mày điên à? Được tự do sau ba năm!… Đến sau năm năm, mười năm cũng đừng hòng!… Cuộc sống ấy chỉ có thể sống nổi đối với kẻ nào ưa nó, và chỉ tốt đối với kẻ nào có thể; một ngày kia nhờ tiền của ông bố hoặc của cô vợ chưa cưới, mua một cửa hàng, - rồi từ đó, hành hạ nhân viên, lừa bịp khách hàng để trở thành giầu có mà không bị vỡ nợ - hoặc phá sản!… Mày có ưa cái đó không? Mày có vốn liếng như thế không?… Mày có lòng can đảm ấy, sự hèn nhát ấy không? Vanhtrax ơi, tao là con một nhà buôn phất lên, và tao biết rõ chuyện ấy lắm!… Mày vào làm ở cửa hiệu bố tao ngày mai thì chỉ mười lăm hôm nữa, mày sẽ tát tai và chửi vào mặt ông ấy! – dù cho bố tao là người tốt đến thế nào, dù mày là chàng trai ngoan đến thế nào! Mày đừng nghĩ tới chuyện đó nữa! Tốt hơn là mày đem những cái bạt tai và cái tham vọng của mày đặt vào chỗ khác.”
Tôi bật cười. Anh ta nhận xét rằng chỉ tiếng cười đó cũng là một trở ngại rồi.
“Cứ như sấm ấy! Mày là một gã bán hàng tối, với tiếng cười ấy!… Thì ra tất cả mọi cái đều chống lại mày, khốn khổ! Đôi mắt đen của mày, tiếng nói oang oang của mày, cái vẻ nổi loạn, đấm đá của mày!… Không cần những cái đó để bán băng, bán dạ, để rao hàng, để bán trôi hàng ế! Mày hãy gạch bỏ nghề buôn bán trên giấy tờ của mày – trừ phi mày đăng lính, rồi một sớm mai nào đó mày bị đạn xuyên một cách vinh quang vì tổ quốc, và được huân chương! Khi ấy với chiếc ca-lô có quả tua và một bộ đồ đen, mày sẽ có thể, như nhân vật của Nhà Tiên tri đứng trước các cửa hiệu để mở cửa, để cầm ô cho khách hàng, làm biển hàng cho cửa hiệu bằng cách trưng ra mảnh cuống huy chương trên khuyết áo, to bằng cái mẹt.”
Tuy nhiên tôi vẫn phải biết thật đích xác việc này!
Tôi sẽ nhờ tất cả những ai có vẻ yêu mến tôi đôi chút và xin họ viết thư giới thiệu tôi với bất cứ ai và bất cứ nơi nào.
Tôi đã viết thư cho tất cả các giáo sư cũ của tôi – không, không phải cho tất cả! Tôi không có tiền mua tem và cũng không còn giấy nữa.
Tôi đợi thư trả lời.
Bốn ngày, tám ngày, mười lăm ngày! Chẳng thấy gì cả!
Có nên viết nữa hay không? Nhưng tem đâu?…
Hãy cố gắng một lần cuối cùng nữa, xem nào!
Hãy siết chặt thắt lưng, ăn toàn bánh mì đen – không ăn cái gì khác trong hai ngày và mua tem dán hai bức thư nữa.
Tôi đã bị khốn khổ về chuyện phong bì! Tôi chỉ còn mỗi một chiếc phong bì sạch sẽ - chiếc kia đã cũ rồi. Tôi tiêu mất một xu ruột bánh mìn để tẩy sạch nó. Chiếc phong bì khốn khổ, nó ăn mất một góc bữa sáng của tôi.
Cuối cùng tôi nhận được một bức thư của cụ Xivan.
“Tôi đã lục lọi trong ký ức, và nhớ ra rằng người bố một học sinh cũ của tôi, ông Bônácđen, hiện là một nhà sản xuất lớn ở Pari…
Có thể là ông ta sẽ mượn anh vào việc thư từ giao dịch bằng tiếng Ănglê. Anh chẳng đã được phần thưởng về tiếng Ănglê đó sao?
Kèm theo đây là bức thư viết cho ông Bônácđen.”
Ông Bônácđen ở mạn Quần ngựa, trong một ngôi nhà lớn, nó làm tôi phát sợ vì vẻ im lặng của nó… Đấy là nhà riêng của ông.
