- XXX - DƯỜI MÁI RẠP ÔĐÊÔNG (Odéon)
Tôi không gặp một người bạn cũ nào từ khi tôi chạy kiếm việc ở nghề buôn. Họ không thể giúp được gì tôi hết.
Hơn nữa họ sẽ chế giễu tôi!
“Vanhtrax” đi làm thầy ký hiệu buôn!
Tôi tới tìm Lơgrăng...
“Chúng mình sống riêng rẽ thật là buồn. Cậu có muốn chúng mình ở với nhau không? “
Lơgrăng vồ ngay lấy ý kiến đó.
Thế là thỏa thuận, chúng tôi sẽ chỉ có một mái nhà, một ngọn lửa và một cây nến. Như vậy sẽ đỡ tốn kém, hơn nữa chúng tôi sẽ sát cánh nhau chống nạn đói. Thế là chúng tôi thuê một buồng sẵn đồ đạc có hai giường ở phổ Trường-thuốc.
Thật là tối tăm, thật là buồn rầu, đàng trước trông ra một bức tường đầy vết rạn nứt, đen vì bồ hóng, cũ kỹ, hư nát. Căn buồng ở trên một mảnh sân sâu, chó sói rớt xuống cũng chết!
Chúng tôi sống như những người anh hùng, chúng tôi sống một cuộc đời chay tịnh; sáu tháng trời chúng tôi không ra tiệm cà-phê tới ba lần, nhưng chúng tôi cũng không nhích thêm được một bước, không đặt được một dòng chữ, cả hai người không kiếm được lấy mười xu! chúng tôi đã đọc vài quyền sách thuê ở một phòng đọc ba phơrăng một tháng. Người ta không bắt chúng tôi ký quỹ, vì người ta đã nhẵn mặt chúng tôi ở khu phố này từ đời kiếp nào rồi.
“Tôi rất biết anh ở dưới mái rạp Ôđêông”, cô Budanh nói, cô trông coi phòng đọc ở phố Cadimia Đơlavinhơ.
Người ta có thể quen biết chúng tôi! Ôđêông, đấy là câu lạc bộ và nơi trú của chúng tôi! Khi tới tìm sách đọc ở đây, chúng tôi có vẻ con nhà văn mà đồng thời lại tránh được mưa. Chúng tôi tới đấy khi chúng tôi chán cái im lặng hoặc cái hơi hưởng của căn nhà tồi tàn của mình!
Tôi đã đi dạo trong những hành lang bằng đá ấy một thời gian bằng bốn năm tròn; nếu đếm những bước đi đi lại lại, thì tôi ắt đã đi vòng quanh thế giới tới ba lần. Vả chăng, có thể cộng lại khác thấy.
Sáng nào cũng vậy, sau bữa ăn sáng, một cuộc đi dạo; tối nào cũng vậy, sau bữa ăn tối, một cuộc khác, kinh khủng, vô tận!
Chúng tôi hầu như là những người độc nhất cầm cự được lâu như thế; hai chúng tôi, và một vài nhân vật kỳ quặc, mà người quan trọng nhất mặc một bộ đồ đen, đeo kính cặp mũi, đi giầy thủng và không bít-tất. Tên ông là Kêra, thì phải; ông thuộc phái bảo hoàng chính thống[105], vợ ông làm nghề thợ giặt.
Ông đảng viên chính thống này có một nhóm nhỏ những anh bít-tất thủng cũng như ông - cũng đảng viên chính thống - họ tới tìm ông ở đấy, và họ đóng vai bọn lập dị, họ vừa nói tới Nhà Vua vừa xoay người trên những chiếc ủng không đế - trên gót chân tím đỏ vì lạnh, vào mùa đông - đen nhẻm vào mùa hạ.
Cứ nghĩ rằng họ là bảo hoàng với quá ít giầy dép và mặc áo buộc dây thay khuy, chúng tôi thấy gần như cảm phục; nhưng dáng điệu của họ thường rất láo xược. Họ có vẻ nói “bọn dân đen ấy!” và chăm chăm nhìn chúng tôi. Dù sao thì chính kiến khác nhau dứt khoát.
