← Quay lại trang sách

- XXX - (2) TÔI SOẠN KỊCH

(Lơgrăng muốn soạn kịch. Với sở thích của anh lẽ tất nhiên! Anh muốn trở nên bất tử bằng sân khấu.

Còn tôi thì sao! Tôi không đi lại kể chuyện đó ở khắp các nơi. Đấy không phải là một thiên hướng không cưỡng lại được như ở Lơgrăng! Và tôi không cần phô trương chuyện đó. Nhưng tôi cũng đã ngấm ngầm thử sức trong thể loại ấy!

- Tại sao anh không soạn kịch, một ông bán rượu vang hỏi tôi, vì đôi lần ông trông thấy tôi vừa bóp trán vừa viết lên những mẩu giấy, và tôi đã từng thổ lộ với ông rằng tôi làm văn học và muốn đạt tới vinh quang.

Ông có một người cháu diễn viên phụ thường sắm các vai công khanh ở cửa Xanh-Mactanh và các vai khách khứa ở rạp Ôđêông. Anh có thể giúp tôi được nếu tôi có cái gì đã hoàn thành - anh đã đưa cho tôi giấy viết - anh làm nghề trang trí ở chỗ ông Fécđinăng Đuyghê là tác giả của vở Cảnh bần cùng. Liên minh giữa cùi bánh mì và khoai tây!…

Tôi sẽ soạn kịch. Thể loại gì? Có cần nói ra không?

Tôi vốn lãng mạn, tôi không thích thời cổ đại. Tôi ưa những thày tu, những lãnh chúa, bọn hề của nhà vua, những tên đao phủ đeo mặt nạ.

Thời kỳ của những món cổ giả đã qua rồi; bây giờ ta cần phải có cái sôi nổi và sinh động. - “Panxămbiơ[107], thưa quí tôn ông! Khi nào gác chuông Xanhlơ-Guyđuylơ điểm giờ thứ mười… Tribulê, Xaltabađil[108]”.

Tôi đã thử và đã vất vả về chuyện màu sắc địa phương!

Mở đầu vở kịch của tôi là một cô thiếu nữ đi gánh nước ở vòi nước ngoài bãi chợ, vừa lúc đó một chàng trai vận áo màu hạt dẻ, nai nịt đai da như thể anh chàng bị bệnh ruột lòi, đứng nấp sau chiếc cột của gian hàng dạ ở góc chợ và nói:

- Jêhan, Jêhan… ôi cô gái thanh tân yêu kiều và trinh bạch… ta thề trước đức thánh bà Guyđuylơ hoặc trước Chúa, em sẽ thành vợ ta!…

Hay thật. Tôi thú vị đọc lại đoạn mở đầu, trong trắng và rất trung cổ ấy. Nhưng phải mất biết bao cố gắng để tiếp tục đứng lại ở thế kỷ mười sáu ấy! Dù tôi đã quen gọi bàn tay và chiếc quần của tôi bằng những danh từ Trung cổ cũng hoài công. Tôi lại muốn chơi trường kiếm và tôi tuốt gươm ở ngoài phố. Sáu tên tiện dân chọi với một trang quý tộc thì thừa hẳn năm người, thế là tôi sử dụng chiếc gậy, thành thử tôi phải đương đầu với những cuộc tranh cãi. Tôi rút đầu rụt cổ lại, tôi cố làm cho mình một cái bướu, tôi giấu chiều dài của cánh tay, tôi rụt cổ tay vào trong tay áo để mọi người ngỡ tôi cũng bất thành nhân dạng như Tribulê va Quađimôđô. Khốn thay tôi lại thô thiển quá! không phải là tàn tật. Người tôi thẳng đơ, thẳng đơ như một nhân vật kịch cổ - chứ không vẹo vọ như một nhân vật kịch mới. Tôi cố gỡ lại bằng cách thét lên: “Địa ngục và đày đọa!” Tôi kêu: “than ôi! than ôi!” và tôi vừa bước đi vừa sùi bọt mép, dừng lại để nói với cái lỗ lò sưởi ở tường như thể đấy là chân dung các tổ tiên tôi - chỗ nào tôi cũng thêm những chữ! và z, như aieulx[109]. Thật là mệt! và khi người ta hỏi tôi mấy giờ, tôi không trả lời mười hai giờ năm phút. Y như trong Huygô:

Một, hai, ba, bốn, năm, sáu, bảy, tám, chín, mười, mười một, Mười hai giờ vừa điểm trên chiếc đồng hồ đồng đen.