Tôi hỏi bác gác cổng:
“Ông Bônácđen có nhà không?
- Không, không có nhà.”
Một câu “không có nhà” hỗn xược như một cái đá.
Thế là đành bó tay với bộ áo lót trắng cố ý phô ra, với bộ đồ mặc ngoài khó nhọc lắm mới thành, và lại phải xuôi về Pari để ngày mai quay lại đây, nếu tôi có can đảm.
Chà! Tôi ưng đấu gươm, vượt qua lửa đạn của một đại đội – tôi sẽ đi thẳng người, tôi tin vậy – chớ như trở lại đây ngày mai, vụng về và run sợ!
“Ông Bônácđen?”
Cũng vẫn câu trả lời như hôm qua.
“Tôi có việc rất cần phải nói với ông ấy”
Lão gác cổng nghe tôi nói, hỏi tên tôi…
“Ông Vanhtrax.
- Ông nói sao?”
Lão bảo tôi nhắc lại; tôi trả lời rụt rè – lão nghe ra là Vanhtrax – tôi đã không dám nhấn mạnh chữ x, tôi ăn bớt chữ x là một chữ rắn, không âm.
“Ông có danh thiếp đấy không?
- Tôi quên mất.”
Không đúng, tôi không có danh thiếp – tôi có để làm gì? – và sáng nay, tôi không tìm ra một mảnh bỉa cứng để làm một chiếc danh thiếp…
Lão gác cổng không bị lừa và vừa nhìn khắp người tôi một cách khinh bỉ, vừa leo lên chiếc cầu thang lớn chắc hẳn dẫn đến buồng ông Bônácđen.
Tôi có chờ đợi quyết định của toà án cũng không hồi hộp bằng. Tôi nghe tiếng bước chân lộp cộp, cánh cửa rít lên, tiếng dội lại buồn bã.
Hai người nói… lão gác cổng quay xuống…
“Ông Bônácđen nói là không quen ông. Ông cần viết thư nói tại sao ông muốn gặp ông chủ.”
Tôi tới nhà một người bạn có giấy và phong bì để viết thư; nhưng rồi sau này anh ta không cho tôi viết thư ở nhà anh nữa.
Tôi dùng mất ba quyển vở, sáu ngòi bút – nháp đi nháp lại, hết giập lại xoá!
Về chữ đề đầu bức thư, tôi phải viết đi viết lại mất ba lần.
Phải đề như thế nào?
Thưa ông.
Thưa ôngBônácđen
Hay đề:
Thưa ông Bônácđen
Đơn giản – trên một dòng thôi?
Trong giao dịch người ta làm thế nào?
Tôi viết hú hoạ hai lần thưa ông! Thà rằng thừa một thưa ông còn hơn thiếu một thưa ông.
Tôi đính bức thư của giáo sư già kèm vào bức thư của tôi.
Thư trả lời tôi.
“Ông Bônácđen sẽ tiếp ông ngày mai, thứ sáu, vào lúc tám giờ sáng.”
Tôi dậy từ năm giờ - phòng xa – trời lạnh. Tôi bắt buộc phải tụt giầy ra và lấy tay ủ hai bàn chân cho tới sáu giờ sáng.
Trời mưa.
Cố nhiên tôi không có tiền để đi xe. Tôi phải vừa đi vừa nhảy để tránh những vũng nước; tôi đã phải nhảy suốt từ Khu phố La-tinh tới Quần ngựa. Chiếc quần đen nhúng bùn. Tôi phải lấy mùi-soa để chùi.
Ủng của tôi cũng bẩn; tôi gột ủng bằng các thứ giấy mà có trong túi. Trong đó có những bức thư tôi rất quí, nhưng tôi không thể lem luốc thế này mà tới được!
Ôi nhưng bức thư nào tình, nào nghĩa, tuổi thanh xuân!
Cuối cùng, tôi buộc phải rửa hai bàn tay ở cống. Tôi cảm thấy trong găng tay vẫn còn đá sỏi, nhưng tôi không còn một vết bùn. Khốn thay nó lại mờ đi! Đôi ủng mà tôi đã lau bằng mùi-soa cũng bị mờ; người ta có thể cho là tôi đã đánh ủng bằng mỡ lợn.