Rạp Ôđêông thuộc về hai phái cực đoan: bọn thuộc phái vua Hăngri đệ ngũ do tay deo kính cặp mũi có vợ làm thợ giặt chỉ huy, - đám cộng hòa cấp tiến mà tôi có vẻ là thủ lĩnh, vì bộ râu xồm và dáng điệu giáo đồ của tôi - bao giờ tôi cũng để đầu trần.
Hiện tôi để đầu trần; điều đó có lý do của nó.
Từ lâu lắm rồi, tôi có một chiếc mũ quá rộng do một anh bạn nhượng lại.
Trước đấy, tôi có một chiếc mũ quá chật. Tôi buộc phải cầm mũ trong tay, quành sau lưng.
Bộ điệu ấy làm cho những đầu óc hẹp hòi, những kẻ có mũ vừa kích thước nhận xét xấu về tôi. Người ta gọi tôi là “chàng điệu”! Tôi muốn làm ra vẻ một nhà tư tưởng, muốn phô vầng trán, vì trán rộng! - “Đó là một thằng tự phụ!”
Tự phụ? - chính tôi, tôi cũng rất muốn đội mũ lên đầu!
(Nhưng chiếc mũ, khi rộng quá nó trùm lên tôi như quả chuông của thợ lặn, và khi hẹp quá thì nó buộc tôi phải đi đứng như anh leo dây. Tôi bị lạnh luôn, vì gió bấc và thật là nhục nhã khi thấy mình có vẻ một người làm kiểu mẫu để vẽ những bức tranh thánh - các bậc thánh bao giờ cùng để đầu trần - hoặc có vẻ một thày tu dòng thánh Frăngxoa đã phá giới và cố ăn vận theo lối dân thường! Tôi không thể đội mũ lên đầu được. Muốn thế, phải có một biến cố lớn, một trường hợp bất ngờ, phải nổ ra một cuộc cách mạng, phải lập một hội nghị dưới mái rạp Ôđêông, rồi tôi được bầu làm chủ tịch, người ta làm ồn ào và tôi tuyên bố bế mạc hội nghị. Tôi sẽ không bỏ lỡ dịp đó để nghỉ ngơi một chút! Nhưng tôi cho rằng còn lâu lắm mới có được sự ngẫu hợp của từng ấy sự kiện và tôi tiếp tục đi đầu trần - như các bậc thánh, các bậc thánh không bao giờ đội mũ - hoặc như một vị chủ tịch vĩnh viễn ngồi họp. Phiên họp của tôi đã kéo dài bốn năm. Tôi đã chủ tọa nó dưới mái rạp Ôđêông, trong các phố, ở khắp Pari! Để nghỉ ngơi ở bên rìa thành phố, tôi chỉ có mỗi quảng trường Macxờ, tôi đến đó để đội mũ lên đầu một lát. Trong khoảng bao la ấy, tôi có thể đội mũ mà không sợ người ta nhầm mình là thợ mò ngọc trai dưới cái chuông máy lặn…
Một đôi lần tôi đã cứu được hạt lúa của người nghèo, lúc tôi xuất hiện bên bờ ruộng, đầu đội mũ và râu phất phơ trước gió… Tôi làm chim chóc sợ, và tôi có ích cho nghề nông. Nhiệm vụ thiêng liêng!
Ôđêông không những chỉ là nơi trú ngụ của chúng tôi để chống lại những cơn trái gió trở trời - đấy còn là phòng đọc sách của chúng tôi nữa. - ba ông chủ hiệu sách ở đấy đều quen biết chúng tôi, thường chuyện trò với chúng tôi.
Thậm chí người ta còn ngờ rằng họ đã trả chúng tôi một số tiền nhỏ để chúng tôi để mắt trông coi quầy sách hộ.
- Chúng chẳng phải vì thích thú riêng mà ở đây suốt ngày, suốt ngày, ông tính! Chúng là do sở cảnh sát phái đến và nhận tiền của nhà hàng để trông xem có kẻ nào ăn cắp sách.
Chúng tôi đã ngăn được bọn ăn cắp xoáy các quầy hàng - vì chúng tôi luôn luôn ở đấy, luôn luôn - và vì chúng tôi đi lại không đều đặn, một đôi khi thình lình quay trở lại như tập kiểu đâm lê, để quay lưng tránh gió tránh mưa, hoặc vì chúng tôi chóng mặt vì quay mãi một chiều. Nếu chúng tôi đề phòng chu đáo, theo quy luật của sự quay vòng, thì bao giờ cũng là không công. Làm bù nhìn đuổi chim, làm người trông coi quầy hàng, cuộc đời tôi như vậy cũng không đến nỗi vô ích dưới vòm trời! Tôi đã đền đáp những người đồng thời ít ra cũng bằng họ cho tôi, bởi lẽ họ chẳng cho tôi gì hết).