Không bao giờ tôi nói phút cả. Tôi không thể nói được phút. Buổi tối đến, tôi nói như những người đi tuần đêm. Mười một giờ rồi! Hỡi dân cư thành Pari, hãy ngủ đi!… Tôi đã sống như vậy mấy tuần lễ, làm người đi tuần, làm kẻ tiện dân, làm anh học trò. Nhưng cuối cùng tôi không chịu nổi. Tôi đâm ra đi cà nhắc thật, chân khập khiễng, và tôi hỏi con gái tôi ở đâu. Mọi người trong nhà ngỡ tôi đã có con. Tôi gọi: Exmêranđa[110]! bà gác cổng chạy lên. Tôi đóng vai quý tộc kém, vì tôi ưỡn người lên quá, tôi cứ đập đầu vào tường. Tôi quay về với những vai cổ quái. Phải chăng đấy là khuynh hướng thuộc bản chất tôi, đồng thanh đồng khí, hay vì làm thằng hề của nhà vua và làm người kéo chuông thì đỡ bị cụng đầu hơn, dù sao thì tôi ưng sắm vai cổ quái hơn vai quí tộc.

Vở kịch của tôi, nếu viết xong, sẽ thuộc trường phái những kẻ xuyên tạc Huygô. Tôi dừng lại, mình mẩy ê ầm ở cảnh một trang kỵ sĩ hỏi xem người ta có trông thấy qua đây ba chàng công tử trong đó một chàng cắm chiếc lông trắng ở mũ hoặc đính một chiếc nơ xanh ở vai. - Một chiếc nơ xanh, thì đích chàng ta rồi! - Buồng tôi ở bé quả và sát mái quá không thể làm những vở kịch trung cổ được. Muốn vậy phải bắt họ ngồi, như thể tôi cho là không lương thiện! Ai lại mô tả trung cổ ngồi! “Hãy lên ngựa, lên ngựa, các ngài! Chà! con ngựa trạm này đi chậm quá… Liệu tôi đến có kịp không, hỡi đức thánh bà Guyđuylơ, vị hộ mệnh của tôi, hãy cho tôi biết!”

Tôi đã chọn thánh Guyđuylơ và tôi lạm dụng bà thánh đó!

Vậy là tôi bỏ thời trung cổ, tôi không thể đụng tới khung cảnh đồ sộ ấy - nhốt bản hùng ca ấy, nhét tất cả các tướng sĩ ấy, cổng lâu đài, ngục tối, hầm ngầm, đoạn đầu đài và kẻ đao phủ bịt mặt vào trong một gian buồng mười phơrăng được! Ít nhất, hỡi đức thánh bà Guyđuylơ, ít nhất tôi phải được ra chỗ khoang gác nhưng người ta lại không muốn thế! Tôi làm ồn quả. Một lần tôi cần ra khoang gác để bắt chước cảnh tiện dân nổi loạn và đã gây ầm ĩ kinh khủng!