Để đến đúng giờ đã định trong thư, tôi đã mưới lần tới nhìn qua cửa lùa của một hiệu bán rượu vang ở góc phố; tôi bước rón rén trên đầu ngón chân tới đó để khỏi bị lấm bùn lần nữa. Tôi như một ông thầy dạy múa.
Cuối cùng, đã tám giờ kém năm. Tôi cần năm phút ấy để đi tới.
Tôi tới nơi.
Ông Bônácđen đã dặn trước.
Tôi vừa ló mặt, lão gác cổn đã bảo tôi:
“Ông theo tôi.”
Lão dẫn tôi leo cầu thang lớn tới một cánh cửa rồi để tôi đứng sững đấy. Cuối cùng lão quay ra và làm hiệu bảo tôi vào.
Tôi vào.
Ông Bônácđen chỉ chỗ cho tôi ngồi.
Tôi đợi.
Không thấy gì cả!
Ông nhìn vào đống giấy tờ - và có vẻ không để tâm tới tôi nữa. Nếu tôi muốn, tôi có thể gấp giấy tết chim để chơi.
Tôi khẽ hắng giọng - ông ta cũng mặc; tôi có thể đằng hắng, tôi có thể hừm một tiếng và đưa bàn tay đeo găng đen lên che miệng, ông ta vẫn viết!
Cái im lặng đó, thật là kinh khủng!…
Hay tôi đành vỡ một cái gì?…
Tôi bỏ rơi mũ; cái mũ lăn tới cuối buồng, lượn một vòng lớn trước khi dừng lại, như một con cù trước khi đổ…
Cái mũ của tôi nhộn thật!..
Tôi chạy theo cái mũ; cũng phải mất một lúc. Tôi nhặt mũ lên; tôi có đủ thì giờ để nhặt mũ, để quay về chiếc ghế. Ông Bônácđen vẫn để tôi tự do, yên ổn. Tôi không làm phiền gì ông.
Chà! mặc kệ. Tôi phải phá vỡ tảng băng!
- Thưa ông. THƯA ÔNG BÔNÁCĐEN.
Tôi quyết định nói, nhưng vì đã viết hai chữ thưa ông lên đầu bức thư hôm nọ, cái đó còn lưu lại trong đầu tôi nên tôi nói thưa ông, thưa ông Bônácđen như thể đọc phong bì lá thư của tôi.
Ông ta không nhúc nhích. Hẳn ông cho là tôi đang viết thư cho ông, ông chờ tôi đưa bức thư ấy.
Tôi nói lại một lần nữa, vừa xác định thêm cho rõ: “Thưa ông Bônácđen, phố Côlydê, số nhà 28 …”
Tôi hy vọng ở đây không có điều gì lầm lẫn và tôi đề phòng khá chu đáo!
Vẫn là nhớ lại chiếc phong bì!
Ông Bônácđen có bị ngạc nhiên về việc tôi quá cẩn thận như thế không? Ông có nhận thấy ở đây những tập quán thương mại thực sự đứng đắn và bao giờ cũng có ích hay không?- Có lẽ thế thật, vì, quay sang phía tôi:
“Ông Vanhtrax… ông nói với điệu bộ của một con thỏ bằng thạch cao.
- Số 13, phố Xanh-Jắc!”
Ông Bônácđen nghiêng mình.
Chúng tôi đích thị là hai con người sở cầu. Không có gì bất ngờ bết.
Và bây giờ tôi muốn gì nào? Con mắt ông Bônácđen, ở phố Côlydê, số nhà 28, hỏi ông Vanhtrax, ở số nhà 13 phố Xanh-Jắc, xem có chuyện gì.
Cố nhiên tôi đến đây không phải để lăn mũ xuống đất và để đọc phong bì cho ông nghe.
Tôi phải trình bày.
“Thưa ông, tôi còn trẻ…”
Tôi nói câu ấy rất to, tưởng như tôi thú nhận một điều gì rất khó nói: tưởng như, về mặt khác, tôi đã quyết đinh một bề hẳn hoi.
“Tôi còn trẻ…”
Ông Bônácđen có vẻ không lấy thế làm buồn mà cùng không lấy thế làm vui. Chuyện ấy chẳng động chạm gì đến ông cả!