Chúng tôi được quyền giở sách ở các cửa hàng bán sách, họ luôn luôn trông thấy chúng tôi.
Người ta để chúng tôi ghé mắt xem những cuốn sách mới. Chúng tôi có thể liếc qua mà đánh giá toàn bộ nền văn học đương thời. Phải liếc mới lọt được con mắt vào giữa những trang sách chưa rọc.
Tôi nói rằng chúng tôi biết toàn bộ nền văn học đương thời, thật ra chúng tôi chỉ biết cái chỗ đã được rọc rồi, chúng tôi chỉ biết được một nửa ngót nghét. Còn rõ một nửa chưa rọc.
Tôi thì tôi phải vất vả - hơn người khác - mới theo dõi được những sách mới, nguyên do vì cái mũ của tôi.
Lúc đầu, tôi đặt mũ xuống đất, nhưng người ta lại tưởng là tôi sắp hát, và khi thấy tôi không hát họ bất mãn bỏ đi - tôi có vẻ như đã hứa rồi lại không giữ lời.
Tôi đành phải thôi không đặt mũ xuống đất nữa.
Các bạn thấy đấy, tôi không thể theo dõi được những bước tiến bộ của tinh thần mới như những người có thể cầm sách bằng cả hai tay mà đọc, cho nên, nếu ai có ý trách tôi dốt nát, thì xin họ hãy suy nghĩ trước khi lên án tôi! Tôi sẽ học tập được, tôi cũng thế, và tôi sẽ hiểu biết được nhiều hơn, nếu như tôi có thể đội mũ lên đầu trong khi đọc, nếu tôi không bị bó tay!…
Bị bó tay!… Cái đó làm tê liệt con người trong chính trị, trong kinh doanh hoặc ở dưới mái rạp Ôđêông!
Thậm chí có lúc tôi không tài nào học được cái gì, không được tí gì hết! Học vấn hiện đại của tôi bị chặn đứng! -vành mũ của tôi đã quá thời rồi… nó rách ở đường kẻ và thật là điên rồ nếu cứ tiếp tục cầm mũ ở vành. Chẳng khác gì cầm cái chén bằng quai dán lại bằng nước bọt.
Nếu không sờ đến nó, vành mũ có thể không rời ra nhưng muốn vậy phải cầm mũ như kiểu mạng bít tất, luồn nắm tay vào trong, hoặc đặt đáy mũ lên bàn tay - như vậy là cả một bên tay trở thành vô dụng!
Đặc biệt, chúng tôi được sự trọng đãi của bà Gô, là bà bán sách tóc hoa râm, cửa hàng ở trước tiệm Cà phê Brútxen.
“Chắc chân các anh phải xầy da, một đôi khi bà bảo chúng tôi.
- Không.
- Vậy thì cóng!
- Vâng.
- Các anh hãy đặt chân lên cái lồng ấp của tôi.”
Bà lấy chiếc chìa khóa cời than, và chúng tôi thay phiên nhau để sưởi.
Bà mẹ Gô tốt bụng!
Tôi không biết bà đã giầu chưa…
Bà nói hơi nhiều - hơi đáo để và kể xấu người khác, nhưng bà tốt bụng.
Bà tốt bụng! Tôi nhớ một hôm bà bảo chúng tôi:
“Tôi sáng chế ra một loại cà-phê sữa - chỉ có tôi là biết cách pha, nhưng tôi không muốn chỉ một mình tôi uống - và bà rót cho chúng tôi hai bát để phần dưới các tờ báo.
Hẳn bà trông thấy chúng tôi xanh xao vì đói! Chúng tôi sống bằng cùi bánh từ hai hôm nay, và bà đã tìm ra cách tế nhị ấy để cứu giúp chúng tôi!
Nếu chúng tôi từ chối, bà sẽ phiền lòng.