Đuyboa[111] là dân Pari chính cống, anh đi xem kịch từ năm lên mười tuổi. Khi học thợ, anh đã giành được thì giờ đóng vai phụ trong các vở kịch thần tiên lớn; anh đóng vai quần chúng đông đảo như nhiều người khác. Khi làm thợ, anh quen biết những tay trùm vỗ tay thuê và được vào xem không mắt tiền ở các rạp hát đường phố - thành thử khi anh gặp nhà thơ, khi nghe họ nói chuyện văn chương với bạn bè thì anh thấy rằng anh, Đuy-boa, người thợ thuộc da, anh cũng biết bằng họ, hơn họ nữa hàng đoạn thơ dài, tất cả những cảnh chủ chốt; anh lại còn làm được điệu bộ - mà những người khác không làm nổi hoặc làm vụng! Anh tự nhủ thầm: “Mình cũng có một cái gì ở đây! “Và Đuyboa quẳng thuốc thuộc da đi và Đuyboa không muốn làm thợ thuộc da nữa dù cho anh tất cả vàng thế gian. Anh tự cho mình là nhà văn. Anh để những người khác viết Những bài thơ cổ, Biểu tượng và hiện thực hoặc Rơfaelô. Anh đã viết, anh viết Pie người bắn súng hỏa mai. Anh đã đọc, chắc hẳn anh đã đọc Pie người bắn súng hỏa mai cho Lơgrăng nghe; với tôi, anh chỉ vẻn vẹn kể lại sườn vở kịch - mà cũng chỉ là để khỏi có vẻ bất lịch sự với tôi, nhưng trong thâm tâm, Đuyboa rất coi thường những ý đồ văn chương của tôi.

Anh đã nghe tôi than phiền về thời Trung cổ, anh đã trông thấy tôi bực tức xoa bướu trên đầu! Thế ra chỉ vì một vài lần bị đau, vì gian buồng hẹp quá, mà tôi bỏ cả một thời kỳ lịch sử? Tôi sẽ thay thời Trong cổ bằng cái gì? Tôi có một ý mới mẻ nào không? Xem nào, đã khá lâu tôi chỉ phê bình mà không nói xem tôi sẽ lấy cái gì thay vào đó. Ý kiến của tôi ra sao! Cậu hãy trình bày xem nào, - và anh ngả người vào ghế bành (bao giờ anh cũng chiếm lấy cái ghế bành, như thế cũng khá khó chịu rồi) - những quan niệm của cậu về kịch! Thôi, tôi nghe đây!

Anh bỏ một dúm than vào lửa, lấy đầu chiếc cặp vun than lại để chỉ cho tôi thấy rằng anh sẽ chú ý lắng nghe. Đó, lửa bén rồi. Bây giờ đến quan niệm của tôi về kịch!

- Thế nào, ý kiến cậu thế nào. Cậu hiểu kịch ra sao? Cậu thích loại kịch gì?

- Loại kịch trong đó người ta được ngồi thoải mái, có mùi cam và có buồng tốt. Đấy, loại kịch mà tôi thích, nhưng đấy không phải là một lý thuyết cũng không phải là một ý kiến.

Tôi không vội trả lời, tôi vờ đánh rơi một cái gì, hoặc xếp lại một vật gì đó trên lò sưởi - tôi nhắc lại câu hỏi để lấy lại bình tĩnh: “Anh muốn biết ý kiến của tôi về kịch, và tôi thích loại kịch nào à?

- Phải, chính là điều Đuyboa hỏi cận đấy” Lơgrăng nói với tôi, vẻ mặt cố làm ra thân thiện; tôi thấy rõ trong thâm tâm anh muốn thấy tôi bí.

Tôi chưa tìm thấy gì cả, lưỡi tôi líu lại, Tôi xếp lại quá nhiều vật trên lò sưởi. Tôi cầm lấy cái cặp than ở tay Đayboa chứ không trình bầy lý thuyết của mình, và tôi đập lên ngọn lửa tưởng như tôi bỗng nhận thấy nó có chỗ làm không đúng cách, như thế cũng không ổn! Đuyboa thường vẫn tự phụ về cách nhóm lửa của anh. Thậm chí anh lại có bí quyết riêng để nhào một thứ bột bằng tro nhão với bụi than nó đông vỏ cứng lại. Tôi đập vở vỏ cứng đó mà không nói ý kiến của mình về kịch. Tôi lúng túng.- Chà! tôi bí. Lơgrăng có thể xoa tay.

Lời cuối cùng của Đuyboa làm tôi điếng người.

- Anh bạn thân mến ạ, khi người ta không biết hơn anh thì nên đi làm thợ thuộc da chứ đừng làm nhà văn.