Tôi gạt tuổi của tôi đi và nói tiếp luôn một mạch:
“Thưa ông, với sự giới thiệu của cụ Xivan, giáo sư cũ của tôi, tôi mong rằng ông sẽ chiếu cố đến tôi và giúp tôi có được một chỗ làm, mà tôi khó lòng tìm được nếu không có chỗ quen biết và nơi nhờ cậy”
Ông Bônácđen ra hiệu bảo tôi dừng lại - và chậm rãi nói:
“Ông biết làm gì?”
TÔI - BIẾT- LÀM - GÌ?
Ông hỏi tôi câu đó thật đột ngột, sát sàn sạt!…
TÔI - BIẾT- LÀM - GÌ?
Nhưng tôi lại không chuẩn bị trước! tôi đã không có thì giờ để nghĩ tới chuyện đó.
TÔI - BIẾT- LÀM - GÌ?
Tôi có bằng tú tài.
Ông Bônácđen hỏi lại to hơn: chắc ông tưởng tôi điếc. “Ông - biết - làm - gì?”
Tôi vặn chiếc mũ, tôi tìm…
Ông Bônácđen chờ một lát, cho tôi hai phút.
Hai phút trôi qua, ông giơ tay về phía dây chuông và kéo.
“Đưa ông khách ra.”
Ông lại chúi mũi vàọ giấy tờ. Tôi theo gót người đày tớ và đi ra, hoang mang.
TÔI - BIẾT- LÀM - GÌ?
Tôi còn tìm mãi suốt đêm, tôi chẳng thấy gì cả.
…………………….
Tôi làm quen với con một ông chủ nhà máy, một chàng trai tốt bụng, tôi trình bày thẳng thắn cho anh biết tình hình tài chính, tư tưởng và tham vọng của tôi; tôi thổ lộ cho anh biết những nỗi gian truân và những sự vụng về của mình.
Anh vui vẻ trả lờ tôi:
“Tôi có một ông bác cũng là sản xuất, nhưng ông bác tôi sẽ không tiếp anh như ông Bônácđen đâu. Tôi sẽ nói chuyện anh với bác tôi: thứ ba anh hãy tới gặp ông ấy, và chúc anh may mắn!”
Thứ ba đã tới.
Tôi thổ lộ với ông ta, ông ân cần lắng nghe tôi.
Khi tôi nói xong:
“Thế này! Tôi không muốn người ta nói một thanh niên có chí, muốn có việc làm, lại không tìm được việc ở nhà tôi. Anh sẽ vào nhà máy để làm việc thư từ. Anh biết thảo một bức thư, hiểu người ta nói gì trong thư của người khác chứ? “
Tôi đáp: “Vâng”.
Tôi ắt phải biết viết một bức thư, vì tôi đã mười năm ăn học!
“Ngày kia anh tới đây.”
Đến ngày hẹn, tôi tới.
Người ta nhìn tôi nhiều lắm.
Những áo bludờ xanh, áo ngoài ngắn, áo nịt, tạp-dề, những sơ-mi màu, những người thợ và lao công chằm chằm nhìn chiếc áo rơđanhgốt đen của tôi với vẻ thương hại.
Thế mà, áp rơđanhgốt của tôi sạch sẽ: cài cúc tử tế, để che chiếc áo gilê nhầu nát, nhưng không có vết bẩn cũng như lỗ thủng, và cổ áo sơ mi trắng tinh bẻ xuống chiếc ca-vát xatanh đen. Giày tôi bóng nổi lên.
Rồi đây tôi cũng có “nổi” không?
“Đi đàng này, ông Vanhtrax…”
ông Maya dẫn tôi đi theo một hành lang dài ngổn ngang những mảnh sắt rỉ, tới một buồng che kính trong có một chiếc ghế cao, một bàn gỗ cũng rất cao, có giấy xanh, bút lông ngỗng và đống thư từ đến buổi sáng.
- Đây là bàn giấy của ông.
Tôi làm vẻ mặt thỏa nguyện; tôi nhếch một nụ cười biết ơn.
“Bây giờ, ông Maya nói thêm, ông sẽ xem chỗ thư từ này; một tiếng nữa tôi sẽ quay lại, và ông sẽ cho tôi xem cách sắp loại, cách ghi chú của ông… Tôi đã bảo người làm việc này trước ông là khoảng trưa hãy đến, để xem ông tự xoay xở ra sao. “
Tôi rùng mình khi nghĩ phải ngồi một mình trong buồng giấy lắp kính này.