Phải bưng bát uống cạn hết để tỏ ra chúng tôi thấy ngon - mà cũng vì nó nóng mà tôi thì lạnh cóng, vì nó lại sức mà tôi thì yếu, vì nó ngon bổ mà tôi thì đói…
May cho chúng tôi đã có thể trả nợ bát sữa và tấm lòng tốt của bà khi Lơgrăng nhận được tiền của mẹ gửi, khi đến kỳ lĩnh tiền hàng tháng của tôi…
Chúng tôi mua biếu bà những bó hoa làm thơm nức quầy sách của bà mẹ suốt cả một tuần.
Bó hoa đã héo từ lâu và hương đã bay nhưng tôi vẫn nhớ bát sữa nóng bà thết chúng tôi một buổi sáng mùa đông…
Không một sự biến! Cảnh đi lượn tẻ nhạt, cuộc đời trống rỗng, rỗng ơi là rỗng!
Tuy vậy một buổi sáng, tôi đã bị xúc động.
Có người đập vào vai tôi.
“Anh không nhận ra tôi à?”
Chắc chắn, là tôi đã từng nhìn thấy bộ mặt này, nhưng tôi không thể tìm ra tên của cái mặt bỏng nhẫy vì mỡ và vì tự phụ ấy.
“Anh cứ nghĩ xem… Một giáo sư cũ của anh…
- Ở Xanh-Êchiên à?… hay ở Năngtơ?
- Ở Xanh-Êchiên..”
Tôi tìm ra rồi - tôi ngỡ là đã tìm ra!…
Ông ấy có vẻ hỉ hả vì đã làm cho trí nhớ của tôi tươi lại, những kỷ niệm của tôi rõ ra.
“Bây giờ anh nhận ra tôi rồi chứ?… “
Phải, tôi nhận ra rồi, nhưng gắng lắm tôi mới có đủ sức để trả lời, mặt tôi chắc là trắng nhợt ra như tờ giấy, và tôi cảm thấy hai chân run lẩy bẩy.
Con người đứng trước mặt tôi mà bàn tay vừa đụng vào tay áo tôi là một giáo sư cũ của tôi, một buổi sáng kia đã tát tôi - một buổi sáng thứ ba; tôi không quên ngày, tôi quên giờ; tôi nhớ lúc ấy, ánh nắng rực rỡ bao nhiêu và đau đớn bao nhiều trong lòng, nước mắt bao nhiêu trên mặt!
“Anh là con trai một bạn đồng nghiệp cũ của tôi, Ông Vanhtrax?…
- Đúng, ông đã nhận ra tôi - Tôi cũng nhận ra ông - Tên ông là Tuyêcfanh, và ông là tên đao phủ của tôi ở trường học…”
Giọng tôi rít lên, bàn tay tôi run run.
“Ông đã lạm dụng chức vụ của ông, ông lạm dụng sức lực của ông, ông lạm dụng sự yếu đuối và cảnh nghèo của tôi… Ông là thầy, tôi là trò… thầy tôi là giáo sư,. - Nếu tôi đã cho ông: một nhát dao như tôi hằng ao ước, người ta sẽ bỏ tù tôi. Tôi cóc cần, nhưng người ta sẽ cách chức thầy tôi… Bây giờ thì tôi tự do và tôi tóm được ông!…”.
Tôi nắm lấy cổ tay hắn.
“Tôi tóm được ông, và tôi sẽ giữ ông đủ thời giờ nói cho ông biết rằng ông là một thằng hèn nhát; đủ thì giờ để tát vào mặt và đá vào đít ông nếu ông không hèn nhát cho đến cùng, nếu ông không chịu nghe tôi chửi như tôi muốn và cần phải chửi vì ông đã rơi vào tay tôi…”
Hắn cố sức gỡ ra. - Ồ! không. - Tôi vặn cổ tay! - Học sinh Tuyêcfanh, không được cựa quậy!…
Hắn cổ sức.
“Chà! cẩn thận đấy, không tôi bợp tai ông lập tức! Đồ hèn nhát đê tiện! ngươi đã cả gan tới bắt tay ta vì to lớn, lực lưỡng… vì ta là người lớn rồi… - Hồi ta còn nhỏ, mi đánh ta như mi thường đánh tất cả những người nghèo khổ.