Buổi tối ghê gớm! đã hạ tôi xuống địa vị thấp kém trong nhà. Không cần để nài ép tôi tự ý chạy những công việc vặt. Chính tôi tự động đi lấy nước cho Đuyboa nhào bột than, chính tôi đi mua rượu khi nào có tiền mua rượu. Tôi đi đổ tro, không cần ai phải nhắc nhở.

Cái đêm xảy ra cảnh thảm hại ấy, tôi nằm trên giường suy nghĩ rất nhiều về những điều đáng lẽ mình phải nói, những điều mình cần đáp lại.

Đôi khi, ra khỏi một cuộc trò chuyện trong đó tôi bị hố, tôi mới tìm ra những điều đáng lý phải đáp ngay lúc ấy. Tôi chỉ việc quay trở vào. Nếu có ai giúp tôi, nhắc tôi một câu (mà chúng tôi đã giao hẹn trước với nhau), tôi sẽ độp lại được lập tức bằng một lời ý vị. Những trường hợp ấy, tôi tự đấm ngực vì đã không tìm ra được ngay tại chỗ. Nhưng lần này là sự suy sụp, suy sụp đơn thuần. Dù cho tôi một năm nữa, tôi cũng không tìm ra được điều gì hơn. Tôi đành bỏ cuộc! Tôi không tìm được gì khác ngoài những điều tôi đã nói, trong khi chọc vỡ vỏ than cứng và xê dịch những vật bày trên lò sưởi.

Về phương diện kịch, tôi thích những vở làm tôi thú vị và tôi không ham những vở không làm tôi thú. Đó là ý kiến của tôi, không có gì hơn.

Đuyboa bản tính không độc ác. Anh không phải hạng người làm người khác đau khổ để mà thích thú. Anh không thuộc những kẻ lợi dụng một sự ưu thế dễ dãi để đè bẹp những người kém mình và thiếu thông minh. Về phía Lơgrăng thì anh không thể biểu lộ niềm vui thầm kín khi thấy tôi???. Và chính ra tôi được mọi người ân cần hơn là bị ruồng rẫy! Nếu tôi bảo người ta hành hạ tôi là tôi nói dối. Tôi không bị hành hạ. Thậm chí hai ba lần họ đã giật lấy chiếc thùng trong tay tôi khi tôi đi lấy nước hoặc đi đổ tro. Họ cảm thấy rõ rằng nếu tôi không có lý luận về kịch, thì không phải lỗi tự tôi, và họ không muốn hạ tôi xuống vai trò đày tớ. Tôi còn cảm thấy bây giờ họ có phần quan tâm làm những việc mà trước kia họ không muốn mà, họ tỏ ra tế nhị. Họ đã cư xử rất tốt trong trường hợp này, không thể nói ngược lại được. Nhưng Đuyboa thắng thế. Người ta chỉ còn chú mục lời anh; sân khấu thuộc về anh, dứt khoát từ cuộc đại bại của tôi. Lơgrăng dỏng tai lắng nghe anh kể về những tối biểu diễn lớn ở đường phố, về Frêđêric Lơmêtrơ, Mêlanhgơ… Nhưng Mêlanhgơ thì mới quá. Fêđêric (họ chỉ gọi Fêđêric trống không) thì bị gẫy trong vở Đenơry. Theo tác giả Pie người bắn sung hỏa mai, có một diễn viên diễn vở kịch ấy giỏi hơn bất cứ ai [khác]. Nếu mày đã thấy Lôckroay trong vở đó!

Lôckroay, mọi người chỉ nói đến Lôckroay, Lôckroay chỗ này, Lôckroay chỗ kia. “Ông ta đi ủng mềm làm sao!”

Tôi thì tôi đi giầy rất cứng. Người ta sẽ bảo là tôi muốn vây vo – không phải, xung quanh tôi nhiều người đi những đôi giầy làm họ đau chân và không ai, chẳng ai đi ủng mềm hết.

Đôi khi Đuyboa thay đổi lối nói! “Ông ta trông như đứng trong cái phễu!” – cái phễu của đôi ủng!