Ông Maya vừa bóc một phong thư trong đống, chỉ cho tôi xem, vừa nói tiếp:
“Về mặt hàng này ông có thể thảo luôn một thông báo. Ông hãy trả lời là nhà máy rất tiếc không đáp ứng được những yêu cầu ấy… ông hãy trả lời bằng những lời lẽ không làm phật ý khách hàng. “
Ông đi ra.
Sắp loại, ghi chú…?
Tôi xếp tất cả những bức thư thuộc về cùng một mặt hàng vào một chỗ; khốn thay, có hàng đống chuyện trong thư, có rất nhiều mặt hàng!
Tôi không còn chỗ nào trên bàn nữa, tôi buộc phải đứng lên và xếp thư lên ghế của tôi.
Tôi không còn biết ngồi đâu để viết thông báo nữa - tờ thông báo bắt buộc phải lề phép và không làm phật ý khách hàng.
Tôi bắt đầu:
“Thưa ngài,
Đáng tiếc vô cùng mà chúng tôi buộc lòng (Trisle Ministerium)[103]…
Tôi xóa “Trisie ministerium” và viết tiếp:
“Đáng tiếc vô cùng mà chúng tôi buộc lòng phải báo để ngài biết rằng yêu cầu của ngài thuộc về loại những yêu cầu mà chúng tôi không thể… albo notare canillo[104], đánh dấu bằnq một viên sỏi trắng.”
Có nên để albo notare canillo không? Ông Maya sẽ thấy là tôi không nói dối, tôi thật sự có học thức và tôi chưa quên các tác giả của mình.
Không, trong thương mại như thế không được. Nên xóa đi!
Một vết mực rây!… Tôi lấy ngón tay thấm vết mực và chùi lên tóc.
Nhưng tôi lại đánh rớt mực ở chỗ này nữa! Lần này tôi dùng lưỡi.
Hãy viết tiếp:
“Thuộc về loại những yêu cầu mà chúng tôi chỉ có thể đáp ứng được theo những điều kiện mà ngài không thể chấp nhận được, mà vì lý do đó, chúng tôi thấy không cần đề xuất với ngài”.
Sao mà lắm MÀ thế!
Tôi nóng ran cả người! Tôi đứng để viết, lưỡi thè ra, giữa đống thư từ mà tôi rất sợ làm xáo lộn và hơi thở của tôi làm chúng bay lên. Tôi cố tìm cách chúi mũi vào ngực, để cho đảm giấy má khỏi bay.
“Chúng tôi đề xuất với ngài…”
Chà!tôi ưng viết bằng chữ la-tinh hơn! - Hay tôi hãy viết bức thư bằng chữ la-tinh trước đã? Tôi suy nghĩ bằng chữ la-tinh hay hơn nhiều. Sau đó tôi sẽ dịch lại.
Cách ấy được đấy. Nhưng ông Maya tới!
Hai sự kiện làm ông chú ý ngay, là những bức thư được xếp đặt như kiểu bói bài, và màu lưỡi của tôi thè lè ra ở một bên mép.
“Ông có hay mắc chứng sung huyết, không? ông hỏi tôi.
- Thưa ông, không.
- Là vì lưỡi ông tím bầm!… Nếu quả bị sung huyết thì phải chích máu tai ngay tức khắc…
- Thưa ông, vâng.
- Tại sao ông lại rải thư từ ra thế này?
- Để sắp loại, ghi chú…
Ông không cho tôi có thì giờ bác bỏ ý nghĩ rằng tôi đã có thể làm ô uế thư từ khi ngồi lên như thế, và tôi chưa sắp xếp lại xong thì ông đã hỏi tôi bức thư mà ông bảo tôi thảo.
“Ông đọc đi.”