Ta không phải kẻ độc nhất bị mi hành hạ - ta còn nhớ đứa bé bị què và đứa con trai của người đàn bà có nhân tình bao. Mi đã khiến người ta cười nhạo tật nguyền của đứa bé què - mi đã làm đứa kia phải đỏ mặt vì mi bô bô nói đến nghề của mẹ nó ngay giữa lớp học!… Đồ khốn nạn!…”
Tuyêcfanh vùng vẫy; mọi người xúm lại.
“Chuyện gì thế?
- Chuyện gì à?”
May thay! lúc đó có một toán học sinh đi qua, tôi liền dẫn Tuyêcfanh đến.
“Câu chuyện là thế này!… Chẳng là ông này là một trong số những tên là mặt mô phạm vẫn hành hạ trẻ con yếu đuối ở trường học.
Chẳng là khi ta gặp lại ở đời một trong số những quý vị ấy, thì ta phải bắt hắn đền bù những bất công và độc ác hồi xưa - Các em nghĩ thế nào?
- Đúng! đúng!
- Quỳ xuống! đội mũ tai lừa! một vài đứa bé kêu lên.”
Hấn cố để thanh minh, hắn lắp bắp. Hắn muốn thoát khỏi vòng vây. Vòng vây giam hãm hắn và đấm đá hắn túi bụi.
“Quỳ xuống! đội mũ tai lừa!…”
Đám học sinh đã gấp một tờ báo làm mũ tai lừa và xông lại hắn. Tôi bỗng cảm thấy thương bại, - tôi nói dối, không phải thương hại, mà là khó chịu vì tiếng ồn ào, là sợ xảy ra chuyện lôi thôi. Câu chuyện đã xé ra to quá. Người ta sẽ đánh chết hắn mất - tôi sẽ phải chịu trách nhiệm… Tôi cố hết sức gạt đám đông ra và vừa thả Tuyêcfanh vừa nói!
- Thế là đủ rồi… Tao tha cho mày… cút đi… Đừng để tao gặp lại mày trên dường đi của tao nữa, trừ phi là mày muốn đánh nhau với tao…
Tôi ngoáy tên và địa chỉ của tôi lên một mẩu giấy và đập vào mặt hắn! rồi tôi đề nghị mọi người để cho hắn đi.
Hắn chạy trốn, bị những tiếng la ó đuổi theo.
“Cậu tàn nhẫn quá, một anh bạn bước ra khỏi đám đông bảo tôi.
- Tôi nhát gan thì có. Đáng lý tôi phải nhổ vào mặt hắn mười lần. Đáng lý tôi phải làm hắn khóc như hắn đã làm tôi khóc hồi tôi còn đi học.”
Tôi vội đi tìm hai người bạn thân - họ đã túc trực suốt hai ngày liền đề phòng trường hợp Tuyếcfanh cử nhân chứng đến.
Ồ! tôi có cái gì sẽ bỏ ra cả - tám ngày bánh ăn của tôi - để mặt đối mặt với hắn, vũ khí trong tay, và tôi sẽ sẵn lòng nhận một vết thương với điều kiện là cũng làm cho hắn bị thương.
Tôi nhớ lại buổi sáng thứ ba ấy, hôm hắn tát tôi - dạo ấy tôi mười ba tuổi… Từ ngày hôm đó, chỗ mà bị tát trắng bệch ra, mỗi lần tôi nghĩ tới chuyện cũ!…
Vẫn những giờ, những giờ, vẫn những giờ đi đi lại lại - vẫn cái trò liếc mắt xem sách chưa rọc…
Vào những ngày khai diễn, chúng tôi thấy những nghệ sĩ đi qua - đôi khi cả lác giả nữa.
Lão Côngxtăng, gác cổng nhà hát, lần nào gặp chúng tôi cũng chào.
Điều đó có thể có ích cho chúng tôi một ngày nào đó để được nhà hát chấp nhận một vở kịch. Nếu công việc chạy cũng như chúng tôi đi lại hàng ngày[106], chúng tôi sẽ thu lại được tiền hao mòn giầy.
Chú thích:
[105] Phái ủng bộ chi trưởng của dòng họ Buôcbông bị truất năm 1830 và bị chi họ Ooclêăng thay thế làm vua ở Pháp.
[106] Chơi chữ: Marcher có nghĩa là công việc chạy, trôi chảy vừa có nghĩa là đi bộ.