Kịch trung cổ ư? – Tôi suy nghĩ thế nào đã nói như thế! – Đuyboa, cậu nghe đây! Tôi không thích kịch trung cổ! Hôm nọ tôi đã không trình bày được, - hôm nay tôi cũng chưa trình bày được, thật đấy, nhưng Đuyboa ạ, nếu cậu muốn biết hết! thì đây, tôi đã chán ngấy những lãnh chúa, những tướng sĩ, những kẻ mang cổ áo xếp mầu trắng ( - tôi ưa những quả dâu đỏ tẩm đường và rượu hơn - ) mang tay áo bông ( - tôi ưa món xúp[2*] hơn - ) đeo gươm ngang lưng (- tôi chán đến chết nếu phải đeo gươm ngang lưng - ) khoác những chiếc áo choàng rộng mầu vàng ( - tôi cũng đã có một chiếc áo choàng mầu ấy, tôi đã chán nó lắm rồi!) Họ tới đánh nhau dưới những cột đèn, họ bắt cóc phụ nữ! họ đã đánh ngã gục kẻ khác! Làm như là bây giờ người ta còn có thể đánh ngã gục kẻ khác và bắt cóc phụ nữ! Bây giờ thì có mà đánh cái cóc khô, mọi sự đã đổi khác rồi! Chúng ta đã thoái hóa rồi! Nhưng sự thể nó như thế đấy!

Tôi lại thấy hình như bây giờ người ta không còn vận nhiều loại vải mầu mận, mầu cặn rượu vang, màu lá nho thường dùng để cắt áo chẽn của đám tiện dân, cũng không còn vận loại lụa xanh nhạt, tím nhạt, mầu lơ nhạt thường dùng để cắt áo cho bọn đại lãnh chúa. – Không còn những bọn công tử tột nữa! Tôi không thấy ở đâu có bọn công tử bột ấy. Sự thật thì tôi cũng ít ra khỏi khu phố của tôi. Bây giờ là các bà ăn vận những loại lụa đó và đeo nơ hồng ở cổ. Tôi đã trông thấy ở tầng dưới rạp Variêtê một ông nhỏ bé đeo một chiếc nơ hồng – nhưng ông ta bị mọi người rất coi khinh – người ta xì xào, phụ nữ làm những dấu hiệu kinh tởm và một vị trí thức có mặt ở đấy đã nói: Một gã sủng thần của vua Hăngri III.

Về mũ thì hiện nay chỉ còn bọn hề và các nhà nhiếp ảnh mới đội mũ nhọn có dải băng mầu quấn xung quanh – và những người thôi kèn biniu[3*] nữa. Tôi quên mất những người thổi kèn biniu.

Còn về da? Bây giờ người ta không còn mang nhiều da như trước nữa! găng da, bắp chân bằng da, ve áo bằng da màu bánh mì, rất không hợp với mầu mơ mà thời Trung cổ dùng nhiều. Tôi không quên mầu quả mơ. Về quả thì tôi thích đào hơn, về mầu thì tôi thích mầu đen hơn.

Lơgrăng bàng hoàng nhìn tôi.

- Nhưng Victo Huygô đã đặt toàn bộ các vở kịch của ông vào thời Trung cổ, chỉ vào thời Trung cổ thôi! – Nhưng tôi đã ngán cái cảnh bị cộc đầu khi muốn làm Tribulê, làm Xêza đờ Bazăng! – mà không có giấy chứng nhận gì cả!

Tôi chỉ còn kịch hiện đại, loại kịch sống, tức là có tất cả những dục vọng, những cái lớn lao và những tệ lậu của thời đại chúng ta… những cái xảy ra trong phòng khách… ngoài phố. Ngoài phố thì thuận tiện, nhưng trong phòng khách! Tôi sẽ phải đi vào xã hội thượng lưu để mô tả phong tục giai cấp quý tộc. Tôi không có đủ quần áo. Tôi chỉ có những thức đang vận trên người – và một chiếc quần thay đổi.