Ông để tôi đọc lúng búng, và khi tôi đọc được ba dòng:
“Ông Vanhtrax, ông nói, ông không có giọng văn thương mại. Tôi thấy có chữ la-tinh trên bản nháp của ông. Dùng chữ la-tinh làm quỷ gì trong thư nhà máy kia chứ!…Ông đừng thất vọng vì những lời nhận xét của tôi. Ít lâu nữa có thể ông sẽ vượt cả người thày dạy ông. Khi nào ông đảm đương được công việc, dù chỉ mới võ vẽ, tôi sẽ trả ông một trăm phơrăng một tháng. Trong khi chờ đợi, ông hãy xếp thư từ lại như cũ… để ông Trupa khỏi bỡ ngỡ… Được rồi… Bây giờ ông ra sân hút một điếu xì gà và rửa lưỡi ở chỗ vòi nước đi.”
Đấy là một mệnh lệnh, một câu bông đùa, hay một lời khuyên? Tốt nhất là đừng để bị quở trách.
Tôi ra rửa lưỡi ở chỗ vòi nước.
Rửa xong, tôi đi dạo quanh. Tôi cố làm ra vẻ tự nhiên.
Những người thợ nhìn tôi soi mói qua các ô kính vỡ của nhà máy.
Tới một lúc, tôi gặp một ông to béo, không râu, vẻ nghiêm trang, da nhẽo. Ông đưa mắt nhìn tôi, một cái nhìn lạnh lùng, chán ngán, lăng nhục.
Đấy là ông Trupa.
Ông Maya ra hiệu cho tôi quay vào.
Người ta giới thiệu và thỏa thuận là tôi sẽ học việc con người to béo da nhẽo ấy một tháng.
Ông Trupa miễn cưỡng làm nghề huấn luyện, hoặc giả trong các nhà máy vốn thế? Tôi không biết, nhưng mỗi sáng ngủ dậy, cứ nghĩ mình sẽ ở bên cạnh ông ta tôi lại run lên, vì ông ta có vẻ thầy tu và giá lạnh quá! còn tôi thì đầu óc đần độn quá!
Mặc kệ, tôi sẽ cứ ở lại! cho tới khi tôi thạo việc và biết thảo thư từ theo thể thức: “Phúc đáp quý thư trong tháng — Mong ngài vui lòng tiếp nhận!”.
“Mong ngài vui lòng tiếp nhận! “
Lần đầu tiên ông Trupa nói câu ấy, tôi ngỡ ông tươi tỉnh ra và mở đầu một bản tình ca.
“Mong ngài vui lòng tiếp nhận tờ hối phiếu!” Ông nói tiếp, giọng người hát lễ!
Tôi là một thằng ngốc.
Hết tháng, ông Maya cho gọi tôi đến.
“Ông Vanhtrax, quả tình tôi không thể giữ ông lại được! Như thế là làm mất thì giờ của ông - cái đó không lương thiện và cũng không bổ ích gì cho tôi cả.
Chính tôi có lỗi vì đã có thể nghĩ rằng một thanh niên có học thức và trí tưởng tượng sẽ thông thạo phương pháp và ngôn ngữ thương mại. Ông sẽ không bao giờ có được điều cần thiết. Ông có cái khác, nhưng ông ở lại dày thì thật là điên rồ. Ông đừng nghĩ tới thương mại nữa, hãy tin tôi, và hãy tìm một con đường thích bợp với trí thông minh và học thức của ông.”
Tôi đã đi qua sân giữa hai dẫy bàn mộc kê sát vào cửa kính chạy dọc theo xưởng thợ.
Một anh thợ học việc nghe lỏm được câu chuyện đã truyền đi tin thất bại của tôi.
Thật là buồn khi phải đi qua lưới lửa của lòng thương hại đó.
Trí thông minh - học thức của tôi! Người ta làm thế nào để trở thành ngu xuẩn? Người ta làm thế nào để quên được những điều mình đã học? Có ai hãy mau bảo tôi! Hãy kêu lên cho tôi biết, hỡi các anh, không đi học và vẫn kiếm được miếng ăn hàng ngày!
Chú thích:
[101] Giáo sư bút thiếp đã xuất bản cuốn: “25 bài tập viết”.
[102] Nhân vật trong tiểu thuyết Nhà thờ Đức Mẹ Pari của văn hào Pháp Victo Huygô.
[103] Tiếng la-tinh: Một công việc đáng buồn.
[104] Thành ngữ la-tinh, tỏ ý vui mừng: đánh dấu bằng một viên sỏi trắng (màu trắng đối với người La-tinh là màu hạnh phúc, màu đen la màu tai họa).