Tôi vẫn có thể có những dục vọng, những cái lớn lao và những tệ lậu của thời đại tôi…

Tôi định đưa lên sân khấu nỗi lo lắng của một cô gái sắp sa ngã, nhưng tôi không biết gì về chuyện đó cả. Alêcdăngđrin lại không có lo lắng… Hay ít ra là tôi không bắt chợt thấy cô ta lo lắng bao giờ… Cô ta chỉ đơn giản nói: Có chiếc rèm che như thế này, anh thấy không, ai ở bên kia sẽ không nhìn thấy chúng mình, cửa kính như thế này sẽ rất thuận tiện.

Tôi có nên nói về những cửa kính ấy không! Tôi có nên nói về những người thợ mộc, nói rằng có mùi dầu thông, rằng trái tim tôi kêu lên bảo tôi: miễn sao công việc trang trí cứ kéo dài vào! Tôi có nên đặt người đàn ông đang yêu ở đàng sau vách, giữa những lọ cồn và những cuộn giấy in hoa hay không?… Tôi chỉ còn nhớ có vậy thôi. Đó là tất cả những gì tôi nhớ được về giờ phút tối hậu ấy. Phải chăng tôi sinh ra để viết những vở kịch sống hay để sống trong những gian phòng người ta quét sơn? Phải chăng tôi có thiên tài trang trí chứ không phải thiên tài sân khấu?…

Tôi muốn mình già, rất già để đã được nhìn thấy và có thể mô tả những cái khác. Trong khi chờ đợi, tôi chỉ có thể đưa lên sân khấu mẹ tôi, thầy tôi, và tôi… Tôi, với những chiếc quần xẻ đũng – hoặc với bộ quần áo học sinh trung học quá rộng, - tôi mà người ta đánh đòn. Liệu có diễn viên bé nhỏ không? Và muốn mặc quần xẻ đũng không? Quần xẻ đũng có được chấp nhận ở sân khấu không? Người đó cũng có muốn để người ta quất roi mình không? – kiểm duyệt có cho phép chuyện đó không?…

Hay tôi viết năm hồi kịch với một tội gốc[4*]. Tất cả có – có bao nhiêu tội nhỉ? … Một, hai, ba, bốn, năm, sáu, bảy.

- Tính kiêu căng! Nhưng Matutxanh đã nhận đề tài đó rồi.

Anh đã bắt tôi thề không được nói ra, anh nhận tính kiêu ngạo về phần mình rồi. Tôi không thể đụng đến vấn đề ấy mà không phạm một điều khiếm nhã. Anh mô tả tính kiêu căng. Anh còn nói cho tôi biết cả nhan đề vở kịch và phô với tôi tờ áp-phích của anh nữa.

Chú thích:

[107] Một câu rủa thường thấy trong các hài kịch cổ, nói trạnh Par le sang de Dieu (máu chúa).

[108] Nhân vật vở Nhà vua vui đùa, của Vícto Huygô, diễn lần đầu tiên vào năm 1832.!

[109] Chẳng hạn aieux (tổ tiên) viễt theo lối chữ Pháp cổ là aiealx.

[110] Nhân vật trong Nhà thờ Đức mẹ Pari của Victo Huygô

[111] Bạn của Lơgrăng.

[1*] Diễn viên, sau trở thành tác giả, viết nhiều hài kịch và ca kịch hài hước (1803-1891).

[2*] Chơi chữ không dịch được: fraise vừa có nghĩa là cổ áo xếp, vừa có nghĩa là quả dâu; bonillon vừa có nghĩa là tay áo bông, vừa có nghĩa là xúp.

[3*] Một thứ kèn vàng Brơtanhơ - Pháp.

[4*] Kiêu căng, đố kị, keo kiệt, dâm đãng, tham ăn, nóng nẩy, lười biếng, theo đạo gia-tô, là nguồn gốc của mọi tội lỗi khác.

[5*] Chơi chữ: Envie vừa có nghĩa là đố kỵ vừa có nghĩa là thèm muốn.

[6*] Của Mơlexvin và Saclơ Đuvâyriê; vai chính do Buffê sắm thật.

[7*] Tác gia kịch được ưa chuộng thời ấy (1811-1899).